Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Qua khảo sát thực tế một số tỉnh phía Bắc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 181 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THU THỦY

ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN
MẦM NON Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Qua khảo sát thực tế một số tỉnh phía Bắc)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THU THỦY

ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN
MẦM NON Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Qua khảo sát thực tế một số tỉnh phía Bắc)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS Nguyễn Văn Huyên
2. TS Ngô Thị Thu Ngà



HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN

1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về đạo đức, đạo đức
nghề nghiệp của giáo viên mầm non
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng đạo đức nghề nghiệp của
giáo viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
1.3. Những công trình nghiên cứu về phương hướng, giải pháp nâng cao
đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Ở VIỆT NAM


2.1. Đạo đức nghề nghiệp và tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp
đối với giáo viên mầm non
2.2. Nội dung những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên
mầm non ở Việt Nam
2.3. Những nhân tố tác động tới đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non
CHƯƠNG 3: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA (Qua khảo sát thực tế một số tỉnh phía Bắc)

3.1. Thành tựu và những hạn chế trong đạo đức nghề nghiệp của giáo
viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
3.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế trong đạo đức nghề nghiệp
của giáo viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của
giáo viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Phương hướng
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao đạo đức nghề nghiệp của giáo
viên mầm non ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
1

6
6
18
23
29
32
32
46
56

72
72
91
108
115
115
122
149
151
152
165


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ GD&ĐT

:

Bộ Giáo dục và Đào tạo


CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

ĐĐNN

:

Đạo đức nghề nghiệp

ĐĐTT

:

Đạo đức truyền thống

GVMN

:

Giáo viên mầm non


KTTT

:

Kinh tế thị trường

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non là vấn đề nhận được sự
quan tâm đặc biệt của xã hội qua các thời kì lịch sử. Sở dĩ như vậy vì đây là
một nghề đặc biệt, người giáo viên đảm nhận công tác chăm sóc và giáo dục
trẻ em dưới 6 tuổi, là đối tượng chưa ý thức được hành vi và nhận thức chủ
yếu trên tư duy trực quan. Công việc này không đơn thuần chỉ là một nghề
nghiệp, một phương tiện kiếm sống của người giáo viên; mà bằng nhiều
phương pháp giáo dục các cô giáo mầm non hướng tới việc hình thành nhân
cách, đạo đức tốt đẹp cho trẻ mầm non, giúp các em biết yêu cái đẹp, ghét cái
xấu, cái ác; biết xây dựng các giá trị đạo đức tốt đẹp trong tương lai. Nhà giáo
dục Nga K.D.Usinxki đã khẳng định, việc giáo dục trẻ em, tất cả phải dựa vào
nhân cách của nhà giáo dục. Bởi vậy, để làm tốt được sứ mệnh cao cả của
mình người giáo viên mầm non phải có chuyên môn vững vàng, lối sống
trong sáng, nhân cách tốt đẹp, trên hết là tấm lòng bao dung, nhân ái của
người mẹ, tận tâm chăm sóc, nuôi dạy trẻ mầm non; trong đó đạo đức là phẩm

chất quan trọng nhất. Điều này có nghĩa, đạo đức nghề nghiệp của người giáo
viên đóng có vai trò là mục tiêu, động lực giúp cho đội ngũ này hoàn thành
nhiệm vụ giáo dục vẻ vang của mình, là “người mẹ hiền thứ hai” trong công
tác chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất đề cao đến vai trò của đạo
đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non. Người đã khẳng định:
Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì phải
yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy
được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non
được tốt thì sau này cây lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này các cháu
thành người tốt. Anh chị em giáo viên mẫu giáo cần luôn luôn
gương mẫu về đạo đức để các cháu noi theo... [115, tr.509].


2
Lời giáo huấn trên đã khẳng định sứ mệnh cao cả và trách nhiệm của
giáo viên mầm non đối với trẻ mầm non, đối với xã hội; đồng thời cũng
khẳng định, đạo đức nhà giáo là điều không lúc nào và không ở nơi nào có thể
sao nhãng, mà luôn phải quan tâm, giáo dục.
Sau hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục mầm non.
Chúng ta đã đào tạo được nhiều thế hệ giáo viên mầm non vừa có “đức”, vừa
có “tài”, đông về số lượng, mạnh về chất lượng, đang công tác trong các cơ sở
mầm non trên khắp mọi miền, hàng ngày tham gia chăm sóc, giáo dục trẻ; đây
là những cố gắng rất đáng tự hào của đội ngũ này. Tuy nhiên, những tác động
từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng đang đặt ra những yêu
cầu, những vấn đề mà công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho người giáo
viên mầm non không thể không quan tâm giải quyết. Đó là tác động từ mặt
trái của kinh tế thị trường đối với quan niệm về giá trị và lối sống, mà cụ thể
là việc đề cao lối sống thực dụng, coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị

tinh thần, đề cao lợi ích cá nhân, xem nhẹ trách nhiệm xã hội. Đó là sức ép từ
nhu cầu chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày càng tăng trong khi khả năng đáp
ứng về cơ sở vật chất của giáo dục mầm non còn hạn chế. Đó là những hạn
chế trong quá trình tự giáo dục của người giáo viên mầm non, là sự chậm đổi
mới về nội dung, hình thức, phương pháp trong giáo dục đạo đức cho người
giáo viên mầm non ở các trường sư phạm và các trường mầm non... Tất cả
những tác nhân đó đã cản trở đến công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cũng
như đến sự tự giác tu dưỡng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của người giáo
viên mầm non. Còn một bộ phận giáo viên mầm non sống thiếu lý tưởng,
không thiết tha với sự nghiệp “trồng người”, thiếu ý thức chấp hành pháp luật,
nhũng nhiễu gây phiền hà cho cha mẹ học sinh, hiện tượng bạo hành trẻ vẫn
thường xuyên xảy ra gây bất bình trong dư luận xã hội. Điều này đã ảnh
hưởng tiêu cực đến công tác chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non và sự phát
triển ngành giáo dục mầm non. Để khắc phục tình trạng này, đẩy lùi sự


3
xuống cấp đạo đức nghề nghiệp (ĐĐNN) của giáo viên mầm non, đòi hỏi
công tác lí luận phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tìm ra những giải pháp nhằm
nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ này hiện nay.
Xuất phát từ những lí do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề "Đạo đức
nghề nghiệp của giáo viên mầm non ở Việt Nam hiện nay (qua khảo sát
thực tế một số tỉnh phía Bắc)" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về ĐĐNN của giáo viên mầm non (GVMN), luận án
khảo sát làm rõ thực trạng ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề
xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao ĐĐNN của GVMN ở
nước ta trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và xác định những
vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ thực trạng ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam hiện nay
và nguyên nhân của thực trạng đó (qua khảo sát thực tế một số tỉnh ở phía
Bắc hiện nay).
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao ĐĐNN của GVMN ở
Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam hiện nay, với
phạm vi là giáo viên mầm non ở Việt Nam (qua khảo sát thực tế 384 giáo viên
mầm non trên 16 trường mầm non tại một số tỉnh ở phía Bắc, cụ thể là 4 tỉnh,


4
thành phố: Quảng Ninh, Nam Định, Bắc Ninh, Hà Nội). Thời gian từ năm
2008 đến năm 2017 khi Bộ Giáo dục & đào tạo ban hành Quyết định số
02/2008/QĐ - BGDĐT về “Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non”.
- Trong Luận án, người giáo viên mầm non được xác định và nghiên cứu
là những người trực tiếp tham gia giáo dục, chăm sóc trẻ mầm non tại các cơ
sở mầm non. Những đối tượng khác, chẳng hạn, cán bộ quản lí giáo dục mầm
non, cấp dưỡng... chỉ được đề cập trong chừng mực liên quan đến nội dung
các chuẩn mực ĐĐNN của giáo viên mầm non, nhân tố tác động và các giải
pháp nâng cao ĐĐNN cho đội ngũ này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về đạo đức, về xây dựng con người, về giáo dục - đào tạo, đặc biệt là
giáo dục mầm non. Luận án cũng kế thừa những thành tựu của các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới nội dung đề tài luận án.
- Phương pháp luận: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử là phương pháp luận nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ thực hiện
mục đích luận án.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: lịch sử và lôgic, phân tích và
tổng hợp, khái quát hóa, điều tra xã hội học, lý luận gắn liền với thực tiễn.
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án góp phần luận chứng sự cần thiết và làm rõ hơn các vấn đề lý
luận về đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non.
- Thông qua việc phân tích thực trạng đạo đức nghề nghiệp của giáo viên
mầm non ở Việt Nam hiện nay, luận án đã xác định 2 vấn đề đặt ra cần giải
quyết; đồng thời, đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức cho người giáo viên mầm non trong
thời gian tới.


5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ và hệ thống hơn về mặt
lí luận vấn đề ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án cung cấp cơ sở lý luận - thực tiễn cho việc
hoạch định chính sách xây dựng ĐĐNN của GVMN ở Việt Nam trong thời
gian tới.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
giáo dục, bồi dưỡng chuyên đề GVMN ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình khoa học của tác giả
liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận

án được triển khai thành 4 chương, 12 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
ĐẠO ĐỨC, ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đạo đức
Đạo đức là một đề tài rất quan trọng được nhiều nhà tư tưởng quan tâm
và nghiên cứu trong lịch sử khoa học của nhân loại. Ngay từ thời cổ đại, trong
các tác phẩm của các nhà tư tưởng ở phương Đông và phương Tây đã coi đạo
đức là những yêu cầu, nguyên tắc do cuộc sống đặt ra bắt buộc mọi người
phải tuân theo.
Sang thế kỉ XIX, đứng trên lập trường duy vật biện chứng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Ý thức đạo đức là sản phẩm của những hình thái kinh tế - xã
hội cụ thể, nó phản ánh đạo đức thực tiễn của xã hội. Vấn đề này được các
ông trình bày trong các tác phẩm của mình: “Lời nói đầu phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen”; “Lút vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức”; “Chống Đuyrinh”… Như vậy, các nhà mác- xít đã xây dựng
nên lý thuyết về một nền đạo đức tiến bộ trong lịch sử loài người - đạo đức
cộng sản - với những nội dung khoa học nhất và cách mạng nhất.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng đạo đức học mácxít, tác phẩm "Nguyên lý
đạo đức cộng sản" của A.Siskin đã tiếp tục làm rõ nguồn gốc của đạo đức và
khẳng định đạo đức là một hình thái ý thức xã hội: "Đạo đức là một hình thái
ý thức xã hội, nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện
mối quan hệ nhất định giữa người với người trong quan hệ với nhau hàng

ngày" [140, tr.4].
Cuốn sách "Đạo đức học" (2 tập) của tác giả G.Bandzeladze, đã luận giải
về vai trò của đạo đức, làm sáng tỏ nhiều hiện tượng đạo đức xã hội cũng như


7
mối quan hệ giữa đạo đức với "tính người" của con người. Trong tác phẩm
này, G.Bandzeladze nhấn mạnh tới đặc trưng của đạo đức: "Đạo đức của con
người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã
hội" [6, tr.48]. Ông cho rằng đạo đức là “hệ thống những chuẩn mực biểu
hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những người trong quan hệ với nhau
và trong quan hệ với xã hội nói chung" [6, tr.104]. Tác phẩm này cũng đi
sâu phân tích mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, pháp lý, nghệ thuật,….
Ông cũng chỉ rõ những đặc điểm cụ thể của nội dung đạo đức, đi đến khẳng
định: đạo đức là đặc trưng bản tính của con người, chỉ con người mới có đạo
đức, do đó nó phản ánh những đặc trưng của bản tính người (hiểu theo nghĩa
bản chất tiêu biểu nhất và cũng là tốt đẹp nhất của con người). Đạo đức ra
đời từ chỗ quan hệ với con người như quan hệ với chính mình. Trong quan
hệ đối với mình, con người không thể nào tư lợi thì trong quan hệ đạo đức
đối với người khác, con người cũng không thể nào tư lợi. Ở đây nét đặc
trưng cơ bản nhất của đạo đức là "chí công vô tư".
Bản chất của đạo đức chính là sự quan tâm tự giác của những con
người đến lợi ích của nhau.... Khác với hành động bản năng của
loài vật, hành vi đạo đức là ở chỗ: sự quan tâm tự giác đến hạnh
phúc của những người khác có tính chất tự nguyện [6, tr.104].
Tác giả A.G.Xpirkin trong cuốn sách: "Triết học xã hội" [174] đã khẳng
định đạo đức là: "Hệ thống những chuẩn mực xã hội điều chỉnh sự giao tiếp
giữa các cá nhân và hành vi con người nhằm đảm bảo sự thống nhất lợi ích
của cá nhân và tập thể" [174, tr.125]. Với quan niệm như vậy, đạo đức được
coi là "công cụ" để điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và con người trong

xã hội, nhằm tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích cá nhân với cá
nhân, giữa cá nhân với xã hội.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức, các phạm trù cơ bản của đạo đức học mác-xít
thường xuyên được quan tâm trong cả nghiên cứu lý luận và thực tiễn đời sống,
góp phần làm sáng tỏ quan niệm mác xít về đạo đức. Một số cuốn sách tiêu biểu


8
trong nước bàn về đạo đức là: "C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin bàn về đạo đức"
[171]; "Đảng ta bàn về đạo đức" [172]; "Đạo đức mới" [83] đã xác định cơ sở
khoa học của đạo đức học. Đảng ta đã dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin
hướng toàn bộ đạo đức của chúng ta vào sự nghiệp cách mạng, vừa xuất phát từ
yêu cầu cụ thể của xã hội ta ngày nay, vừa phát huy những truyền thống cao đẹp
của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực đạo đức. Theo các
tác giả, nội dung của đạo đức mới hướng vào giải quyết những nhiệm vụ cơ bản
của con người trong chiến đấu, lao động và học tập, trong gia đình, tình yêu, tình
bạn, trong quan hệ thường ngày và đời sống riêng tư. Điều này khẳng định đạo
đức phản ánh đời sống tinh thần của con người, có khả năng điều chỉnh hành vi
mỗi cá nhân hướng tới những giá trị tốt đẹp nhất.
Cuốn "Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin" của Nguyễn Ngọc Long,
Nguyễn Thế Kiệt (Đồng chủ biên) [98]. Giáo trình "Đạo đức học Mác Lênin và giáo dục đạo đức" của tác giả Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ
(Đồng chủ biên) [139]. Các tác giả đều thống nhất khi coi đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, tập hợp các nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực đạo đức
xã hội nhằm điều chỉnh đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội... Trong cuốn "Các dạng đạo đức xã hội" của
Trần Hậu Kiêm và các cộng sự [85] đã phân tích các dạng đạo đức xã hội
qua các chế độ xã hội: xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ đó nhóm tác giả đi đến kết luận: "Đạo
đức là một hệ thống các chuẩn mực xã hội, qui định, điều chỉnh sự giao tiếp
và hành vi xử sự của con người trong quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự

thống nhất lợi ích của cá nhân, tập thể và cộng đồng" [85, tr.112].
Trên những tạp chí chuyên ngành, các bài viết cũng phân tích sâu sắc các
khía cạnh của đạo đức, đạo đức cách mạng. Trong bài “Quan niệm mác xít về
thiện và ác” của Vũ Văn Thuấn [152] đã làm rõ hơn quan niệm của C.Mác và
Ăngghen về các phạm trù đạo đức: thiện, ác, cơ bản “là khái niệm đối lập
nhau… do hình thái ý thức, xã hội và tồn tại xã hội quyết định. Cho nên,


9
muốn tìm hiểu đúng đắn về thiện và ác, không thể chỉ dừng lại ở chỗ giải
thích nội dung của khái niệm, mà phải đi sâu tìm hiểu nguyên nhân đích thực
của nó là tồn tại xã hội, nghĩa là trong phương thức sản xuất của xã hội chứ
không phải ở bên ngoài xã hội hay ở trong đời sống tinh thần thuần túy của xã
hội” [152, tr.37]. Bài "V.I.Lênin bàn về đạo đức cách mạng" của Trần Ngọc
Linh [96] đã phân tích quan niệm của V.I. Lênin về bản chất đạo đức cách
mạng, biểu hiện của đạo đức cách mạng: tinh thần giác ngộ cách mạng cao,
lòng trung thành cao độ với lí tưởng, suốt đời phấn đấu cho lí tưởng cách
mạng, sẵn sàng hi sinh lợi ích của bản thân, thậm chí cả tính mạng vì sự
nghiệp cách mạng và biến lý tưởng thành hiện thực, kỉ luật cách mạng. Tác
giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết "Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý
nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện
nay" [129] lại đi sâu phân tích quan niệm của C.Mác về bản chất của đạo đức,
quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, tiến bộ đạo đức, dự báo về sự hình thành nền
đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Lê Trọng Ân trong bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức" đã nêu ra những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo
đức: "…đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức
nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương
cho quần chúng" [2, tr.16-20]. Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cốt lõi
là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư…Tuy nhiên, mỗi đối tượng khác
nhau thì vận dụng nội dung giáo dục đạo đức khác nhau: đối với đảng viên là

giáo dục tinh thần quên mình vì lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân
dân lao động; với mỗi công dân là giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, giữ gìn
của công; với lực lượng vũ trang nhân dân là giáo dục tinh thần trung với
nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội…
Như vậy, vấn đề đạo đức đã được nhiều nhà khoa học quan tâm,
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra các khái niệm đạo đức,


10
đạo đức mới, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội hiện nay. Kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học nêu trên sẽ là nguồn tư liệu quý để tác giả
kế thừa và phát triển trong những nội dung cụ thể của luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp của giáo
viên mầm non
Đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên là vấn đề luôn nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học. Điều này được quy định bởi tính đặc thù là
ngành giáo dục hình thành nhân cách, đạo đức cho người học. Bởi thế, xã hội
luôn có những đòi hỏi rất cao về chuyên môn và đặc biệt là ĐĐNN ở mỗi
người giáo viên.
Một số công trình nghiên cứu về đạo đức của người giáo viên như: Đề tài
khoa học cấp bộ "Xác định hệ thống các chỉ báo về đạo đức nghề nghiệp của
giáo viên Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thanh Bình [11] đặt cao
tầm quan trọng vấn đề ĐĐNN của giáo viên. Qua khảo sát 247 sinh viên sư
phạm và 183 giáo viên các trường phổ thông, tác giả đã xây dựng hệ thống
các chỉ báo đạo đức giáo viên trên 8 lĩnh vực: yêu cầu về phẩm chất chính trị, ý
thức pháp luật; trong quan hệ với đồng nghiệp; trong quan hệ với học sinh; đối
với giáo viên trong công việc; trong quan hệ đối với phụ huynh học sinh, với
thiết chế nhà trường và các tổ chức trong nhà trường; yêu cầu đạo đức đối với
bản thân; trong quan hệ với nhân dân, cộng đồng, môi trường xã hội; trong quan

hệ với môi trường tự nhiên.
Một công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống và bài bản về lí luận giáo
dục là “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI” của tác giả
Trần Khánh Đức [54]. Trên việc lược sử phát triển giáo dục thế giới và ở Việt
Nam từ truyền thống tới hiện đại, về triết lý giáo dục và các mô hình giáo dục
hiện đại, kinh tế tri thức và đặc điểm của giáo dục trong nền kinh tế tri thức, tác
giả đã đi sâu phân tích vai trò của giáo viên cùng với nhân cách nghề nghiệp
trong nhà trường hiện đại, họ “không chỉ là người truyền thụ cái đã là chính


11
thống mà còn là người đề xướng thiết kế nội dung và phương pháp dạy nhằm
làm thay đổi những thị hiếu, hứng thú người học” [54, tr.160]. Ở góc độ này, cấu
trúc nhân cách nhà giáo được phân chia bởi bốn thành phần: xu hướng nghề
nghiệp (niềm tin, lý tưởng, hoài bão, lòng yêu nghề, nhân văn, tôn trọng người
học), kinh nghiệm nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc điểm sinh học.
Những thành tố trên kết hợp với nhau, có mối quan hệ qua lại, tác động mật thiết
tạo nên phẩm chất và năng lực nghề nghiệp của giáo viên.
Đứng trên quan điểm mác - xít, cuốn sách “Đạo đức học Mác - Lênin và
giáo dục đạo đức” của tác giả Trần Đăng Sinh và Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ
biên) đã phân tích sâu sắc tính đặc thù của đạo đức nghề nghiệp; vai trò của
lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm nghề nghiệp trong việc hình thành đạo
đức về nghề. Từ trên cơ sở lí luận chung đó, các tác giả hướng tới lí giải vai trò
của nhà giáo, đó là những người “truyền thụ tri thức, dạy chữ và dạy người cho
học trò” [139, tr.148], “là cầu nối giữa nền văn hóa xã hội và việc tái sản xuất
nền văn hóa đó ở thế hệ trẻ” [139, tr.153]. Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra các
yêu cầu về đạo đức nhà giáo trong điều kiện hiện nay cần có như: phải biết kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức cao đẹp của nhà giáo truyền thống; mỗi
nhà giáo phải không ngừng nỗ lực rèn luyện, hoàn thiện đạo đức, người thầy
phải gương mẫu về đạo đức, lối sống; phải giàu tình yêu thương, bao dung, độ

lượng, yêu nghề, yêu người, tức là cần có tài, có tâm, có tầm, xây dựng khối
đoàn kết của tập thể. Đây cũng là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cần có để
người GVMN hướng tới và xây dựng.
Trong một chừng mực nào đó, trên các tạp chí chuyên ngành một số bài
viết cũng phân tích sâu sắc các khía cạnh đạo đức nghề nghiệp của người giáo
viên. Tác giả Ngô Văn Hà với "Quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức của
người thày giáo" [63]; Hà Thị Thùy Dương với bài "Từ lời dạy của Bác đến
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của người giảng viên" [30]. Bài viết "Vai trò
của đoàn kết, mô phạm và gương mẫu trong nhân cách người giáo viên" của


12
tác giả Bùi Văn Mạnh, Bùi Mạnh Phong [109]. Các bài viết vận dụng quan
điểm của Hồ Chí Minh hướng tới xây dựng các chuẩn mực đạo đức cơ bản
cho người giáo viên. Đó là các phẩm chất cơ bản: thứ nhất, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Điều đó có nghĩa, trước hết người giáo viên phải tận
tâm làm việc; tiết kiệm thời giờ, công sức; luôn ý thức trách nhiệm của mình,
công tâm, công bằng, khách quan trong đánh giá chất lượng người học. Thứ
hai, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc và ý chí cầu tiến bộ, luôn phấn
đấu không mệt mỏi, đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu ngày càng
cao, đáp ứng được mong muốn của người học và yêu cầu của xã hội, có chí
tiến thủ, tinh thần cầu tiến bộ. Thứ ba, chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh
thần sáng tạo trong công việc, tích cực nghiên cứu, cải tiến trong công tác
giảng dạy và học; áp dụng phương pháp, hình thức giáo dục phù hợp với đối
tượng học viên để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Thứ tư, thân ái, hợp
tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc, gương mẫu với học sinh; có
tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động chuyên
môn, nghiệp vụ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, chung sức vì sự nghiệp giáo dục.
Đề cập một nội dung nhỏ trong luận án có bài viết "Lý luận nhân cách
trong triết học Mác" của tác giả Hoàng Anh [1]. Ở đây cấu trúc của nhân cách

của mỗi cá nhân được tác giả phân định làm 2 yếu tố: phẩm chất và năng lực,
trong đó đức được coi là “gốc”, cơ sở nền tảng của nhân cách, biểu hiện qua:
phẩm chất xã hội (thế giới quan, lập trường, thái độ chính trị - xã hội, thái độ
lao động), phẩm chất đạo đức cá nhân, phẩm chất ý chí, tính kỉ luật, cung
cách ứng xử, sự phát triển cao của ý thức thẩm mỹ. Tài là năng lực hoạt động
được giao với chất lượng và hiệu quả cao. Sự thống nhất giữa phẩm chất và
năng lực, giữa đức và tài mà mỗi cá nhân đạt được trong quá trình học tập, lao
động, tu dưỡng được xã hội thừa nhận như một giá trị đã tạo thành nhân cách
của chính cá nhân đó. Từ góc độ nghiên cứu đó, tác giả chỉ ra tính quy luật
hình thành phát triển nhân cách; đó là vai trò của quá trình giáo dục, tự giáo


13
dục và hoạt động thực tiễn giúp hình thành thế giới nội tâm, tự giác phấn đấu,
cải tạo, xây dựng niềm tin, lý tưởng của bản thân; tác động của nhân tố chủ
quan và điều kiện khách quan, điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó tầng sâu
nhất quy định sự nhân cách con người là quan hệ lợi ích, nhân tố văn hóa.
Trên quan điểm của các nhà quản lí, những yêu cầu về phẩm chất đạo
đức cơ bản của người giáo viên được khẳng định các văn bản pháp quy như:
trong Luật Giáo dục (2005, sửa đổi 2018) tại Điều 70 chỉ ra các chuẩn mực
đạo đức nhà giáo cần có: Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt, đạt trình độ chuẩn
được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ, đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp, lí lịch bản thân rõ ràng, nêu gương tốt cho người học. Điều này có
nghĩa nhà giáo phải là người có lý tưởng nghề nghiệp, nhận thức cao trách
nhiệm công việc của mình với bản thân và cộng đồng xã hội.
Đi sâu về đạo đức nhà giáo, ngày 16 tháng 4 năm 2008, Bộ Giáo dục và
Đào tạo (Bộ GD&ĐT) đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-BGD&ĐT
quy định về Đạo đức nhà giáo. Trong đó điều 4, chương II có qui định cụ
thể về đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên bao gồm: thứ nhất là tâm
huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo; có

tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với
người học, đồng nghiệp. Thứ hai là tận tụy với công việc; thực hiện đúng
điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị, nhà trường, của ngành. Công bằng
trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của người
học; luôn thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng,
lãng phí. Thứ ba là có ý thức thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Văn bản này chính
là định hướng giúp cho đội ngũ giáo viên tự soi mình vào, trau dồi, hoàn
thiện theo yêu cầu trên.


14
Khi đề cập tới đạo đức nghề nghiệp của giáo viên mầm non, trên thế giới
đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm tâm
sinh lí của trẻ mầm non, từ đó đòi hỏi người giáo viên phải hội tụ các chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của mình. Tiêu
biểu như: nhà tâm lí học Hênh - Wallon đã chỉ ra các giai đoạn phát triển tâm
lí trẻ em trong cuốn “Những nguồn gốc và tính cách của trẻ em” [71]; D.B.
Encômn với công trình “Tâm lí học trẻ em” [57], cuốn sách “Chuẩn đoán sự
phát triển trí tuệ của trẻ trước tuổi đi học” của tác giả A.B.Zapôrôjets [177].
Điểm chung của các tác giả này đều chia giai đoạn phát triển của trẻ em theo
3 giai đoạn: thời kì sơ sinh, thời kì ấu nhi, thời kì mẫu giáo. Ở trẻ mẫu giáo, tư
duy trực quan - hình tượng bắt đầu chiếm ưu thế. Khi hành động với các biểu
tượng trong óc, đứa trẻ hình dung được các hành động thực tiễn và kết quả
của những hành động đó. Trẻ dễ xúc cảm với con người và cảnh vật xung
quanh; thèm khát sự trìu mến, thương yêu, đồng thời rất lo sợ trước những
thái độ, thờ ơ lạnh nhạt của bố mẹ, cô giáo. Động cơ đạo đức về những chuẩn
mực hành vi xã hội “được phép” và “không được phép” bước đầu được nhận

thức ở trẻ. Trên đặc điểm đó, người GVMN vừa phải nắm rõ tâm sinh lý, vừa
là người bạn, là nhà giáo dục dẫn dắt trẻ mầm non từng bước đạt mục tiêu
giáo dục. Chính tình yêu trẻ thơ là động lực giúp người GVMN hoàn thành
công tác giáo dục, đây cũng là một trong những phẩm chất đạo đức cần thiết
của đội ngũ này trong GDMN.
Dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm sư phạm của nhà giáo dục V.A
Xukhomlinxki đối với quá trình giáo dục học sinh trong cuốn sách "Trái
tim tôi hiến dâng cho trẻ" [175]. Theo ông tình yêu trẻ, tinh thần nhiệt
huyết với sự nghiệp giáo dục là phẩm chất đầu tiên trong giáo dục mầm
non. Dạy học trước hết là sự giao tiếp tâm hồn. Nếu không có sự giao tiếp
tâm hồn thường xuyên giữa giáo viên và học sinh, nếu không có sự thâm
nhập vào thế giới tư tưởng, tình cảm, rung động của nhau thì không thể có


15
năng lực xúc cảm, đây là yếu tố cốt tử của năng lực sư phạm, năng lực giáo
dục. Người giáo viên chân chính của trẻ là người sẵn sàng hiến dâng trái
tim cho trẻ. Dạy trẻ, phải hiểu trẻ, thương trẻ, tôn trọng trẻ, phải trở thành
trẻ em ở một mức độ nào đó. Giáo dục trẻ em phải hướng vào chủ đích thúc
đẩy sự phát triển đầy đặn và hài hoà toàn bộ sức mạnh về thể chất và tâm
hồn của trẻ. Đó là sự thống nhất hài hoà giữa trí tuệ và tình cảm, trái tim và
khối óc, giữa xúc cảm và năng lực trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, lao động, giao
tiếp - tức là toàn bộ cuộc sống tinh thần, hiểu cả về mặt lý trí và xúc cảm,
mặt thể chất và mặt trí tuệ. Do vậy, đức, trí, thể, mỹ, lao động, học và chơi
hoà quện vào nhau trong một thể thống nhất chi phối hoạt động của đội ngũ
này. Đó chính là các phẩm chất cơ bản trong đạo đức nghề nghiệp của
người giáo viên mầm non.
Cuốn sách "Giao tiếp và ứng xử của cô giáo với trẻ em" của tác giả Ngô
Công Hoàn [74] lại tiếp cận ĐĐNN trên phương diện về “ứng xử”, “giao
tiếp” giữa GVMN với trẻ mẫu giáo, vai trò của vấn đề này trong quá trình

phát triển tình cảm nhân cách con người. Để thực hiện mục tiêu giáo dục của
mình, nguyên tắc ứng xử được hiểu là những quan điểm nhân sinh định
hướng chỉ đạo hành vi tiếp xúc giữa cô và trò, đó là: yêu thương trẻ như con,
em của mình. Hành vi bế, ẵm, vỗ về trẻ của GVMN như tình cảm của người
mẹ dành cho con, tận tụy, khéo léo, dịu dàng chăm sóc trẻ. Cô giáo phải thành
tâm, thiện ý dành mọi suy nghĩ, hành động ưu ái cho học sinh, kích thích sự
phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ cho trẻ mầm non. Hoạt động nghề nghiệp
bồi đắp thêm tình cảm với trẻ mầm non, qua đó ý thức nghề nghiệp của
GVMN được hình thành.
Dựa trên sự tổng kết thực tiễn, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết trong cuốn
sách "Giáo dục mầm non, những vấn đề lí luận và thực tiễn" [164] lại coi trẻ
em là thế giới tuổi thơ, đầy vui nhộn và vô cùng hấp dẫn, nhiệm vụ GVMN
từng bước đưa trẻ khám phá những chân trời tri thức khác nhau bằng con


16
đường giáo dục: giáo dục thẩm mĩ, giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức cho trẻ.
Trong quá trình giáo dục đạo đức cần chú ý đến giáo dục "lễ giáo" tức là
"giáo dục hành vi ứng xử với mọi người xung quanh theo đúng phép tắc đã
được xã hội quy định" [164, tr.334], hình thành lòng nhân ái cho trẻ mầm
non. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ đó này thì bản thân người GVMN phải là
tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức trong sáng, chuẩn mực trong giao tiếp
với học sinh tức là cần phải có đạo đức nhà giáo.
Khắc họa rõ nét nhất về ĐĐNN của GVMN là công trình của tác giả Hồ
Lam Hồng: "Nghề giáo viên mầm non" [76]. Từ việc phân tích khái niệm
nghề để đi tới khái niệm nghề GVMN là:
Lĩnh vực lao động giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi. Nhờ được đào tạo,
GVMN có được những tri thức về sự phát triển thể chất, tâm sinh lí
trẻ em; về phương pháp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục trẻ em; về
những kĩ năng nhất định để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục

trẻ em dưới 6 tuổi, đáp ứng nhu cầu xã hội về phát triển con người
mới trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa [76, tr.12].
Đặc thù lao động của nghề GVMN khác biệt về đối tượng, công cụ
nghiên cứu vừa có tính khoa học, tính nghệ thuật, sáng tạo để có thể linh hoạt
giải quyết các tình huống sư phạm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Nhân tố cốt lõi của nghề GVMN là nhân cách của người dạy học, đó là "tổ
hợp những phẩm chất đạo đức và năng lực có ảnh hưởng tới chất lượng và
hiệu quả lao động trong quá trình hành nghề" [76, tr.55]. Theo tác giả, muốn
tạo nên sự thành công trong quá trình chăm sóc, dạy học và giáo dục trẻ đòi
hỏi GVMN phải có một thế giới quan nhất định và một số phẩm chất đạo đức
đặc biệt trong nghề: yêu quý trẻ em; yêu nghề và muốn gắn bó với nghề; tận
tụy trong công việc; kiên trì và nhẫn nại khi tiếp xúc với học sinh; linh hoạt,
nhạy cảm trước sự thay đổi tâm sinh lý ở trẻ.


17
Nhóm tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai và Đinh Thị
Kim Thoa với công trình nghiên cứu "Tâm lí học trẻ em - lứa tuổi mầm non"
[165] đã đi sâu phân tích các đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ từ lọt lòng đến
6 tuổi đặc biệt chú ý giai đoạn từ 3-6 tuổi. Sự xác định ý thức bản ngã và tính
chủ định được định hình rõ trong hoạt động tâm lí, đã có các chuẩn mực đưa
vào trong đánh giá người khác và bản thân. Sự gương mẫu trong giao tiếp,
ứng xử của giáo viên sẽ tạo dấu ấn tốt hay xấu đi theo suốt cuộc đời của trẻ.
Bởi vậy xây dựng các chuẩn mực ĐĐNN cho GVMN được đặc biệt đề cao
trong giáo dục trẻ mẫu giáo.
Bàn về kĩ năng giao tiếp của người GVMN có các bài báo trên các tạp
chí như: tác giả Phan Thị Hoa với bài: "Văn hóa giao tiếp ứng xử của người
giáo viên trong trường mầm non" [72]. Trong bài viết, tác giả coi văn hóa
giao tiếp ứng xử là những kĩ năng cơ bản được GVMN vận dụng linh hoạt
trong mối quan hệ giữa cô và trò. Nguyên tắc giao tiếp ứng xử dựa trên việc:

yêu thương trẻ như con, em của mình; luôn thỏa mãn hợp lí những nhu cầu cơ
bản của trẻ; bằng những hành vi cử chỉ dịu hiền, nhẹ nhàng, cởi mở, vui tươi
của mình, người GVMN sẽ tạo cho trẻ mầm non cảm giác an toàn, bình yên,
dễ chịu, gieo vào những sắc thái cảm xúc tích cực trong tâm hồn con trẻ.
Bài viết "Bàn về nhân cách người giáo viên mầm non đáp ứng với yêu
cầu đổi mới giáo dục mầm non" của tác giả Trần Thị Thanh [149]. Nhân cách
người giáo viên được tác giả định nghĩa là: “tổ hợp những phẩm chất đạo đức
và năng lực ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả lao động trong quá trình
hành nghề” [149, tr.249]. Cấu trúc nhân cách người GVMN được tác giả bước
đầu phác thảo trên 3 lĩnh vực: phẩm chất đạo đức, tư tưởng, chính trị (tinh
thần yêu nước; yêu thương, tôn trọng trẻ; yêu nghề, tâm huyết, gắn bó và có
trách nhiệm cao với nghề; có ý thức tổ chức, biết yêu thương đồng cảm với
mọi người); kiến thức; kĩ năng nghề nghiệp. Như vậy, vấn đề đạo đức nghề


18
nghiệp được tác giả đánh giá là một trong yếu tố nền tảng hình thành nhân
cách bền vững của người GVMN.
Bàn về chuẩn nghề nghiệp của GVMN, Quyết định số 02/2008/QĐBGDĐT ngày 22 tháng 1 năm 2008 của Bộ GD&ĐT về Chuẩn nghề nghiệp
giáo viên mầm non. Trong đó tại Điều 5, chương II: đã quy định cụ thể về
chuẩn nghề nghiệp GVMN trên lĩnh vực đạo đức: đó là phải nhận thức tư
tưởng chính trị, thực hiện trách nhiệm của một công dân, một nhà giáo đối với
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chấp hành tốt pháp luật, chính sách
của Nhà nước, các qui định của ngành, nhà trường, có đạo đức, nhân cách, lối
sống lành mạnh, có ý thức vươn lên trong nghề nghiệp, trung thực trong công
tác, đoàn kết với đồng nghiệp, tận tình phục vụ nhân dân và trẻ.
Tóm lại, các công trình trên phần lớn đã tập trung phân tích kĩ năng và
yêu cầu nghề nghiệp cần thiết để người GVMN thực hiện tốt nhiệm vụ giáo
dục, chăm sóc trẻ mầm non. Những công trình nghiên cứu này sẽ cung cấp cơ
sở lý luận và thực tiễn để tác giả luận án tiếp tục kế thừa và phát triển công

trình của mình.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Đa số những nghiên cứu trong thời gian qua đều nhìn nhận thực trạng
ĐĐNN của giáo viên nói chung và GVMN nói riêng như là một bộ phận của
thực trạng đạo đức xã hội. Các nhân tố như nền kinh tế thị trường, đời sống
vật chất của xã hội, trình độ nhận thức của cá nhân được nhìn nhận và lý giải
là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến sự suy thoái đạo đức xã hội,
trong đó có đạo đức của một bộ phận GVMN.
Các đề tài cấp nhà nước: Thái Duy Tuyên với đề tài: "Nghiên cứu con
người Việt Nam trong kinh tế thị trường: Các quan điểm và phương pháp tiếp
cận" [163]; "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển


19
kinh tế - xã hội" của tác giả Phạm Minh Hạc [64]. Các đề tài đều thống nhất
quan điểm coi nguồn lực con người là vốn quý nhất - yếu tố quyết định sự
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị
trường (KTTT), toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã tác động tích cực và tiêu cực
ảnh hưởng nhân cách con người Việt Nam hiện nay; một đội ngũ người lao
động sáng tạo, năng động được sinh ra từ đây, đồng thời cũng nảy sinh lớp
người lười biếng, thích hưởng thụ. Những biến đổi trong thang giá trị đạo đức
buộc chúng ta phải quan tâm đến công tác bồi dưỡng và phát huy tốt nguồn
nhân lực, xây dựng chiến lược giáo dục phù hợp, thực hiện công bằng trong
giáo dục, đặc biệt coi việc giáo dục và bồi dưỡng đạo đức nhà giáo là một
trong vấn đề trọng tâm cần hướng tới.
Cuốn sách "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay" của tác giả Nguyễn Chí Mỳ [122]; phân tích sự biến đổi các thang giá

trị đạo đức dưới tác động của nền KTTT đang diễn ra rất phức tạp, có sự
đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái thiện và cái ác, giữa lối
sống có lí tưởng, lành mạnh, trung thực, thủy chung với lối sống thực dụng,
dối trá, ích kỉ, ăn bám, chạy theo đồng tiền. Theo tác giả, đội ngũ cán bộ
quản lý (một bộ phận GVMN) cũng chịu những tác động sâu sắc biểu hiện:
một bộ phận cán bộ dùng quyền lực mưu lợi, làm giàu cho cá nhân, tham ô,
tham nhũng nảy sinh; sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đã để cho
những nhu cầu hợp lý trở thành đòi hỏi phi lý, những nhu cầu vật chất
chính đáng trở thành những ham muốn quá đáng, thành dục vọng của cuộc
sống; sự lơ là trong giáo dục, buông lỏng kiểm tra, giám sát của các cấp các
ngành… Tất cả vấn đề trên là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến
đạo đức của cán bộ quản lý nước, làm cho họ xa rời lý tưởng Đảng, xa rời
quần chúng nhân dân.


20
Tác giả Lê Thị Tuyết Ba với công trình "Ý thức đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" [3]; và cuốn "Mấy vấn đề về đạo đức
học mácxit và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay" của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [86]. Trong các tác phẩm này, các tác
giả đều nghiên cứu tác động của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN)
trong việc hình thành những chuẩn mực giá trị mới ở nước ta hiện nay. Kinh
tế thị trường đã tác động tích cực đến ý thức, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, quần chúng nhân dân ở Việt Nam, làm cho "tư duy đạo đức của
con người và xã hội đang chuyển theo hướng lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm
tiêu chuẩn đánh giá năng lực và thước đo phẩm chất người lao động. Xã hội
đang dần hình thành một xu hướng mới, cổ vũ cho thái độ lao động hăng say,
hết mình, với tất cả tình cảm, tinh thần, trách nhiệm công dân và lương tâm
của con người". Nhưng cũng chính nền kinh tế này đã dẫn đến việc xuất hiện
"lối sống thực dụng, cá nhân ích kỉ của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng

viên đã góp phần làm cho tình trạng tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo trong sản
xuất, kinh doanh ngày càng có đà sinh sôi, nảy nở". Điều này không chỉ gây
thiệt hại kinh tế cho đất nước mà còn vi phạm nghiêm trọng những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc. Các công trình trên mở ra cho tác giả các hướng
nghiên cứu, cung cấp cơ sở lý luận luận giải các vấn đề cơ bản trong luận án
của mình.
Các bài viết trên các tạp chí trong nước như: bài "Toàn cầu hóa đến đạo
đức sinh viên hiện nay" của tác giả Võ Minh Tuấn [162]; "Toàn cầu hóa và
sự tác động của nó đối với Việt Nam hiện nay" của tác giả Phạm Văn Đức
[56]. Bài viết: "Giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế" của tác giả Nguyễn Huy Phòng [127]; Nguyễn Thanh
Bình với bài: "Kinh tế thị trường và đạo đức người thầy hiện nay" [10]; tác
giả Hoàng Thúc Hào với bài ""Ô nhiễm" đào tạo kiến trúc sư và đạo đức
của người thầy" [70]; bài "Thực trạng vị thế của người thầy trong xã hội


×