Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.12 KB, 30 trang )

LỜI NÓI ĐẦU.
Trên thế giới, ở các quốc gia có nền thị trường phát triển, phá sản được coi
là hiện tượng bình thường ở bất kì doanh nghiệp nào đang hoạt động. Hiện nay,
trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, hiện tượng này cũng đang dần trở nên
phổ biến. Đây là xu thế tất yếu, khách quan của quá trình cạnh tranh, quá trình đào
thải và sự chọn lọc tự nhiên: các chủ thể làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả tất yếu phải
chấm dứt sự tồn tại của mình qua việc bị tuyên bố phá sản và đương nhiên, chỉ có
các chủ thể kinh doanh hoạt động thực sự có hiệu quả mới có thể tiếp tục tồn tại
trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Phá sản đã góp phần làm lành mạnh hóa thị
trường, cơ cấu lại nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường trở nên đúng với bản chất
của nó hơn. Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá
trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít
nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực
phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã.
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đã làm nảy
sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ nợ
nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ
với người lao động do tình trạng mất khả năng thanh toán nợ gây ra. Vì vậy việc
giải quyết kịp thời các vấn đề đó có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một trật
tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền chủ thể của
các mối quan hệ hay các bên liên quan.
Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Cho nên thực tiễn giải
quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng
mắc. Vì vậy mà việc tìm hiểu về những việc làm của doanh nghiệp, hợp tác xã
trước khi lâm vào tình trạng phá sản là một vấn đề quá sâu rộng mà không thể nào
giải quyết ngay trong ngày một ngày hai được mà đó là cả một quá trình nghiên
cứu, tìm tòi và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất để các doanh nghiệp có thêm
nhiều cơ hội cải thiện tình hình của doanh nghiệp mình, đưa doanh nghiệp mình
thoát khỏi tình trạng đứng trước nguy cơ phá sản, giúp họ lập lại cân bằng, đưa
doanh nghiệp đi vào hoạt động bình thường trở lại. Chính vì thế mà luật phá sản


đã đặt ra những quy định riêng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phục
hồi hoạt động kinh doanh của mình, quay trở lại kinh doanh bình thường không
phải tuyên bố phá sản. Trước những yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường, việc
quy định chặt chẽ và cụ thể về pháp luật phá sản càng trở nên cấp thiết. Vì vậy,
chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật phá sản năm 2004” để nghiên
cứu và tìm hiếu sâu hơn về chế định này theo quy định của pháp luật hiện hành.


Chương I. Những quy định của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia điển
hình trên thế giới về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1.1. Khái quát về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1.1.1. Khái niệm:
Khái niệm lâm vào tình trạng phá sản:
Ở nước ta, hiện tượng phá sản chỉ mới xuất hiện và pháp luật phá sản ra đời
do sự chuyển biến mới của nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Trong thời kì kinh
tế kế hoạch hóa tập trung có nhiều quan điểm cho rằng phá sản là một hiện tượng
bất bình thường, thể hiện sự trì trệ và suy thoái của đời sống kinh tế xã hội và
thường bị phủ nhận. “Khi có công ty, xí nghiệp làm ăn thua lỗ thì các cơ quan cấp
trên bù lỗ bằng tiền ngân sách, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể” 1. Và chính sự
chuyển đổi tứ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi
quan điểm về phá sản.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm lâm vào tình trạng phá sản lần đầu tiên
được ghi nhận ở Luật công ty 1990, theo đó thì “công ty gặp khó khăn hoặc bị
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng giá trị tài sản
còn lại của công ty không đủ thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn được là
công ty đang lâm vào tình trạng phá sản”. Tuy nhiên, quan điểm này còn rất nhiều

hạn chế, chưa phản ánh đúng bản chất của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản. Bởi vì, tại một thời điểm nào đó mà tổng giá trị tài sản còn lại của công ty
không đủ thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn được thì chưa chắc doanh
nghiệp đã rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ ví dụ như trường hợp chủ
nợ thực hiện việc hoãn nợ, xóa nợ cho doanh nghiệp hoặc có người bảo lãnh cho
doanh nghiệp đó.
Trước nhu cầu ngày càng cấp thiết của tình hình phá sản của nhiều donh
nghiệp trong nước, Luật phá sản 1993 ra đời,đã có những quy định mới mẻ hơn,
phần nào khắc phục được những hạn chế trong luật công ty và luật doanh nghiệp.
Tại Điều 2 luật phá sản 1993 quy định: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi
áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà mất khả năng thanh toán các khoản
1

Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật thương mại tập II, nxb công an nhân dân, trang 335.


nợ đến hạn” và tại Điều 3 nghị định 189/1994/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật phá
sản đã cụ thể hóa như sau:
1- Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói tại
Điều 2 của Luật Phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong hai năm
liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho
người lao động theo thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong ba tháng liên
tiếp.
2- Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như nói tại Khoản 1 Điều
này, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết như sau để khắc
phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn:
 Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản
chi phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm;
 Có biện pháp xử lý hàng hoá, sản phẩm, vật tư tồn đọng;

 Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng;
 Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm, xoá
nợ;
 Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các khoản nợ đến
hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.
3- Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết nói tại Khoản 2 Điều này,
mà vẫn gặp khó khăn, không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải được xử lý theo
quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định này.
Theo quy định mới này thì doanh nghiệp chỉ đươc coi là lâm vào tình trạng
phá sản khi đáp ứng đủ các điều kiện trên, và trên thực tế khi doanh nghiệp đáp
ứng được các điều kiện trên thì doanh nghiệp đã thực sự phá sản rồi, và việc thanh
lý tài sản là một thủ tục bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp chứ không phải
để khôi phục lại hoạt động của chúng. Vì vậy, một lần nữa khái niệm lâm vào tình
trạng phá sản không thực hiện được mục đích của mình. Khắc phuc được tình
trạng này, Luật phá sản 2004 đã xác định khái niệm lâm vào tình trạng phá sản
theo hướng đơn giản và hợp lý hơn. Điều 3 luật phá sản 2004 quy định: “Doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”. Theo đó, dấu hiệu để cho rằng
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là do nó không có khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Việc xác định dấu hiệu này có ý
nghĩa rất quan trọng, đó là căn cứ khởi đầu cho việc tiến hành các thủ tục giải


quyết phá sản. Tuy nhiên việc xác định thế nào là mất khả năng thanh toán ở các
nước có những cách khác nhau. Luật phá sản Việt Nam không quy định các dấu
hiệu cụ thể để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn là thế nào, mà chỉ có những quy định nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp
sớm mở thủ tục phá sản cũng như khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn nó đã thực

sự phá sản trên thực tế, nó chỉ bị xem là phá sản khi đã tiến hành thủ tục phá sản.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản:
Thực chất của vấn đề phá sản chính là những vấn đề liên quan đến thủ tục
phá sản và thủ tục thanh lý nợ của doanh nghiệp. Như vậy, chúng ta cần phân biệt
thủ tục phục hồi của doanh nghiệp trong trường hợp này khác với thủ tục phục hồi
khi doanh nghiệp tự phục hồi,sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Doanh nghiệp tự phục hồi hoạt động kinh doanh của mình khi nó gặp khó
khăn,thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa có ai yêu cầu mở thủ tục phá sản. So
sánh với quá trình phục hồi đó, chúng ta thấy rằng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh cua doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản có những đặc trưng cơ
bản: ”Qúa trình phục hồi này là giải pháp tổ chức sản xuất là việc làm bị động của
các doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản_Đây là thủ tục tư pháp”.
1.1.2. Tính chất của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản:
Tính đặc thù của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là
nó chỉ là một thủ tục tư pháp. Trên thực tế thì cũng có nhiều doanh nghiệp gặp
không ít khó khăn hoặc làm ăn thua lỗ. Nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng mãnh liệt hơn. Để có thể
đứng vững hơn trong môi trường cạnh tranh mới này,các doanh nghiệp đã chủ
động thực hiện việc tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh hay tự phục hồi
hoạt động của mình. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp.
Khác với quá trình tự phục hồi, tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản là một thủ tục mang tính chất tư pháp sau khi tòa án mở thủ tục giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền chủ trì
chứ không phải là việc doanh nghiệp tự chủ động phục hồi. Và việc phục hồi chỉ
được thực hiện khi doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu do pháp luật quy
định, nội dung, thủ tục xem xét thông qua và thời hạn phục hồi phải tuân theo quy
định của pháp luật. Và quan trọng hơn cả là thủ tục phục hồi này được đặt dưới sự
giám sát của tòa án, các chủ nợ và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý

bất lợi trong trương hợp phục hồi không mang lại kết quả khả quan gì cho doanh
nghiệp. Trong trường hợp quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản có hiệu


lực,doanh nghiệp buộc phải tiến hành thủ tục thanh lý tài sản, thanh toán nợ cho
các chủ nợ.
 Việc thực hiện thủ tục phục hồi doanh nghiệp của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản nhằm mục đích:
o Giải quyết nhiều vấn đề thực tại: Giúp cho doanh nghiệp khôi phục lại
tình trạng ban đầu, tạo cơ hội và điều kiện để tái tổ chức lại hoạt động
kinh doanh, giúp doanh nghiệp vượt qua khỏi nguy cơ bị phá sản; tạo
một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động…
o Tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng thanh toán hết các khoản
nợ.
o Thể chế hóa được chính sách kinh tế của nhà nước, tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng sản xuất
kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách
có trật tự, góp phần tái phân phối tài sản; thúc đẩy sự lưu thông vốn
trong nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động và các chủ nợ, đóng vai trò là một trong những công cụ
quan trong của quá trình thu hồi nợ hiện nay.
1.2. Những quy định pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
DN lâm vào tình trạng phá sản
1. 2.1. Vai trò của Hội nghị chủ nợ trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh.
Hội nghị chủ nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hội nghị chủ nợ thảo luận, xem xét, thông qua phương án, giải pháp tổ chức lại
hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn thanh toán nợ trong doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản. Điều 64 Luật Phá sản qui định cụ thể nội dung

của Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất. Tại điểm d, khoản 1, Điều 64 Luật Phá sản qui
định: “Hội nghị chủ nợ thông qua Nghị quyết. Nghị quyết được lập thành văn bản
và phải được nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại HNCN đại diện cho từ
hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên thông qua Nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ có hiệu lực ràng buộc tất cả các chủ nợ”. Ngoài ra, các trường hợp
thanh lý tài sản được Luật Phá sản qui định tại các điều: Điều 78 (trường hợp đặc


biệt), Điều 79 (Hội nghị chủ nợ không thành) và Điều 80 (Sau khi có Nghị quyết
Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua các giải pháp dự kiến tổ chức lại, kế hoạch
thanh toán nợ) nhưng doanh nghiệp không xây dựng được kế hoạch chính thức.
Tuy nhiên, thực tế xuất hiện trường hợp tại Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất
mà doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản không lập (do không có chủ
trương lập) phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh để trình Hội
nghị chủ nợ lần thứ nhất. Vậy trong trường hợp này Thẩm phán có ra quyết định
thanh lý tài sản không? Nếu ra quyết định thanh lý tài sản thì căn cứ điều nào
trong Luật phá sản để ra quyết định? Phải chăng Luật đã không quy định điều kiện
để ra quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp, HTX trong trường hợp nêu
trên. Về vấn đề này hiện có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo điểm d, Khoản 1 Điều 64 Luật Phá sản
2004 thì nếu tại Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất, doanh nghiệp, HTX lâm vào tình
trạng phá sản không có dự kiến, không lập phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt
động kinh doanh để trình Hội nghị chủ nợ thì Hội nghị chủ nợ vẫn ra Nghị quyết
về việc thanh lý tài sản. Thẩm phán căn cứ vào Nghị quyết này ra quyết định thanh
lý tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng, vì thủ tục thanh lý tài sản quy định tại các
Điều 78, 79 và 80 của Luật phá sản không quy định điều kiện để ra quyết định
thanh lý tài sản của doanh nghiệp, HTX trong trường hợp nêu trên, nên Thẩm
phán cần tổ chức lại Hội nghị chủ nợ lần thứ hai và tiếp tục yêu cầu doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản phải có dự kiến, lập phương án, đề ra giải pháp

tổ chức lại hoạt động kinh doanh để trình Hội nghị chủ nợ lần thứ hai. Tại Hội
nghị chủ nợ lần thứ hai, nếu doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản
không lập phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh hoặc có phương
án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh để trình nhưng Hội nghị chủ nợ lần
thứ hai không thông qua thì mới ra Quyết định thanh lý tài sản.
Chúng tôi tán thành quan điểm thứ hai, vì quan điểm này vừa tạo thêm cơ
hội, thời gian cho doanh nghiệp xây dựng phương án và giải pháp tổ chức lại hoạt


động kinh doanh nhằm khắc phục tình trạng khó khăn của mình đồng thời cũng là
việc áp dụng tương tự với quy định của Điều 79 về trường hợp Hội nghị chủ nợ
không thành do doanh nghiệp không có mặt tại Hội nghị chủ nợ mà không có lý
do chính đáng.
1.2.2. Xây dưng phương án và điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh:
Không phải bất kì doanh nghiệp nào khi lâm vào tình trạng phá sản cũng có
thể tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Để có thể áp dụng được thủ
tục này, doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp luật quy
định. Theo Điều 68 luật phá sản 2004 thì Thẩm phán ra quyết định áp dụng thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh sau khi Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua
Nghị quyết đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch
thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ
ngày Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua Nghị quyết, doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của mình và nộp cho Toà án; nếu thấy cần phải có thời gian dài hơn thì phải
có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn. Thời hạn gia hạn không quá ba mươi
ngày. Như vậy, muốn áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp phải đáp ứng hai điều kiện sau:
-


Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất được tổ chức thành.

-

Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thong qua nghị quyết đồng ý với các giải pháp
tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và
yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải xây dựng phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh.

Tuy nhiên,vấn đề đặt ra ở đây là “phải chăng trách nhiệm phục hồi hoạt động
kinh doanh hoàn toàn thuộc về trách nhiệm của chính doanh nghiệp đó???” Nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi lại hoạt động,đưa doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, pháp luật phá sản đã có những quy định
rất cụ thể về vấn đề này. Để mở rộng hơn nữa chủ thể có khả năng tham gia vào
việc xây dựng dự thảo phương án phục hồi hoạt động kinh doanh cho doanh
nghiệp, hợp tác xã nhằm nâng cao khả năng cứu vớt doanh nghiệp, hợp tác xã khỏi
khả năng thanh toán các khoản nợ. Luật phá sản cho phép doanh nghiệp hoặc bất
kì chủ nợ hoặc người nào nhận nghĩa vụ phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã đều có quyền xây dựng những phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh cho doanh nghiệp và nộp cho tòa án trong thời hạn quy định. Quy định
này cũng phù hợp với xu hướng của các nước tiến bộ trên thế giới như Pháp, Mỹ,
Đức,…


=> Theo xu hướng này thì khả năng phục hồi lại hoạt động của các doanh nghiệp
là rất cao, bởi lẽ nó tạo nhiều ràng buộc hơn đối với tất cả các chủ thể có vốn góp
vào doanh nghiệp cũng như những người lao động có tâm huyết muốn gắn bó với
doanh nghiệp. Làm tăng vai trò, trách nhiệm của các chủ thể quản lý và chủ thể
góp vốn vào doanh nghiệp.

Theo Điều 69 Luật phá sản năm 2004 thì trong phương án phục hồi hpạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải nêu
rõ các biện pháp cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh như: Huy động vốn
mới, thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh, đổi mới công nghệ sản xuất, tổ chức
lại bộ máy quản lý; sáp nhập hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng sản xuất, bán lại cổ phần cho chủ nợ, bán hoặc cho thuê tài sản
không cần thiết, các biện pháp khác không trái pháp luật… Ngoài các biện pháp
cần thiết để phục hồi hoạt động kinh doanh, phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản còn phải xác định
rõ các điều kiện, thời hạn và kế hoạch thanh toán nợ. Trước khi bắt đầu hoặc tại
Hội nghị chủ nợ, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp, hợp tác xã
có thể được sửa đổi, bổ sung vào phương án theo sự thoả thuận của các bên.
1.2.3. Xem xét, thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh, Thẩm phán phải xem xét, nghiên cứu phương án phục hồi
hoạtđộng kinh doanh để ra một trong các quyết định: Đưa phương án ra Hội nghị
chủ nợ xem xét, quyết định hoặc đề nghị sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh nếu thấy phương án đó chưa bảo đảm các nội dung quy
định của pháp luật.
Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
được xem xét, thông qua bằng nghị quyết của hội nghị chủ nợ lần hai. Trong thời
hạn mười ngày, kể từ ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ra Hội nghị chủ
nợ, Thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét và thông qua phương án
phục hồi. Nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có
mặt đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên biểu quyết
tán thành. Quy định này của pháp luật đã loại trừ đi vai trò của các chủ nợ không
có bảo đảm, bởi lẽ việc thông qua hay không thông qua phương án phục hồi kinh
doanh của họ không có ý nghĩa gì, vì một khi doanh nghiệp không có phương án

phục hồi và bị tòa án tuyên là phá sản thì các chủ nợ có bảo đảm là người được ưu
tiên trong việc thanh toán các khoản nợ đến hạn => Họ mong muốn các doanh
nghiệp, hợp tác xã hoàn trả khoản nợ của mình càng sớm càng tốt,tránh tình trạng
“đêm dài lắm mộng”. Nếu kéo dài hơn nữa thì họ sẽ có khả năng bị mất trắng.


Trong khi đó, vấn đề này lại mang ý nghĩa sống còn đối với các chủ nợ
không có bảo đảm. Nếu phương án phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã có tính khả thi mà hội nghị chủ nợ vẫn không thông qua thì cơ hội cứu vớt
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn và các chủ nợ
không có bảo đảm không có khả năng thu hồi các khoản nợ của mình. Ngược lại,
trong trường hợp phương án phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã có
tính khả thi không cao mà hội nghị chủ nợ vẫn thông qua thì khả năng thu hồi vốn
của các chủ nợ càng thấp. Vì vậy, việc thông qua hay không thông qua phương án
phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cần
được các chủ nợ không có bảo đảm xem xét, đánh giá và đưa ra những phương án
tối ưu nhất.
Sau khi nghị quyết về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được thông qua, thẩm phán phải ra quyết định công nhận nghị quyết
đó.Nghị quyết này có hiệu lực với tất cả các bên có liên quan.
1.2.4. Thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh:
1.2.4.1 Giám sát thực hiện phương án phục hồi:
Sau khi thẩm phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ
về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp sẽ bắt tay vào việc
thực hiện dự án đó. Đó cũng là thời điểm mà tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể.
Phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã do doanh
nghiệp, hợp tác xã tự tiến hành với cơ chế giám sát thích hợp. Cứ sáu tháng một
lần, doanh nghiệp, hợp tác xã phải gửi cho Toà án báo cáo về tình hình thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngoài ra
chủ nợ cũng có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.

1.2.4.2 Thời hạn thực hiện phương án phục hồi:
Thời hạn tối đa để thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là ba năm, kể từ ngày cuối
cùng đăng báo về quyết định của Toà án công nhận Nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tuy nhiên pháp luật Việt Nam lại không quy định rõ thủ tục đăng công báo này =>
gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình thực thi pháp
luật.


So với những quy định trên của luật phá sản thì luật doanh nghiệp quy định
ngắn hơn (tối đa không quá 2 năm kể từ ngày hội nghị chủ nợ thông qua phương
án hòa giải). Trong nhiều trường hợp thì thời hạn 2 năm này không phải là đủ dài
để doanh nghiệp có thể hoàn tất công việc của mình, nhất là đối với các doanh
nghiệp có quy mô lớn cần thay đổi toàn bộ quy mô sản xuất, công nghệ… Do đó,
luật phá sản cũng cho phép các doanh nghiệp kéo dài thêm thời hạn tối đa này để
thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản.
Ngoài ra, pháp luật về phá sản còn cho phép doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ và doanh nghiệp,
hợp tác xã có quyền thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh hoặc thoả thuận về việc sửa đổi, bổ sung phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã được chấp nhận khi có quá nửa số
chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm
trở lên đồng ý (Điều 75 Luật phá sản năm 2004) và phải được thẩm phán ra quyết
định công nhận. Quyết định công nhận của thẩm phán phải được gửi cho doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra
quyết định.

1.2.5. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh:
1.2.5.1. Các trường hợp tiến hành đình chỉ thủ tục phục hồi kinh doanh:
Theo quy định tại Điều 76 luật phá sản 2004 Thẩm phán ra quyết định đình
chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản nếu có một trong các trường hợp sau đây:
o Doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh;
o Được quá nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho từ
hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý
đình chỉ.
 Quy định trên của pháp luật là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn thi hành. Bởi lẽ
khi thực hiện xong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh đồng nghĩa với
việc doanh nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Trong trường hợp này, sự
công nhận của tòa án bằng quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh là vấn đề tất yếu và cần thiết cho các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản. Không những thế, tòa án còn phải ra quyết định đình chỉ thủ
tục phục hồi khi có nửa số phiếu của các chủ nợ không có bảo đảm đại diện cho
từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo đảm trở lên chưa thanh toán đồng ý
đình chỉ. Sở dĩ pháp luật có quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ
nợ không có bảo đảm, nhưng khi bắt tay vào thực hiện phương án có thể vì lý
do khách quan nào đó mà họ cho rằng phương án phục hồi sẽ không mang lại


lợi ích gì cho họ và họ đi đén quyêt định này. Dường như ý định này cũng có
phần nào phán ánh độ tin cậy về khả năng thanh toán của doanh nghiệp, hợp tác
xã mà các chủ nợ không có bảo đảm đã dành cho họ khi đồng ý đình chỉ thủ tục
phục hồi hoạt đông của doing nghiệp, hợp tác xã.
Tòa án phải gửi và thông báo công khai quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 29 Luật
phá sản:

Quyết định của Toà án được gửi cho doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản, Viện kiểm sát cùng cấp và đăng trên báo địa phương nơi doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có địa chỉ chính, báo hàng ngày của trung
ương trong ba số liên tiếp.
Quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản phải được thông báo cho các chủ nợ,
những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Thời hạn gửi và thông báo quyết định mở thủ tục phá sản quy định là bảy ngày, kể
từ ngày Toà án ra quyết định.
1.2.5.2. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi:
Theo quy định tại Điều 77 Luật Phá sản 2004, việc ra quyết định đình chỉ
thủ tục phục hồi dẫn đến một hậu qủa pháp lý rất quan trọng là doanh nghiệp đó
được coi không lâm vào tình trạng phá sản. Sau khi doanh nghiệp thoát khỏi lâm
vào tình trạng phá sản, nếu việc thi hành án dân sự chưa được thi hành thì doanh
nghiệp sẽ tiếp tục phải thực hiện những nghĩa vụ thi hành án dân sự bị đình chỉ do
áp dụng thủ tục phục hồi. Mặt khác, việc giải quyết những vụ án bị đình chỉ theo
Điều 57 Luật Phá sản mà chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết định đình
chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc giải quyết vụ án
lại được tiếp tục và doanh nghiệp lại tiếp tục là đương sự của vụ án đó.
Tại tiểu mục 11.3 Mục 11 Phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn: “Trường hợp quyết định đình chỉ vụ án quy định tại điểm g khoản 1 Điều 192
của BLTTDS và khoản 2 Điều 77 của Luật Phá sản, nếu sau đó Toà án ra quyết


định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh gửi trả lại hồ sơ vụ án cho
Toà án có thẩm quyền, thì Toà án đó tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung”.
Thực tế tại các Toà án địa phương, do nhận thức vấn đề này không giống
nhau nên đã thực hiện quy định này chưa có sự thống nhất. Cụ thể là:
Có địa phương cho rằng, phải thực hiện đúng câu chữ của hướng dẫn trên,
nghĩa là sau khi được trả lại hồ sơ vụ án cùng với quyết định đình chỉ thủ tục phục

hồi hoạt động kinh doanh của Toà án giải quyết phá sản, Toà án đã ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm g khoản 1 Điều 192 của BLTTDS đương
nhiên phải khôi phục lại vụ án và tiếp tục giải quyết vụ án mà không cần làm lại
thủ tục thụ lý vụ án. Nguyên đơn không phải làm lại thủ tục khởi kiện và cũng
không phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm.
Một số địa phương khác cho rằng, sau khi đã có quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án, muốn được Toà án giải quyết lại vụ án đó thì nguyên đơn phải làm
đơn khởi kiện lại theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLTTDS và phải làm lại thủ
tục thụ lý vụ án như một vụ án mới, trong đó có việc phải nộp lại tiền tạm ứng án
phí sơ thẩm (tạm ứng án phí sơ thẩm lần trước đã bị nộp vào công quỹ Nhà nước
theo quy định tại khoản 2 Điều 193 BLTTDS). 2
2. Chế định pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của một số
quốc gia trên thế giới:

2.1. Pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp ở Nhật Bản
Luật phá sản của Nhật Bản gồm hai thủ tục chính là thủ tục thanh lý tài sản và thủ
tục phục hồi. Trong đó, thủ tục thanh lý tài sản bao gồm: Phá sản; Thanh lý đặc
biệt và Thoả hiệp. Theo thủ tục này thì toàn bộ tài sản của công ty được chuyển
thành tiền mặt và thanh toán cho các chủ nợ, chấm dứt sự hoạt động cũng như
2

Thực trang về vấn đề phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt

Nam, do PGS. TS. Dương Đăng Huệ; Ths. Nguyễn Thanh Tịnh chủ biên.


chấm dứt sự tồn tại của công ty. Thủ tục phục hồi bao gồm: Tổ chức lại công ty
(tái thiết công ty), Phục hồi dân sự và Sắp xếp công ty.
o Tổ chức lại công ty
Thủ tục này chỉ áp dụng cho những công ty lớn, công ty tài chính, bảo

hiểm, ngân hàng. Mục tiêu của thủ tục này là bảo tồn giá trị của công ty với tư
cách là một thực thể hoạt động và vẫn đảm bảo các quyền của các bên liên quan.
Theo thủ tục này, hoạt động của công ty được quản lý và giám sát, các quyền của
chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ được cân nhắc, điều chỉnh, các hoạt động kinh
doanh được tiếp tục.
Khi công ty mắc nợ nộp đơn xin tái thiết công ty thì kèm theo đơn phải có
bản cân đối tài chính, kiểm kê tài sản của công ty, danh sách chủ nợ, bản trình bày
khả năng tái thiết công ty (chứng minh những nguồn vốn có thể huy động được,
khả năng có thể trả được những chi phí, những khoản nợ nhất định) và kế hoạch
tổng thể về kinh doanh của công ty tương lai (phải nêu được có sự hợp tác của các
công ty chủ nợ trong tương lai).
Toà án sẽ xem xét đơn trong vòng một tuần, nếu thấy đã đầy đủ theo quy
định thì Toà án thụ lý đơn, ra lệnh bảo toàn tài sản và chỉ định người quản lý tài
sản. Người quản lý tài sản sẽ đến công ty người mắc nợ và sẽ nắm quyền kinh
doanh (ban điều hành của công ty bị giải tán). Người này sẽ điều tra tình trạng của
công ty trong thời hạn từ một đến ba tháng. Nếu thấy công ty có khả năng tái thiết
được thì báo cáo với Toà án để mở thủ tục tái thiết công ty, ngược lại thì mở thủ
tục phá sản. Để thực hiện những công việc trên, người quản lý tài sản sẽ phải tìm
kiếm người có khả năng quản lý công ty vỡ nợ, tìm kiếm những công ty có thể
mua (bảo trợ) công ty vỡ nợ.
Đặc trưng của thủ tục này là: có thể hạn chế quyền của chủ nợ có bảo đảm
(có nghĩa là quyền của chủ nợ đối với tài sản thế chấp của người mắc nợ bị đình
chỉ, tạm thời chưa thanh toán, chưa giải quyết quyền lợi cho chủ nợ có bảo đảm,
quyền này sẽ được khôi phục khi công ty người mắc nợ bị phá sản); Giảm thiểu sự
ưu tiên đối với khoản nợ thuế (trong thủ tục phá sản khoản nợ này được ưu tiên);
Các cổ đông công ty chia sẻ và cùng gánh chịu thiệt hại; phát hành cổ phiếu mới
để hình thành cổ đông mới của công ty. Công ty bảo trợ chính (Công ty bỏ tiền
nhiều nhất để mua công ty vỡ nợ) sẽ là cổ đông chính và thông thường người quản
lý tài sản để công ty bảo trợ chính nắm giữ quyền quản lý của công ty tái thiết.
Toà án kiểm tra giám sát quá trình thực hiện kế hoạch tổ chức lại công ty…

Trong thời hạn một năm kể từ ngày Toà án mở thủ tục tái thiết công ty,
phương án tái thiết công ty phải hoàn thành và nếu chưa hoàn thành thì được gia
hạn thêm một năm nữa. Phương án này do hội nghị chủ nợ có bảo đảm và hội nghị


chủ nợ không có bảo đảm thông qua. Trên thực tế thì chỉ tiến hành một hội nghị
chủ nợ, nhưng phát hành hai lá phiếu khác nhau cho hai loại chủ nợ. Phải có trên
2/3 chủ nợ không có bảo đảm và 3/4 chủ nợ có bảo đảm tán thành thì phương án
tái thiết được thông qua. Phương án giảm nợ phải có 4/5 chủ nợ có bảo đảm thông
qua. Mặc dù luật quy định phương án tái thiết được xây dựng trong vòng hai năm,
nhưng trên thực tế nó được thực hiện một cách khẩn trương, chỉ trong vòng một
năm hoặc ít hơn. Khi phương án tái thiết được thông qua thì công ty được coi như
một công ty bình thường khác, Luật sư được chỉ định làm người quản lý tài sản ở
lại công ty với vai trò là người tư vấn giám sát hoạt động của công ty. Nếu thấy
phương án tái thiết đã thực hiện được từ 70% đến 80% thì Toà án sẽ chấm dứt vai
trò giám sát của họ (cũng là chấm dứt sự giám sát của Toà án).
Trên thực tế, ở Nhật Bản chưa có một công ty nào được tái thiết lại lâm vào
tình trạng phá sản. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết thì công ty tái thiết hoàn toàn có
thể lại lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này, quyền lợi của các chủ nợ
mới đã giúp công ty tái thiết sẽ được giải quyết như thế nào? Ở Nhật Bản chưa có
quy định về vấn đề này, ở Mỹ thì quy định rõ trong trường hợp này chủ nợ mới sẽ
phải được ưu tiên hàng đầu.
o Thủ tục phục hồi dân sự
Cũng tương tự như thủ tục tổ chức lại công ty, thủ tục phục hồi dân sự cũng nhằm
bảo đảm cho doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục kinh doanh, tạo cơ hội cho doanh
nghiệp mắc nợ phục hồi kinh tế sau khi gặp khó khăn về tài chính chứ không phải
là thanh toán nó.
Tuy nhiên, nếu thủ tục tổ chức lại công ty chỉ áp dụng cho những công ty lớn thì
thủ tục phục hồi dân sự được áp dụng cho cả cá nhân kinh doanh và pháp nhân
vừa và nhỏ. Pháp nhân không chỉ bao gồm các công ty kinh doanh mà còn bao

gồm cả những pháp nhân công ích như trường học, bệnh viện… Thủ tục này cũng
áp dụng cho các công ty lớn nếu họ lựa chọn thủ tục này.
Theo thủ tục này, doanh nghiệp mắc nợ chỉ cần đang ở tình trạng có khả năng sẽ
không thể thanh toán nợ đến hạn là được quyền nộp đơn xin phục hồi dân sự.
Khi doanh nghiệp mắc nợ nộp đơn xin phục hồi dân sự, Toà án sẽ thụ lý đơn ngay
(không cần một tuần chuẩn bị như các thủ tục khác). Và ngay sau đó, Toà án chỉ
định người giám sát tài sản và ra lệnh bảo toàn tài sản. Trong vòng từ hai tuần đến
một tháng, người giám sát tài sản điều tra để xác định doanh nghiệp mắc nợ có còn
khả năng kinh doanh hay không. Toà án sẽ ra quyết định mở thủ tục phục hồi dân
sự trên cơ sở báo cáo này.


Ở thủ tục phục hồi dân sự, trong vòng ba tháng kể từ ngày Toà án quyết định mở
thủ tục, doanh nghiệp mắc nợ phải nộp phương án phục hồi, có thể được gia hạn
hai lần, mỗi lần một tháng. Nếu đã gia hạn hai lần mà không có phương án phục
hồi thì Toà án ra quyết định phá sản.
Trong vòng năm tháng kể từ ngày Toà án mở thủ tục sẽ triệu tập hội nghị chủ nợ
để thông qua phương án phục hồi người mắc nợ. Nếu trên 1/2 số chủ nợ (với trên
1/2 tổng số nợ) tán thành phương án phục hồi, thì phương án này được Toà án
công nhận và doanh nghiệp mắc nợ sẽ thực hiện phương án phục hồi trong vòng
ba năm.
Nhìn chung, thủ tục phục hồi dân sự tương tự như thủ tục tổ chức lại công ty, tuy
nhiên có ba điểm khác biệt căn bản giữa thủ tục phục hồi dân sự và thủ tục tổ chức
lại công ty:
 Ở thủ tục phục hồi dân sự, thành phần quản lý hiện tại của doanh nghiệp
mắc nợ vẫn nắm quyền quản lý và kinh doanh; ở thủ tục tổ chức lại công ty
thì bộ phận này được thay thế bằng một thành phần mới.
 Ở thủ tục tổ chức lại công ty, cổ đông hiện tại được coi như không còn nữa,
còn ở thủ tục phục hồi dân sự thì vẫn giữ nguyên.
 Quyền bảo đảm của chủ nợ trên tài sản thế chấp của công ty ở thủ tục phục

hồi dân sự không bị hạn chế, còn ở thủ tục tổ chức lại công ty thì bị đình
chỉ.
Trong trường hợp chủ nợ có bảo đảm không đồng ý tạm thời dừng quyền của
mình đối với tài sản thế chấp (ví dụ: chủ nợ có bảo đảm vẫn muốn bán nhà xưởng
là tài sản thế chấp của người mắc nợ), thì doanh nghiệp mắc nợ không thể tiếp tục
kinh doanh được nữa, do đó tùy theo quan hệ với chủ nợ mà công ty sẽ lựa chọn
tái thiết công ty hoặc phục hồi dân sự.
o Thủ tục sắp xếp công ty
Thủ tục này về bản chất cũng là thủ tục phục hồi lại công ty nhưng được giải quyết
ngoài Toà án. Thủ tục này tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng, nên cũng được
nhiều công ty áp dụng. Đặc điểm căn bản của thủ tục này là phương án sắp xếp lại
công ty cần phải được hội nghị chủ nợ thông qua, doanh nghiệp mắc nợ sẽ gặp
từng chủ nợ để thỏa thuận việc sắp xếp lại công ty (hoãn nợ, mức trả nợ, cách thức
trả nợ, bỏ bớt lĩnh vực kinh doanh không có lãi…). Trong thủ tục này, pháp luật có
quy định cho phép sự can thiệp cần thiết của Toà án đối với những chủ nợ có bảo
đảm nếu muốn bán tài sản thế chấp thì Toà án sẽ ra lệnh ngăn chặn. Tuy nhiên, sự
can thiệp của Toà án là rất hạn chế.


=> Như vậy, để giải quyết tình trạng một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, pháp
luật Nhật Bản có rất nhiều hình thức tuỳ thuộc vào thực trạng cụ thể của doanh
nghiệp đó.
2.2. Pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp ở Pháp
Quy định của pháp luật hiện đại về phá sản của Pháp được đưa ra trong các
luật năm 1955, năm 1967. Hiện tại, việc giải quyết phá sản ở Pháp được quy định
tại Luật ngày 25-01-1985 (được sửa đổi theo Luật Phá sản ngày 20-10-1994). Một
trong những đặc trưng của pháp luật phá sản hiện đại của Pháp là khuyến khích sự
sống sót của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật cũng phân biệt rõ
các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản và sự phân biệt thứ tự ưu tiên các
quyền của chủ nợ đối với người mắc nợ. Pháp luật về phá sản của Pháp cũng quy

định hai thủ tục: Thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản. Theo những chứng cứ do
người nộp đơn đưa ra, Toà án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào, nếu áp dụng thủ
tục phục hồi thì Toà án sẽ chỉ định người giám sát doanh nghiệp. Người giám sát
doanh nghiệp sẽ đánh giá khả năng của doanh nghiệp, nếu có khả năng phục hồi,
người này sẽ đề nghị Toà án cho áp dụng thủ tục phục hồi. Người đề nghị sẽ xây
dựng kế hoạch phục hồi. Trong trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị làm thủ
tục phá sản. Người giám sát doanh nghiệp sẽ xây dựng và chuẩn bị kế hoạch bán
doanh nghiệp.
Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 quy định thủ tục phục hồi tư pháp. Thủ tục
này cấp cho thẩm phán chỉ trong những trường hợp mà sự phục hồi rõ ràng là có
thể, quyền ấn định một giai đoạn giám sát mà thời hạn của nó có thể dao động từ 6
tháng đến 20 tháng. Trong khoảng thời gian này, việc quản lý doanh nghiệp được
đặt dưới sự giám sát của Toà án. Kết thúc giai đoạn giám sát, Toà án ra quyết định
thanh lý công ty hoặc có thể yêu cầu người mắc nợ và các chủ nợ một kế hoạch
phục hồi[2]. Kế hoạch của người giám sát phải được Toà án thông qua và chấp
thuận. Trong thời gian thực hiện kế hoạch giám sát, mọi khiếu nại (đòi nợ) đối với
doanh nghiệp bị giám sát sẽ tạm ngừng. Toà án sẽ xem xét chấp thuận hoặc không
chấp nhận kế hoạch do người được Toà án chỉ định đệ trình mà không cần phải có
ý kiến của các chủ nợ.
Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã có những quy định cụ thể hơn để tạo
thêm khả năng có thể bỏ qua quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, nếu doanh nghiệp
không thể có khả năng phục hồi thì sẽ áp dụng thủ tục thanh toán ngay, còn trong
trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi thì cũng có những quy định chặt chẽ để hạn
chế quá trình giám sát doanh nghiệp. Thực tế này cho thấy họ đã bỏ bớt những giai
đoạn không cần thiết giúp nhanh chóng thực hiện được mục tiêu: hoặc là áp dụng
thủ tục phục hồi, hoặc là nhanh chóng thanh lý được doanh nghiệp không còn khả
năng tồn tại.


Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 cũng thể hiện xu hướng thay đổi trong pháp

luật phá sản của Pháp. Nếu như trước năm 1994, mục tiêu của pháp luật phá sản
“hướng vào người mắc nợ” rất rõ nét với quan điểm rõ ràng là trong tình trạng thất
nghiệp cao, khả năng về việc làm và sản xuất phải được đảm bảo bằng mọi biện
pháp thì Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã làm giảm nhẹ mục tiêu hướng vào
người mắc nợ, tăng quyền hạn của các chủ nợ và nâng cao tính hiệu quả của quá
trình tổ chức lại doanh nghiệp.
Khác với Luật Phá sản của Nhật Bản yêu cầu kế hoạch tổ chức lại doanh
nghiệp phải được một tỷ lệ nhất định các chủ nợ ở mỗi nhóm chủ nợ thông qua,
Luật Phá sản của Pháp cho phép Toà án quyết định chấp thuận hay từ chối kế
hoạch do người được Toà án chỉ định đưa ra mà không cần các chủ nợ lớn phải
thông qua. Người được Toà án chỉ định có trách nhiệm tư vấn cho các nhà quản lý
doanh nghiệp, những người đại diện cho người lao động, các chủ nợ của doanh
nghiệp và các cơ quan có liên quan khác và yêu cầu họ cho biết quan điểm của họ
là nên để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại hay là thanh toán nó. Nhưng quyết định
cuối cùng lại do Toà án quyết định mà không cần sự đồng ý của các chủ nợ. Đây
là đặc điểm riêng của Luật Phá sản của Pháp.
2.3. Pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp ở Liên bang Nga
Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992 của Liên bang
Nga thì tình trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp
ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc
mất khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân
sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối
trong cán cân thanh toán của người mắc nợ. Luật Phá sản doanh nghiệp của Liên
bang Nga quy định các thủ tục gồm: Thủ tục tổ chức lại và Thủ tục thanh lý.
Thủ tục thanh lý bao gồm: Giải thể bắt buộc doanh nghiệp mắc nợ theo
quyết định của Toà án trọng tài và Giải thể tự nguyện bởi doanh nghiệp bị phá sản
dưới sự kiểm soát của các chủ nợ.
Thủ tục tổ chức lại bao gồm việc quản lý tài sản của người mắc nợ và phục
hồi doanh nghiệp mắc nợ. Theo thủ tục tổ chức lại, chủ nợ, người mắc nợ và chủ
sở hữu người mắc nợ có thể nộp đơn yêu cầu quản lý tài sản người mắc nợ đến

Toà án trọng tài. Nếu xét thấy có đủ điều kiện thì Toà án trọng tài đồng ý cho tiến
hành thủ tục quản lý tài sản của người mắc nợ. Thời hạn áp dụng tối đa không quá
18 tháng;
Toà án trọng tài bổ nhiệm một Quản tài viên (người này được hưởng thù
lao). Quản tài viên có quyền quản lý và lãnh đạo doanh nghiệp, chịu trách nhiệm
quản lý doanh nghiệp.


Tổ chức Hội nghị chủ nợ: Bầu uỷ ban chủ nợ; Phê duyệt kế hoạch quản lý
tài sản của người mắc nợ; Bổ nhiệm (chỉ định một số doanh nghiệp) có nghĩa vụ
chuyển tiền vào tài khoản ký quỹ tại Toà án trọng tài; phê duyệt kế hoạch quản lý
tài sản của người mắc nợ…
Tuỳ tình hình cụ thể, Quản tài viên có quyền đề nghị Toà án trọng tài quyết
định đối với doanh nghiệp: Chấm dứt quản lý tài sản và tuyên bố doanh nghiệp bị
phá sản; tiếp tục thực hiện quản lý doanh nghiệp; tuyên bố doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng trên và chấm dứt quản lý tài sản của doanh nghiệp.
- Phục hồi doanh nghiệp mắc nợ:
Chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và chủ sở hữu doanh nghiệp mắc nợ có thể nộp đơn
yêu cầu phục hồi doanh nghiệp đó đến Toà án trọng tài;
Nếu thấy có đủ điều kiện thanh toán các khoản nợ từ phía doanh nghiệp mắc nợ
thì có thể áp dụng thủ tục phục hồi. Khi đó sẽ có sự giúp đỡ về mặt tài chính từ
phía chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc từ những người khác;
Nếu trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày nhận được lá đơn thứ nhất, Toà án trọng tài
nhận được đơn thứ hai yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với chính doanh nghiệp đó
thì sẽ không được áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp.
- Nếu chấp nhận phục hồi doanh nghiệp mắc nợ thì theo yêu cầu của chủ nợ,
doanh nghiệp mắc nợ, Toà án trọng tài tuyên bố tổ chức cuộc thi chọn người tham
gia phục hồi doanh nghiệp. Quá thời hạn dự kiến mà không ai đăng ký tham gia
cuộc thi chọn người phục hồi doanh nghiệp thì Toà án trọng tài sẽ ra một trong
những quyết định sau:

+ Công nhận doanh nghiệp bị phá sản và tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp;
+ Bác đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì doanh nghiệp có khả năng đáp ứng yêu
cầu của doanh nghiệp chủ nợ và có khả năng thanh toán các khoản nợ.
Nếu có đủ người thì những người tham gia phục hồi doanh nghiệp sẽ có
cuộc họp để đưa ra thoả hiệp. Bản thoả hiệp không được đưa ra yêu cầu buộc
doanh nghiệp mắc nợ chuyển giao tài sản cho người tham gia phục hồi. Những
người tham gia phục hồi phải cộng đồng trách nhiệm với doanh nghiệp bị phục
hồi.
Tuỳ tình hình cụ thể mà doanh nghiệp mắc nợ, chủ nợ, chủ sở hữu doanh
nghiệp mắc nợ có quyền làm đơn yêu cầu Toà án trọng tài ra một trong những


quyết định: công nhận doanh nghiệp đã được phục hồi và đình chỉ thủ tục phá sản;
chấm dứt phục hồi và tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản;

Chương II/ Một số đề xuất hướng hoàn thiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

2/ Về các quy định của Luật phá sản 2004 về thủ tục phục hồi doanh nghiệp
2.1. Các quy định về giảm nhẹ khó khăn tài chính cho doanh nghiệp trong
thời gian áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp
Nội dung của thủ tục phục hồi trong Luật phá sản 2004 có nhiều tiến bộ
hơn so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Doanh nghiệp muốn hồi phục ngoài ý
chí chủ quan của các bên thể hiện trong phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
cần có những điều kiện cần thiết về khả năng tài chính và có sự khuyến khích của
Nhà nước. Một trong những khuyến khích của Nhà nước có thể có ở đây là quy
định về việc giảm nhẹ khó khăn tài chính cho con nợ như giảm nợ, không tính lãi
đối với các khoản nợ nếu doanh nghiệp có phương án phục hồi hiệu quả nhằm
giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Tuy

nhiên Luật phá sản 2004 không áp dụng quy định này ở thủ tục phục hồi mà lại áp
dụng ở thủ tục thanh lý (Điều 34). Việc giảm nhẹ khó khăn tài chính cho con nợ
như giảm nợ, không tính lãi… hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả hòa giải giữa con
nợ với các chủ nợ mà không có sự hỗ trợ, khuyến khích của Luật đối với thủ tục
phục hồi, vì vậy cần thiết phải bổ sung thêm quy định này để đảm bảo cho việc
thực thi những quy định này được toàn vẹn và hiệu quả nhất.
2.2. Về hậu quả của quyết định công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh:
Theo Điều 72 Luật phá sản 2004, Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết
của Hội nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả các bên có liên quan. Kể từ ngày
Nghị quyết có hiệu lực hoạt động của doanh nghiệp bị chi phối bởi phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp có nghĩa vụ tuân thủ phương án này
và chịu sự giám sát của các chủ nợ và thẩm phán. Một câu hỏi được đặt ra khi
Nghị quyết này có hiệu lực thì những điều cấm, hạn chế đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp do Luật định tại Điều 31 có đương nhiên chấm dứt hay
không? Luật không quy định cụ thể. Nhưng với suy luận lôgic thì câu trả lời ở đây
là các điều cấm, hạn chế hoạt động kinh doanh của Điều 31 đương nhiên phải tạm


đình chỉ trong thời hạn tối đa là 3 năm – thời hạn thực hiện phương án phục hồi
hoặc phải chấm dứt hiệu lực. Mọi hoạt động của doanh nghiệp không phù hợp với
phương án phục hồi đã được Hội nghị chủ nợ thông qua và Tòa án công nhận đều
là các giao dịch trái pháp luật có thể bị tuyên bố vô hiệu. Vì vậy Luật phá sản 2004
cần bổ sung quy định về hậu quả này khi thẩm phán công nhận Nghị quyết về
phương án phục hội của Hội nghị chủ nợ.
2.3. Đảm bảo quyền tự chủ định đoạt của các chủ nợ
Các quy định của Luật phá sản 2004 thể hiện xu hướng trao nhiều quyền cho
Thẩm phán trong thủ tục phục hồi doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong các quy
định về tổ chức và hoạt động của Hội nghị chủ nợ: Thẩm phán chủ trì Hội nghị

chủ nợ (Khoản 4, Điều 61); doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải xây
dựng phương án phục hồi kinh doanh và nộp cho Toà án (Khoản 2, Điều 68);
Thẩm phán xem xét, đánh giá phương án phục hồi kinh doanh, ra quyết định (Điều
70); Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương án phục
hồi (Khoản 1, Điều 71); Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của Hội
nghị chủ nợ về phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của DN (Khoản 1, Điều
72)..., việc trao nhiều quyền cho Thẩm phán trong thủ tục phục hồi kinh doanh là
không đảm bảo được tính tự thoả thuận giữa các chủ nợ với doanh nghiệp, quyền
tự chủ định đoạt của các chủ nợ. Chẳng hạn như việc xem xét đánh giá, chấp nhận,
sửa đổi phương án phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp là toàn quyền của Hội
nghị chủ nợ. Thẩm phán chỉ nên hỗ trợ về mặt thủ tục pháp lý trong phạm vi thẩm
quyền của mình; tiến hành giám sát, tránh sự gian lận; hạn chế can thiệp sâu vào
nội dung. Khi Hội nghị chủ nợ đã biểu quyết thông qua phương án phục hồi kinh
doanh của doanh nghiệp đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định thì Thẩm phán
có nghĩa vụ phải ra quyết định công nhận kế hoạch đó.
Bên cạnh đó, Luật Phá sản 2004 lại nặng về thủ tục tố tụng tại Toà án liên quan
đến phá sản doanh nghiệp mà chưa quy định những điều kiện, thủ tục khác nhằm
để phục hồi hay thanh lý tài sản. Chẳng hạn như các chủ nợ có thể chỉ định các
chuyên gia quản trị, quản tài viên giỏi để quản trị, điều hành doanh nghiệp nhằm
cứu vãn doanh nghiệp hoặc tối đa hoá tài sản doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi cho
các chủ nợ. Đây là những người rất quan trọng trong thủ tục phục hồi và phá sản
doanh nghiệp. Tuy vậy, cần phải tạo điều kiện cho đội ngũ này phát triển, thay vì
chỉ chú trọng thành lập tổ quản lý và chia tài sản như hiện nay. Điều này cũng phù
hợp với xu hướng khuyến khích hình thành các định chế để hỗ trợ hoạt động kinh
doanh hiện nay (như kiểm toán, tư vấn, luật sư, quản trị viên...), trong bối cảnh
công việc của các Toà án quá tải, đội ngũ thẩm phán về kinh doanh còn thiếu và
yếu, chưa có các Toà phá sản riêng trong hệ thống Toà án.3
3

Nguyễn Thị Thu Trang - Ban Pháp Chế VCC



2.4. Bổ sung thêm vấn đề cung cấp tài chính cho quá trình phục hồi doanh
nghiệp
Cung cấp tài chính cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được áp dụng thủ
tục phục hồi là một vấn đề rất quan trọng, vì nếu con nợ không có tài chính để đáp
ứng ngay các nhu cầu chi tiêu (như thanh toán cho các nhà cung cấp, trả lương cho
người lao động,...) thì việc phục hồi sẽ thất bại. Có 2 khía cạnh cần có sự hỗ trợ
của luật: quyền được nhận cung cấp tài chính và đảm bảo cho việc hoàn trả các
cung cấp tài chính cho việc phục hồi. Không có sự đảm bảo việc hoàn trả các cung
cấp tài chính cho việc phục hồi doanh nghiệp thì sẽ rất khó huy động vốn để phục
hồi doanh nghịêp. Tuy nhiên, việc đảm bảo phải được giới hạn đối với những cung
cấp tài chính:
- Xảy ra sau khi có quyết định phục hồi doanh nghiệp.
- Trực tiếp phục vụ cho việc tiếp tục hoạt động kinh doanh và những nhu
cầu khẩn cấp về tài chính của doanh nghiệp phục hồi.
Bên cạnh đó cũng nên quy định thêm rằng những người cung cấp tài chính
cho những yêu cầu phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói trên sẽ
được quyền ưu tiên thanh toán trước tất cả các chủ nợ.

2.5. Vấn đề biểu quyết và phê chuẩn quyết định phục hồi doanh nghiệp
Vai trò của Chủ nợ được phát huy cao độ trong quá trình giải quyết thủ tục
phá sản do đó, Luật phá sản sẽ không có ý nghĩa gì nếu như không có sự tham gia
của các chủ nợ vào quá trình phá sản. Đặc biệt là đối với quá trình phục hồi. Luật
phá sản các quốc gia tiêu biểu trên thế giới (Anh, Mỹ, Đức) đều dành quyền biểu
quyết cho tất cả các chủ nợ (có hoặc không có bảo đảm), việc biểu quyết được tiến
hành theo từng loại nhóm chủ nợ (có bảo đảm, không có bảo đảm, chủ nợ có
quyền ưu tiên, v.v.) và quyết định được thông qua khi số chủ nợ tán thành đại diện
cho quá nửa (tỷ lệ cụ thể có khác nhau) tổng số nợ của các chủ nợ có quyền biểu
quyết. Nói chung, luật của họ không dành quyền quyết định cho các chủ nợ không

có bảo đảm như chúng ta. Lý do chính có thể là, khả năng tham gia của các chủ nợ
có bảo đảm vào quá trình phục hồi vì trên thực tế các chủ nợ này có tiềm lực tài
chính đáng kể và có khả năng đóng góp có hiệu quả cho quá trình phục hồi doanh
nghiệp. Đây là vấn đề mà chúng ta cũng cần nghiên cứu và có thể có những điều
chỉnh thích hợp để bắt kịp xu hướng trong quá trình hội nhập quốc tế sau này.4

4

TS. Nguyễn Ngọc Thạch - Phục hồi Doanh nghiệp


Một vấn đề khác đã xảy ra trên thực tiễn thi hành luật phá sản của các nước và cần
được luật pháp xử lý thoả đáng là vấn đề chống việc sử dụng mánh khoé để tranh
thủ phiếu biểu quyết của những người có quan hệ gần gũi với con nợ, thậm chí là
bản thân giám đốc, cổ đông của con nợ trong trường hợp họ cũng đồng thời là chủ
nợ không có bảo đảm của doanh nghiệp. Có thể giải quyết vấn đề này bằng cách
trao cho Toà án không chỉ quyền công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi mà
cho Toà án quyền loại bỏ số phiếu của những người có quan hệ gần gũi với con nợ
khi xem xét việc công nhận Nghị quyết về phương án phục hồi, nếu xét thấy nghị
quyết đi ngược lại lợi ích của những chủ nợ thực sự (là những người không thuộc
đối tượng nói trên).
2.6. Cần một hệ thống tư pháp đủ mạnh
Các biện pháp phục hồi doanh nghiệp hiệu quả như thế nào phụ thuộc nhiều
vào năng lực quản lý tài sản của đội ngũ thẩm phán tại các tòa. Khi thủ tục phá sản
được mở, thẩm phán sẽ là người trực tiếp giải quyết việc phá sản của các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ. Từ việc triệu tập, chủ trì, điều hành các cuộc họp của chủ
nợ, phê duyệt dự án tái cơ cấu, giám sát thực hiện, định giá tài sản cho đến xác
định các tài sản nợ của doanh nghiệp, Luật Phá sản đều quy định đội ngũ thẩm
phán phải thực hiện. Bởi thế, ngoài những yêu cầu về trình độ pháp lý, người thẩm
phán còn phải có trình độ hiểu biết về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là tài chính kế toán.

Do đó, cần nâng cao trình độ chuyên môn để có một đội ngũ thẩm phán
chuyên xử lý các vụ việc phá sản. Khi có niềm tin vào năng lực của tòa án, các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ sử dụng trình tự phá sản như một cách thức để
phục hồi kinh doanh. Chừng nào cơ hội phục hồi kinh doanh thông qua thủ tục phá
sản còn thấp, thì người ta còn e ngại việc tuyên bố phá sản.
2.6.1 Về phía doanh nghiệp áp dụng thủ tục phục hồi.
2.6.1.1. Thực trạng áp dụng thủ tục phục hồi:
Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, trong vòng 5 năm kể từ
khi Luật Phá sản 2004 có hiệu lực pháp luật đã có 195 vụ phá sản được thụ lý.
Tình hình thụ lý và giải quyết đơn yêu cầu giải quyết phá sản là như sau:
- Năm 2005, toàn ngành Tòa án đã thụ lý mới 11 vụ. Năm 2004 chuyển qua
3 vụ, tổng cộng 14 vụ. Toà án đã giải quyết được 01 vụ (đạt 7,14%); còn tồn
chuyển sang năm 2006 là 13 vụ.


- Năm 2006, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 40 vụ; có 13 vụ từ năm 2005
chuyển qua, tổng cộng là 53 vụ. Đã giải quyết được 16 vụ, đạt tỷ lệ 30,2%.
- Năm 2007, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 144 vụ phá sản, trong đó,
Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý 120 vụ, Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý 24 vụ.
Năm 2006 chuyển qua 31 vụ, tổng cộng là 175 vụ việc. Trong số đó, Toà án đã ra
quyết định mở thủ tục phá sản 164 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ,
quyết định trả lại đơn 01 vụ. Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết xong tất cả 24
vụ đã thụ lý (đều ra quyết định tuyên bố phá sản), đạt 100%. Còn lại 151 vụ phá
sản do Toà án nhân dân cấp tỉnh thụ lý được giải quyết như sau: quyết định trả lại
đơn 01 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định tuyên bố phá
sản theo thủ tục đặc biệt 04 vụ, quyết định đình chỉ thủ tục phá sản 10 vụ, quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản 75 vụ, còn tồn lại 51 vụ đang được tiếp tục giải
quyết5.
Qua đó có thể nhận thấy tỷ lệ áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp sau
khi mở thủ tục phá sản là rất thấp và hầu như rất ít áp dụng, các doanh nghiệp bị

tuyên bố phá sản khá nhiều. Luật Phá sản năm 2004 đã được xây dựng theo hướng
là một công cụ nhằm phục hồi doanh nghiệp, tuy nhiên, trên thực tế, Luật vẫn
chưa phát huy được hiệu quả này. Trong tổng số 30 địa phương có báo cáo về Toà
án nhân dân tối cao thì chỉ có 01 vụ việc phá sản tại Toà án nhân dân tỉnh Lâm
Đồng được giải quyết với kết quả phục hồi doanh nghiệp (Xí nghiệp Dâu Tằm tơ
tháng

tám).

Nguyên nhân của vấn đề này có thể xét đến các quy định của Luật phá sản hiện
hành chưa phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nhưng nguyên nhân chính vẫn
là từ chính các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, do nhiều yếu tố chủ quan
và khách quan khác nhau, doanh nghiệp thường rất kín trong việc công bố hoạt
động sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp suy yếu hoặc doanh nghiệp cố gắng
tìm cách thóat khỏi phá sản một cách âm thầm bằng nhiều biện pháp khác nhau,
5

/>

một khi doanh nghiệp lâm vài tình trạng khánh kiệt, không thể cứu vãn được nữa
thì mới dám công bố đã lâm vào tình trạng phá sản, tình trạng này không phải
không có nguyên nhân của nó, bản chất của vấn đề bắt nguồn từ tâm lý chung của
những người chủ sở hữu doanh nghiệp, hầu như không ai muốn nhắc đến hai từ
“phá sản”, các chủ sở hữu lo ngại nếu doanh nghiệp của mình bị coi là phá sản
thì danh dự, uy tín bị ảnh hưởng, việc quản lý, điều hành yếu kém bị phơi
bày. Và cách thức mà họ lựa chọn là không tuyên bố phá sản mà tự mình tái
cơ cấu bằng cách cấp vốn bổ sung, hoãn nợ hoặc xóa nợ, phân tách, sáp nhập,
cho thuê, khoán… nhằm cố gắng thay đổi tình hình. Chính thái độ e dè này đã
khiến cho các doanh nghiệp tìm cách né tránh tối đa nếu đối mặt với phá sản, họ
không dám chủ động mở thủ tục phá sản ở giai đoạn cần thiết để sớm giải quyết

vấn đề và tìm cách áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp mà hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam bị tuyên bố phá sản mà ngay cả các chủ nợ cung không hề có cơ
hội thu hồi.
Phá sản là hiện tượng kinh tế bình thường, khách quan, phát sinh khi các
doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài và rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán. Phá sản hiện nay không chỉ là việc chấm dứt hoạt động, thu hồi toàn bộ tài
sản của doanh nghiệp và thanh toán cho các chủ nợ theo một thứ tự nhất định. Phá
sản còn một khía cạnh đáng lưu ý là, tạo cơ hội cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
thỏa thuận với các chủ nợ, tái cấu trúc lại doanh nghiệp và lên kế hoạch trả nợ hợp
lý để trở lại hoạt động bình thường.
Luật Phá sản hiện nay không chỉ đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ
nợ mà còn có mục tiêu bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản. Khi Luật Phá sản 2004 được ban hành, đã xuất hiện các quy định ghi nhận
tuyên bố phá sản là thủ tục nhằm tạo cơ hội cho doanh nghiệp tự tái tổ chức, phục
hồi kinh doanh. Theo đó, từ biện pháp huy động vốn mới, thay đổi mặt hàng kinh
doanh, đổi mới công nghệ sản xuất cho đến tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập
hoặc chia tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất đều
được quy định rõ tại Điều 68, Luật Phá sản 2004.


Tuyên bố phá sản chỉ là một trong vô số các biện pháp nhằm tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, bởi thế, không nên hiểu sai lệch để rồi né tránh. Chỉ khi
nhận thức như vậy, chúng ta mới sử dụng thủ tục tuyên bố phá sản mà cụ thể là
thủ tục phục hồi doanh nghiệp được quy định tại Luật Phá sản 2004 như một công
cụ để cứu vãn doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
2.6.1.2 Một số doanh nghiệp áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp điển hình
Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu Hùng Vương:
Thành lập và đăng ký kinh doanh tháng 10/1992, Công ty chế biến thực phẩm xuất
khẩu Hùng Vương là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, chức năng chính là sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm đông

lạnh.
Tuy có mặt bằng rộng lớn và nhiều thiết bị sản xuất chế biến thực phẩm nhưng
làm ăn không hiệu quả nhiều năm, giám đốc cũ của công ty dính líu trong một vụ
án hình sự và bị truy tố trước pháp luật.
Tháng 5/1998 Công ty nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo chủ
trương của cơ quan chủ quản. Ngày 20/6/1998 Chánh Tòa Kinh tế TAND thành
phố Hồ Chí Minh ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp đối với Công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu Hùng Vương.
Sau quá trình xác minh, số liệu công nợ cụ thể như sau:
Tổng số nợ phải trả là 225.395.657.790 đồng
Tổng số nợ phải thu 1.867.329.793 đồng
Tổng giá trị tài sản 11.444.461.895 đồng
Mất khả năng thanh toán 202.540.804.052 đồng
Tuy nhiên, tài sản về nhà xưởng của công ty có một giá trị tiềm tàng nếu được hợp
thức hoá quyền sở hữu.
Đồng thời với việc nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Công ty cũng
xây dựng phương án hòa giải với các chủ nợ và các giải pháp tổ chức lại hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.


×