Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp luật phá sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN THEO
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM

NGUYỄN VĂN HỘI
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS: VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tìm hiểu, phân tích một cách trung thực
phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình khác. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Đào tạo Sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Văn Hội



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng của bản thân,
tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo, gia
đình và người thân.
Trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong nhà trường và Khoa
Đào tạo Sau đại học thuộc Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo những điều kiện
thuận lợi để tôi thực hiện đề tài luận văn này.
Đặc biệt xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến Phó giáo sư,
Tiến sĩ Vũ Thị Hồng Vân là người trực tiếp nhiệt tình hưỡng dẫn, đóng góp
những ý kiến và thông tin vô cùng quý báu để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể bạn bè và người thân đã
giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tác giả thực hiện Luận văn

Nguyễn Văn Hội


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LPS

Luật phá sản

HNCN

Hội nghị chủ nợ


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN ......... 8
1.1. Khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán .............................................................................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ............................................. 8
1.1.2. Khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ................................................. 12
1.2. Vai trò của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.................................................... 16
1.3. Pháp luật một số nước về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ......................... 22
1.3.1. Về hình thức pháp lý điều chỉnh thủ tục phục hồi .................................................. 22
1.3.2. Về nội dung thủ tục phục hồi ........................................................................................ 22
Chương 2: 34THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP MẤT KHẢ
NĂNG THANH TOÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..................................................... 34
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán .......................................................................... 34
2.1.1. Giai đoạn mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán .................................................................................................................... 35
2.1.2. Giai đoạn giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp ................................................................................................................................. 44
2.1.3. Giai đoạn thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp ............................................................................................................................................. 57


2.1.4. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ..................................................... 65
2.2. Thực tiễn áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ở Việt Nam trong

thời gian qua .................................................................................................................................. 69
2.2.1. Những kết quả đạt được ................................................................................................. 69
2.2.2. Nhận xét, đánh giá về thực trạng thi hành pháp Luật phá sản và thực hiện thủ
tục phục hồi ở Việt Nam ............................................................................................................ 71
2.2.3. Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định về thủ tục phục hồi
doanh nghiệp và nguyên nhân .................................................................................................. 73
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI QUY
ĐỊNH VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN.................................................................... 88
3.1. Một số định hướng hoàn thiện khung pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh...................................................................................................................................... 88
3.2. Những giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả thực thi quy định về thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán ................................ 89
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp Luật phá sản doanh nghiệp .......................................... 89
3.2.2 Giải pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện quy định về thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh ......................................................................................................................... 101
KẾT LUẬN ................................................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 108


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, hiện tượng phá sản
của các doanh nghiệp đang diễn ra rất phổ biến. Đây là xu thế tất yếu của quá trình
cạnh tranh, quá trình đào thải và sự chọn lọc tự nhiên: các chủ thể kinh doanh làm
ăn thua lỗ, kém hiệu quả tất yếu phải chấm dứt sự tồn tại hoạt động kinh doanh của
mình thông qua việc bị tuyên bố phá sản. Phá sản góp phần làm cân bằng thị
trường, cơ cấu lại nền kinh tế, làm cho nền kinh tế thị trường trở nên đúng với bản
chất của nó hơn. Ở Việt Nam, phá sản cũng được coi là một hiện tượng tất yếu của
nền kinh tế thị trường, nhất là trong giai đoạn nước ta đang hội nhập kinh tế thế giới

sâu, rộng thì hiện tượng này lại rất cần có sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật rõ
ràng, phù hợp và hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, trong kinh doanh, không thể nào tránh
khỏi việc có doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả và bị đào thải khỏi thương
trường thông qua sự kiện phá sản, điều đó kéo theo nhiều hậu quả gây ảnh hưởng
đến cả nền kinh tế - xã hội, sự ảnh hưởng này được thể hiện ở cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Luật phá sản ngày càng đóng vai trò quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế,
giúp các doanh nghiệp hoạt động yếu kém rút khỏi thương trường một cách có trật
tự và để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, của các chủ nợ khác. Mặt
khác Luật phá sản còn giúp các doanh nghiệp có cơ hội phục hồi hoạt động kinh
doanh của mình, quay lại kinh doanh bình thường, không phải tuyên bố phá sản.
Phục hồi hoạt động kinh doanh là một nội dung quan trọng trong thủ tục
phá sản. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh có thể đem lại cho doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản những điều kiện và cơ hội để tái tạo tổ chức lại hoạt
động, giúp doanh nghiệp vượt ra khỏi nguy cơ bị phá sản. Trong điều kiện ngày
nay, pháp Luật phá sản các nước trên thế giới luôn đề cao và quan tâm thích đáng
đến thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một bộ phận quan trọng trong trình tự,
thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy định ở Luật phá sản của hầu hết của quốc gia.

1


Thủ tục này nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản có thể vượt qua được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn,
tránh bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu việc phục hồi thành công còn có thể bảo vệ
quyền, lợi ích cho chủ nợ và những người liên quan; bảo đảm công ăn việc làm cho
người lao động; duy trì ổn định, trật tự xã hội từ đó làm lành mạnh hóa môi trường
kinh doanh. Không nằm ngoài xu hướng chung ấy, pháp Luật phá sản Việt Nam
cũng có những quy định đối với thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Trước những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường, việc hoàn thiện pháp
luật về phá sản nói chung và thủ tục phục hồi doanh nghiệp nói riêng là rất cần thiết.
Ngày 15/06/2014 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật phá sản mới thay thế Luật
phá sản doanh nghiệp 2004 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Thủ tục phục hồi đã
được Luật phá sản năm 2014 quy định theo hướng độc lập trong thủ tục phá sản với
nhiều quy định mới là tiền đề thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp đang trong tình
trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một
cách “trật tự”, đồng thời thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo môi trường
kinh doanh lành mạnh các phương án khác để thanh toán nợ đến hạn trước khi bị
coi là lâm vào tình trạng phá sản, với quy định này quyền của chủ nợ sẽ được bảo
đảm tối ta. Luật phá sản năm 2014 bổ sung quy định về phương thức thương lượng
trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp trong trường hợp
người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ. Về HNCN cũng có nhiều
điểm mới, theo cho các nhà đầu tư. Về định nghĩa tình trạng doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán và thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được quy định
rõ ràng và cụ thể hơn. Theo đó, “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh
nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ
ngày đến hạn thanh toán”. Thời hạn phải thanh toán là 03 tháng giúp các doanh
nghiệp chưa có khả năng thanh toán có thể tìm quy định của Luật phá sản năm
2014, điều kiện hợp lệ của HNCN chỉ căn cứ trên số nợ. Theo đó, số chủ nợ tham
gia Hội nghị chủ nợ(HNCN) không phải là điều kiện để coi HNCN hợp lệ. Luật phá

2


sản năm 2014 còn bổ sung thêm biện pháp giảm nợ, miễn nợ, hoãn nợ trong phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh tạo giải pháp và cơ hội nhằm tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp hiện đang lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Thực tế cho thấy hiện nay trong đời sống và hoạt động kinh doanh có rất
nhiều các doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nhưng không

chủ động tiếp cận với thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh để đưa ra phương án
phục hồi dẫn đến doanh nghiệp phá sản. Phải chăng giữa thực tế của hoạt động kinh
doanh và các quy định của pháp luật vẫn còn một khoảng cách lớn. Vì vậy, việc
nghiên cứu những quy định về thủ tục phục hồi trong Luật phá sản năm 2014 là
điều rất quan trọng và cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm thực thi
có hiệu quả Luật phá sản năm 2014 để áp dụng phổ biến hơn vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp hiện nay.
Với mong muốn đó, tôi đã lựa chọn đề tài: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo pháp Luật phá sản Việt
Nam làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Phục hồi hoạt động kinh doanh là thủ tục cơ bản trong việc giải quyết doanh
nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Pháp luật về phá sán của bất cứ
quốc gia nào trên thế giới dù là theo hướng bảo vệ quyển lợi của chủ nợ hay bảo vệ
quyền lợi của doanh nghiệp mắc nợ đều có những quy định cần thiết điều chỉnh thủ
tục này.
Cũng giống như các quốc gia khác, Luật phá sản của Việt Nam khi được ban
hành cũng có nhiều quy định điều chỉnh thủ tục này (Luật phá sản năm 2004,
Chương VI, mục I - Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, quy định từ Điều 68
đến Điều 77. Luật phá sản năm 2014, Chương VII - Thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh; quy định từ Điều 87 đến Điều 96).
Đến thời điểm hiện nay, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh. Có thể kế đến công trình: Báo cáo phúc trình đê tài
3


''Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để khuyến nghị hoàn thiện
pháp Luật phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật có liên quan” của Câu
lạc bộ pháp chế doanh nghiệp do TS. Dương Đăng Huệ làm chủ nhiệm đề tài,
Dương Đăng Huệ - Pháp Luật phá sản của Việt Nam 2004; hoặc các bài viết như:

Một số vấn đề lý luận về phá sản - thực tiễn và phương hướng hoàn thiện của ông
Phạm Xuân Thọ, Chánh toà kinh tế TAND thành phồ Hồ Chí Minh; Một số vấn đề
lý luận về phá sản của TS.Trần Kim Hào, Ths. Nguyễn Kim Anh ở Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế TW; Phương hướng và nội dung cơ bản của dự án Luật phá sản của
tác giả Ngô Cường, Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử - Toà án nhân dân tối
cao; Thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong thời gian
qua, những khó khăn, vướng mắc và một số kiến nghị, đề xuất của TS. Nguyễn Văn
Dũng, Toà án nhân dân tối cao; khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ
đến Luật phá sản năm 2014 của TS. Dương Kim Thế Nguyên – Khoa luật, Đại học
Kinh tế TP.HCM.
Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chỉ đề cập đến những nội dung cơ
bản của thủ tục phá sản nói chung mà chưa nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn
diện và hệ thống về các khía cạnh pháp lý của thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán với tư cách là một thủ tục độc lập
cũng như đánh giá toàn diện thực trạng của các quy định về thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về thủ tục phục hồi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các
vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, thực trạng quy định và áp dụng pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh để trên cư sở đó đưa ra một số giải pháp góp phần xây dựng và
hoàn thiện pháp luật thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán.

4


Với mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục phục hồi hoạt động kinh

doanh như: đối tượng áp dụng thủ tục phục hồi hoạt dộng kinh doanh; bản chất
pháp lý của thủ tục phục hồi; mục đích của việc quy định thủ tục phục hồi; những
nội dung quan trọng của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh với tư cách là một
chế định trong Luật phá sản năm 2014.
Nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện thực trạng các quy định và thực
tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua đó nêu lên những tồn tại, hạn chế, bất cập của pháp Luật phá sản về thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh hiện hành.
Đề ra các định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phục hồi hoạt động kinh doanh là một nội dung quan trọng trong pháp luật
về phá sản. Dưới góc độ pháp lý, việc phục hồi hoạt động kinh doanh có thể được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể là những biện pháp nhằm phục hồi
hoạt động kinh doanh, có thể là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh... Việc phục
hồi có thể được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ngoài Tòa án hoặc trong
Tòa án.
Do tính phức tạp của vấn đề nên với khuôn khổ của luận văn thạc sỹ cao học
luật, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu các nội dung liên quan đến trình tự, thủ tục
trong Toà án áp dụng cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán được quy định theo Luật phá sản năm 2014, Ngoài ra, luận
văn cũng không đề cập đến riêng từng loại doanh nghiệp hoạt động đặc thù như Tổ
chức tín dụng, Tổ chức tài chính khác,... Luận văn chỉ khảo sát và đánh giá thực
trạng của quá trình giải quyết phá sản ở Việt Nam từ khi Luật phá sản năm 2014 có
hiệu lực cho đến hết tháng 6 năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5



Luận văn được thực hiện trên cơ sở bám sát những chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước. Những chủ trương đó được thể hiện tập trung, nhất quán trong
các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc và các hội nghị của Ban chấp hành Trung
ương, đặc biệt là Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương khoá XI, khóa XII.
Luận văn vận dụng phương pháp luận, các quy luật và phạm trù của triết học
Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu, mà hạt nhân là phép duy vật biện chứng và
phép duy vật lịch sử.
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể mà đề tài đặt ra, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê, phân tích, so sánh kinh
nghiệm, đối chiếu, tổng hợp, khảo sát thực tiễn được vận dụng kết hợp để giải quyết
những vấn đề mà đề tài tiếp cận.
Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, tác giả còn sử dụng phương pháp trao đổi
nhằm tham khảo ý kiến của cán bộ có kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, giảng
dạy ở cơ sở đào tạo về chuyên ngành liên quan tới Luật phá sản để luận văn có tính lý
luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Về mặt khoa học và thực
tiễn, luận văn có những đóng góp:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về cả lý luận
cũng như thực tiễn về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục độc lập
và quan trọng trong thủ tục phá sản.
Thứ hai, luận văn đã phân tích, đánh giá toàn bộ thực trạng quy định và áp
dụng pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán.

6


Thứ ba, quá trình nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng, luận văn đã có

những đề xuất định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện khung pháp
luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác xây
dựng, nghiên cứu và áp dụng pháp luật nhất là trong bối cảnh chúng ta đang tiến
hành áp dụng Luật phá sản năm 2014.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các Phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp luật về
thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN
1.1. Khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
Về nguồn gốc, thuật ngữ phá sản được diễn đạt bằng từ “bankruptcy” hoặc
“banqueroute” mà nhiều người cho rằng từ này bắt nguồn từ chữ “Banca Rotta”
trong tiếng La Mã cổ, trong đó banca có nghĩa là chiếc ghế dài, còn rotta có nghĩa là
bị gãy. Banca rotta có nghĩa là “băng ghế bị gãy”. Cũng có ý kiến cho rằng, từ phá
sản bắt nguồn từ chữ ruin trong tiếng La tinh, có nghĩa là sự “khánh tận”.

Ở Việt Nam, Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ “phá sản” là lâm vào tình trạng
tài sản chẳng còn gì và thường là vỡ nợ do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại; “vỡ nợ”
là lâm vào tình trạng bị thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài
sản mà vẫn không đủ để trả nợ. Như vậy, trong cách hiểu thông thường, khái niệm
phá sản là để chỉ cho một sự việc đã rồi, sự việc “phải bán hết tài sản mà vẫn không
đủ trả nợ”.
Từ điển Luật học định nghĩa: phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân,
pháp nhân) mất khả năng thanh toán nợ đến hạn [33]. Theo quan điểm này, khái
niệm phá sản chỉ mới xác định được một tình trạng có thể xảy ra đối với các chủ thể
bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, “phá sản” được hiểu
tương đương với “mất khả năng thanh toán”.

8


Trong Bộ luật Thương mại năm 1972 của Việt Nam Cộng hòa có hai khái
niệm được sử dụng là khánh tận và phá sản. Theo Điều 864 của Bộ luật này
“Thương gia ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị toà
tuyên án khánh tận”. Điều 1008 Bộ luật Thương mại năm 1972 quy định “những
thương gia ở trong tình trạng khánh tận hay thanh toán tư pháp sẽ bị truy tố về tội
phá sản đơn thường hay phá sản gian trá tùy theo các trường hợp được dự liệu tại
các điều kế tiếp”. Như vậy “khánh tận là tình trạng một thương gia đã ngưng trả nợ”
hay nói cách khác, khái niệm “khánh tận” trong Bộ luật Thương mại năm 1972
được hiểu tương đương như khái niệm “mất khả năng thanh toán”. Trong khi đó,
khái niệm “phá sản” được dùng “cho những trường hợp thương gia phạm vào
những hình tội được luật dự liệu trong sự diễn tiến thủ tục khánh tận” và từ này (phá
sản) là để chỉ cho một loại tội phạm.
Trong tiếng Anh, khái niệm phá sản và mất khả năng thanh toán được diễn
đạt dưới những thuật ngữ bankruptcy, insolvency. Hai thuật ngữ này có khi được sử
dụng như là những từ đồng nghĩa. Tuy vậy, có tác giả cho rằng, insolvency là khái

niệm liên quan đến tình trạng tài chính, trong khi đó bankruptcy lại là khái niệm
thuần tuý pháp lý.
Cụ thể, từ insolvency (được dịch sát nghĩa tương đương trong tiếng Việt
là mất khả năng thanh toán) là để chỉ một tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
Tình trạng này có thể xác định theo phương thức dựa trên cân đối tài sản – nợ cho
thấy tài sản còn lại không đủ để thanh toán nợ (được gọi là “balance-sheet”
insolvency) hoặc dựa vào việc doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán nợ đã
đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu (được gọi là “cash-flow” insolvency). Khi một doanh
nghiệp bị mất khả năng thanh toán (insolvency) thì nó có thể được thực hiện các thủ
tục phục hồi (reorganazation) hoặc bị thanh lý (liquidation, winding-up).
Từ bankruptcy thì được hiểu như là thủ tục pháp lý để giải quyết tình trạng mất khả
năng thanh toán.

9


Ở Hoa Kỳ, thuật ngữ bankruptcy được sử dụng cho cả thủ tục phá sản áp
dụng cho cá nhân hoặc doanh nghiệp. Tuy vậy, trong pháp luật của Anh, bankruptcy
là để chỉ cho thủ tục phá sản cá nhân còn đối với phá sản các công ty thì thuật ngữ
được sử dụng là insolvency.
Như vậy, từ các phân tích trên đây có thể thấy về mặt pháp lý, khái niệm
“phá sản” có thể được hiểu theo hai khía cạnh sau đây:
Một là, phá sản là tình trạng một tổ chức kinh doanh bị mất khả năng thanh
toán và bị cơ quan nhà nước (thông thường là Tòa án) ra quyết định tuyên bố phá
sản. Hậu quả của quyết định này là sự chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp.
Hai là, phá sản là thủ tục pháp lý liên quan đến một tổ chức kinh doanh để
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của tổ chức đó. Thủ tục pháp lý này
được quy định bởi Luật phá sản và pháp luật có liên quan, được tiến hành từ khi có
dấu hiệu tổ chức kinh doanh đó lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán (insolvency) và quá trình giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán được

thực hiện có thể đưa đến những hệ quả khác nhau là phục hồi tổ chức kinh doanh
(reorganization) hoặc thanh lý tài sản và chấm dứt hoạt động của tổ chức kinh
doanh (liquidation hoặc winding-up).
Trong pháp luật Việt Nam, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật phá
sản năm 2004 đều không đưa ra định nghĩa về phá sản mà sử dụng khái niệm “tình
trạng phá sản”. Khái niệm này nhằm xác định khả năng phục hồi của doanh nghiệp
chứ không chỉ có các quy định về tuyên bố phá sản và thanh lý doanh nghiệp. Do
vậy, khái niệm tình trạng phá sản chưa phản ánh đầy đủ nội hàm như được quy định
trong các luật này.
Khác với các văn bản Luật phá sản trước đây, Luật phá sản năm 2014 đã đưa
ra một định nghĩa pháp lý về phá sản, theo đó, “phá sản là tình trạng của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá
sản” (Điều 3). Khái niệm này đã tiếp cận phá sản dưới góc độ là một quyết định của
Tòa án chứ không phải là quá trình ban hành ra quyết định đó (thủ tục phá sản).

10


Theo đó, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là căn cứ để Tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản. Quyết định này của Tòa án gây hậu quả xấu về nhiều mặt cho
nhiều đối tượng, nhất là cho con nợ, ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của nhà
kinh doanh trên thương trường, đồng thời hạn chế quyền quản lý tài sản và quyền tự
chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ. Chính vì vậy, xác định tình trạng
“mất khả năng thanh toán” có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nếu nhà lập pháp đưa căn
cứ xác định không hợp lý sẽ gây hại không những cho từng thương nhân cụ thể, cho
các chủ nợ mà còn cho cả nền kinh tế nói chung.
Về cơ bản, cả trong học thuật lẫn trong pháp luật nhiều nước đều xác định
tình trạng mất khả năng thanh toán là tình trạng con nợ không trả được các khoản
nợ. Tuy nhiên, thế nào là “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ” là nội
dung không chỉ gây tranh luận trong giới học thuật mà còn được ghi nhận có ít

nhiều sự khác biệt trong pháp luật ở các nước khác nhau. Thậm chí, trong cùng một
nước, nội dung này ở mỗi thời kỳ khác nhau cũng có cách hiểu khác nhau. Việc xác
định tình trạng “mất khả năng thanh toán” đã được pháp luật quy định khá khác biệt
nhau trong các văn bản pháp luật về phá sản. Ở những giai đoạn khác nhau, pháp
luật Việt Nam có khi chỉ sử dụng một tiêu chí để xác định tình trạng phá sản hoặc
có khi lại phối hợp nhiều tiêu chí.
Đối với quan điểm chỉ sử dụng một tiêu chí (dòng tiền) để xác định tình
trạng mất khả năng thanh toán, Điều 3 Luật phá sản năm 2004 xác định “Doanh
nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”.
Việc sử dụng phối hợp nhiều tiêu chí để xác định tình trạng mất khả năng
thanh toán thể hiện trong Luật phá sản năm 2014. Theo quy định của Luật này,
“Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Tuy
nhiên, việc định lượng ở đây chỉ dừng lại thời gian trễ hạn thanh toán mà không

11


quan tâm đến giá trị của các khoản nợ. Điều này cho thấy Luật phá sản năm 2014
của Việt Nam đã quan tâm đến bản chất của tình trạng mất khả năng thanh toán.
Từ những phân tích trên có thể định nghĩa “doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán là việc doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn trong một thời hạn nhất định, kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Về bản chất, khi
con nợ ngừng trả nợ thì coi như là đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và
lúc đó, các chủ nợ đã có cơ sở pháp lý để làm đơn yêu cầu Tòa án thụ lý và giải
quyết vụ việc phá sản. Tuy nhiên, tùy quan điểm của mỗi quốc gia và ở mỗi thời kỳ
khác nhau, đặc biệt là tùy thuộc vào mục tiêu của Luật phá sản là bảo vệ chủ nợ hay
con nợ, có đặt mục tiêu phục hồi doanh nghiệp hay không mà luật pháp các nước,
trong những giai đoạn khác nhau có thể đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định tình trạng

phá sản là khác nhau.
1.1.2. Khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Nhà nước khuyến khích thành lập các loại hình doanh nghiệp khác nhau
thuộc mọi thành phần kinh tế và tạo điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và
cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không
thể tránh khỏi hiện tượng bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập và kinh
doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm và công ăn việc làm cho người lao động,
góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội, còn có một bộ phận không nhỏ
những doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả,
không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình khi đến hạn. Điều này
không chỉ làm ảnh hưởng tới chính bản thân doanh nghiệp mà nó còn có thể gây
thiệt hại tới nhiều chủ thể khác, đó là quyền lợi của các chủ nợ không được bảo
đảm, lợi ích của người lao động bị xâm phạm và đặc biệt sự đổ vỡ của các doanh
nghiệp lớn hoặc những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực “nhạy cảm”
như tài chính, tín dụng, bảo hiểm… thì còn có thể kéo theo những hệ quả rất xấu
cho nền kinh tế. Trước thực trạng đó, để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, hạn chế
các thiệt hại cho người lao động và để duy trì sự ổn định của nền kinh tế, hầu hết

12


các nước trên thế giới đều có các quy định pháp lý về thủ tục phá sản, thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh.
Cũng cần phải nói thêm rằng, khi một thương nhân vỡ nợ, các chủ nợ và
người lao động hoàn toàn có thể lấy nợ bằng cách khởi kiện đòi nợ theo thủ tục dân
sự. Tuy nhiên, khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một con nợ với nhiều
chủ nợ ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ không còn đủ để thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ thì thủ tục dân sự đã thể hiện một số những khiếm
khuyết như:
Thứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con nợ

có nhiều chủ nợ thì sẽ có sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực
tế và điều này dẫn đến hệ quả là sự quá tải của hệ thống Tòa án cũng như chi phí
đòi nợ lớn cũng sẽ làm tiêu hao sản nghiệp vốn đã hạn hẹp của con nợ và trực tiếp
ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ.
Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của
mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy khi các khoản nợ không đáo hạn cùng một
lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo âu” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn sau khi
mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ đã không còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ
không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với mình. Ngay cả khi các khoản nợ
đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ quan tài phán cũng chỉ có thể ra
phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải thanh toán chứ không thể giải quyết thỏa
đáng vấn đề con nợ không còn khả năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ tài
sản của mình.
Tất cả những khiếm khuyết kể trên của thủ tục dân sự chỉ có thể được khắc
phục bằng cơ chế lấy nợ tập thể của thủ tục phá sản. Để đảm bảo sự công bằng của
các chủ nợ có vị thế giống nhau khi tiếp cận tài sản của con nợ, thay vì việc để cho
các chủ nợ có thể kiện đòi nợ một cách riêng rẽ, thủ tục phá sản tạo ra một cơ chế
lấy nợ tập thể giữa một bên là toàn bộ các chủ nợ (nhiều hơn một chủ nợ) đối với
một con nợ duy nhất. Trong điều kiện sản nghiệp của con nợ không còn đủ để đồng

13


thời thanh toán hết tổng số nợ, dù con nợ có trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho
các chủ nợ thì rủi ro vẫn là quá lớn đối với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng một giải
pháp nào đó và với sự trợ giúp của các chủ nợ, mà con nợ còn có thể tiếp tục tồn tại
thì cơ hội để thu hồi đủ số nợ cho các chủ nợ lại trở lên khả quan hơn. Chính vì vậy,
so với thủ tục đòi nợ dân sự, thủ tục phá sản không đơn thuần chỉ là một công cụ lấy
nợ “tập thể” mà còn hướng vào mục tiêu tái cấu trúc lại con nợ nhằm hài hòa một
cách tốt nhất những mâu thuẫn lợi ích giữa chủ nợ, con nợ, người lao động và nền

kinh tế.
Ở thời điểm hiện tại, bất kì một đạo Luật phá sản được coi là hiện đại trên
thế giới đều coi trọng việc cứu vãn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ.
Toà án chỉ tuyên bố phá sản con nợ trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi các biện
pháp khôi phục hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán của con nợ không
thành công. Việc phục hồi hoạt động kinh doanh của con nợ có ý nghĩa không chỉ
đối với bản thân con nợ mà còn có ý nghĩa lớn đối với các chủ nợ, người lao động,
các đối tác, đặc biệt là đối với sự vững mạnh của nền kinh tế đất nước.
Việc phục hồi tạo cơ hội cho doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất
khả năng thanh toán, khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường, hạn
chế đến mức thấp nhất việc giải thể doanh nghiệp khi còn có hy vọng phục hồi nó.
Việc phục hồi hoạt động kinh doanh làm tăng thêm sự tin tưởng của người lao động
đối với doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh nào đi nữa và với bất kỳ lý do gì, nếu doanh
nghiệp mắc nợ phục hồi được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thu được lợi
nhuận, lấy lại được uy tín trên thương trường thì nó không chỉ giải quyết được các
khoản nợ lương đối với người lao động mà còn tạo sự gắn bó hơn nữa giữa người
lao động đối với doanh nghiệp. Quá trình phân công lao động ngày càng theo chiều
rộng và chiều sâu ở mỗi thị trường quốc gia và thị trường toàn cầu đã làm tính phụ
thuộc giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Sự xuất hiện các công ty đa quốc gia
cùng với quá trình toàn cầu hoá đã từng bước xoá nhoà đường biên giới về thị
trường giữa các quốc gia trên thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau
giữa các doanh nghiệp ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong bối

14


cảnh như vậy, phá sản không còn là công việc riêng của doanh nghiệp bị phá sản.
Sự cho phép “rút lui một cách đột ngột” của doanh nghiệp ra khỏi thị trường bằng
cơ chế phá sản không phải bất cứ trường hợp nào cũng là giải pháp được nhà nước
lựa chọn sau khi đã cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt kinh tế, chính

trị và xã hội. Nói cách khác, sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại đã
khiến chúng ta nhìn nhận phá sản là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Do vậy, việc
cứu vớt các doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn là vấn đề cấp thiết và có ý
nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý cũng như hệ thống văn bản về pháp Luật
phá sản ở Việt Nam chưa thống nhất được khái niệm về “thủ tục phục hồi” cũng
như khái niệm “thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản”. Điều
này gây khá nhiều khó khăn cho những nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về thủ
tục phục hồi cũng như quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật Việt
Nam hiện hành về thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản.
“Phục hồi” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là việc khôi phục lại cái đã
mất đi [34,tr.765]. Cũng theo từ điển này, “khôi phục” được hiểu là làm lại cho có
lại được hay trở lại được như trước [34,tr.490]. Tuy nhiên, theo những phân tích ở
trên, chúng ta có thể hiểu rằng, “phục hồi doanh nghiệp mắc nợ” là việc khôi phục
lại, làm sống lại khả năng sản xuất kinh doanh, lấy lại tình trạng tài chính đã mất và
dựng lại uy tín, ảnh hưởng của một thương nhân trên thương trường
Có khái niệm khác cho rằng “phục hồi là đem lại cho con nợ đang trong
tình trạng khó khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ không phải
là thanh toán con nợ đó [4,tr.3]
Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm thủ tục phục hồi con nợ trong thủ tục phá
sản, nhất thiết chúng ta phải phân biệt với sự tự phục hồi của con nợ. Khi một con
nợ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bản thân con nợ đó có thể áp dụng tất
cả các biện pháp có thể nhằm tự “cứu mình”, thậm chí có thể thỏa thuận riêng rẽ
với từng chủ nợ để tìm cơ hội cứu vãn tình trạng mất khả năng thanh toán.

15


Nhưng khi thủ tục phá sản đã mở ra đối với con nợ thì việc phục hồi con nợ phải
tuân theo một trình tự tố tụng hết sức chặt chẽ. Thủ tục này được áp dụng bởi

Tòa án sau khi có sự chấp thuận của các chủ nợ và được giám sát chặt chẽ bởi
chính Tòa án và các chủ nợ.
Xét về bản chất pháp lí, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh có thể được
hiểu là quá trình xác lập và thực hiện một “khế ước” giữa con nợ và tập thể các chủ
nợ bao gồm cả đại diện của người lao động làm công cho con nợ đó với sự phê
chuẩn của Tòa án nhằm xây dựng một kế hoạch phục hồi hoạt động lại doanh
nghiệp mắc nợ và lập một kế hoạch trả nợ phù hợp. Trong một số trường hợp, kế
hoạch tái cơ cấu có thể dẫn đến việc thay thế bộ máy quản lý, điều hành doanh
nghiệp mắc nợ. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cho phép doanh nghiệp mắc
nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp có cơ hội thoát
khỏi khó khăn về tài chính và do đó tránh được bị tuyên bố phá sản. Phục hồi hoạt
động kinh doanh là nội dung thể hiện quan điểm tiến bộ, tính nhân đạo của pháp
Luật phá sản hiện đại đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán. Việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản những cơ hội và điều kiện để tổ chức lại hoạt động kinh
doanh, giúp doanh nghiệp có thể thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán.
Việc phân tích các dấu hiệu nêu trên có thể đưa ra khái niệm thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh như sau:
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là thủ tục do Toà án có thẩm
quyền quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, theo đó, một
con nợ không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn được hưởng một thời
hạn nhất định để thi hành phương án phục hồi do HNCN thông qua dưới sự giám
sát của Toà án và đại diện của chủ nợ nhằm tạo điều kiện cho con nợ được tiếp tục
hoạt động kinh doanh đồng thời chi trả các khoản nợ đã tới hạn của mình.
1.2. Vai trò của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

16


Nhiều quan điểm cho rằng phá sản và Luật phá sản không có vai trò tích

cực mà chỉ có những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Trước hết, có thể nói
phá sản luôn có tác động đến đời sống kinh tế xã hội. Những tác động tiêu cực nhất
thời mà hậu quả của hiện tượng phá sản gây ra là: Phá sản doanh nghiệp có thể gây
ra sự rối loạn nền kinh tế trong một thời gian bởi sự ảnh hưởng dây chuyền từ
doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác có liên quan, và do đó có thể làm chậm
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Về mặt xã hội thì phá sản doanh nghiệp tất yếu dẫn tới
hiện tượng thất nghiệp và kéo theo đó là các vấn đề xã hội khác như đói nghèo, tội
phạm, tệ nạn xã hội. Nhưng vấn đề gì cũng có tác động hai mặt của nó. Phá sản
cũng vậy, bên cạnh tác động tiêu cực thì nó cũng có những mặt tích cực. Phá sản là
một quá trình chọn lọc những mô hình kinh doanh hợp lý và đào thải những mô
hình kinh doanh yếu kém. Bên cạnh đó, phá sản còn buộc các doanh nghiệp phải nỗ
lực vươn lên không ngừng dẫn đến sự chuyển biến mạnh mẽ của cả nền kinh tế. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đòi hỏi phải luôn đổi mới quy trình công
nghệ, tìm kiếm cách thức tổ chức quản lý và phân công lao động hợp lý, mở rộng
quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động để chiếm
lĩnh thị trường. Một quy luật chung là ở đâu có cạnh tranh và sự cạnh tranh gay gắt
thì ở đó phá sản sẽ ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn.
Ngày nay, quan điểm về việc kinh doanh và nhà kinh doanh đã khác nhiều.
Người ta cho rằng kinh doanh là việc khó khăn, đầy tính rủi ro nên khi nhà kinh
doanh gặp rủi ro thì mọi người và Nhà nước phải đối xử nhân đạo với họ. Thông
qua Luật phá sản, Nhà nước đã thể hiện tính nhân đạo đó ở chỗ: buộc các bên liên
quan tìm mọi cách để cứu giúp doanh nghiệp và chỉ tuyên bố phá sản đối với nó khi
mọi sự cố gắng nhằm giúp doanh nghiệp phục hồi đã bị thất bại mà thôi. Ngoài ra,
đối với chủ nợ, trong trường hợp con nợ gặp khó khăn, sự lựa chọn tốt nhất là để
con nợ tiếp tục tồn tại và hoạt động. Bởi lẽ, nếu doanh nghiệp được cứu vãn, hoạt
động kinh doanh trở lại bình thường trong tương lai doanh nghiệp có thể thu được
lợi nhuận và khả năng trả nợ là rất cao. Điều này sẽ tốt hơn là thấy doanh nghiệp

17



gặp khó khăn bị đưa doanh nghiệp ra chia năm xẻ bảy, bán tài sản để thanh toán các
khoản nợ. Đối với con nợ, việc doanh nghiệp bị phá sản có thể dẫn tới nhiều người
mất việc làm, mất nguồn thu nhập, doanh nghiệp mất đi công cụ sản xuất, kiến thức
về khoa học, công nghệ hoặc kinh nghiệm quý giá và gây ra những hậu quả khác
cho xã hội. Vì vậy, thủ tục phục hồi là một trong những giải pháp mà chủ nợ cũng
như con nợ luôn mong muốn áp dụng bởi nó có những vai trò quan trọng sau:
- Đưa doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn về tài chính, hoạt động kinh
doanh trở lại bình thường
Ngày nay, xu hướng của pháp luật về phá sản của các nước thường ưu tiên
giải pháp cứu vãn doanh nghiệp hơn là tiến hành ngay thủ tục thanh lý khi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thủ tục phục hồi doanh nghiệp đã tạo những
điều kiện, cơ hội để doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, khôi
phục khả năng thanh toán nợ. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
Doanh nghiệp được quyền được tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản nhưng phải chịu sự giám sát, kiểm tra của
Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Luật phá sản đã quy định những biện pháp bảo toàn tài sản cho doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản. Tài sản
của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong quá trình duy trì hoạt động kinh
doanh cũng như việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Mặt
khác, trong quá trình thực hiện phương án phục hồi doanh nghiệp có thể khối lượng
tài sản đó không những tăng thêm về số lượng mà còn tăng lên về giá trị, đó chính
là cơ sở để đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường, hoàn trả các khoản nợ.
Trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, theo đề nghị của HNCN, Thẩm
phán ra quyết định cử người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Những người đảm nhiệm vị trí này thường am
hiểu về thị trường, có khả năng kinh doanh, trình độ quản lý. Hơn nữa, còn có sự
tham gia của chủ nợ trong quá trình xây dựng, thông qua, thực hiện phương án phục
hồi doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp có thể tranh thủ được những kinh nghiệm


18


trong công tác quản lý, điều hành và phương thức kinh doanh để có thể cứu vãn
doanh nghiệp, đạt được những mục đích của thủ tục phục hồi và thông qua đó bảo
vệ được quyền, lợi ích của mình.
- Bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các chủ nợ và những người có liên quan
Thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ đặc biệt mang tính tập thể, các chủ nợ có
quyền nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản và khi có Quyết định của Toà án thì doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
phải bán toàn bộ tài sản hiện có để thanh toán cho chủ nợ. Chính vì vậy mà hạn chế
được tình trạng chây ỳ, dây dưa trong việc thanh toán công nợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho nhà kinh doanh. Việc ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ đã làm
cho thủ tục phá sản trở thành một công cụ pháp lý có vai trò rất lớn trong việc thúc
đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh.
Pháp luật các nước phương Tây dùng Luật phá sản để tạo cơ hội cho chủ nợ
can thiệp và điều hành, tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ. Pháp Luật phá sản của Việt
Nam đã rất coi trọng việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, thể hiện qua các quy
định pháp luật như quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền có đại diện
trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản của con nợ, quyền đề xuất
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, quyền tiếp tục tiến
hành mọi hoạt động kinh doanh sau khi Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản
dưới sự giám sát kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý thanh lý tài sản, hay con nợ
bị cấm, bị hạn chế một số hoạt động luật định. Những quy định này cũng là để đảm
bảo tài sản phá sản của doanh nghiệp con nợ, từ đó đảm bảo tài sản thanh toán nợ
cho các chủ nợ.
Đặc biệt, những quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mắc nợ đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ nợ. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đối tượng phải gánh

chịu hậu quả nặng nề nhất về tài sản là chủ nợ. Trừ những chủ nợ có bảo đảm,
quyền lợi của các chủ nợ còn lại không được bảo đảm vì lúc đó tài sản nợ lớn hơn

19


×