Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng tòa án từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 113 trang )

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI BẰNG TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

2015 - 2017
Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI BẰNG TÒA ÁN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM
HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60380107


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực,
khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, cụ thể tại tỉnh Hà Nam.
Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
đề tài của mình.

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

NGƯỜI CAM ĐOAN

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS Trần Hữu Tráng

Nguyễn Thị Mai Hương


LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật với đề tài “ Giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại bằng tòa án từ thực tiễn tỉnh Hà Nam ” là kết quả của
quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên

khích lệ của các thầy, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua trang viết này tác
giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập nghiên cứu khoa học vừa qua.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo PGS.TS
Trần Hữu Tráng đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu
thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện Đại học mở Hà Nội, khoa đào tạo
sau đại học tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học
của mình.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị công tác đã
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN .. 11
1.1. Một số vấn đề lí luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ..... 11
1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ......................................... 14
1.1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng Tòa án ......................................................................................................... 20

1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án ...................................................................................... 25
1.2. Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án ở Việt
Nam ..................................................................................................................... 32
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM ..................... 41
2.1. Khái quát về tỉnh Hà Nam và Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam .................... 41
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Nam ........................................................................................................ 44
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam .................................................... 63
Kết luận chương 2 ............................................................................................... 77
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN .. 78
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật ............................................................... 78


3.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ................ 81
3.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Luật sư .......................................................... 87
3.4. Nâng cao ý thức pháp luật và đạo đức kinh doanh của chủ thể kinh doanh 90
3.5. Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với người dân ..... 93
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 96
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS


: Bộ Luật tố tụng dân sự

NXB

: Nhà xuất bản

TAND

: Tòa án nhân dân

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

ASEAN

: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ICSID

:Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế

LTTHC

: Luật tố tụng Hành chính

BLDS

: Bộ Luật dân sự


LTM

: Luật thương mại

GDP

: Thu nhập quốc dân

HDGV

: Hợp đồng góp vốn

KDTM – ST

: Kinh doanh, thương mại sơ thẩm

HĐXX

: Hội đồng xét xử

CPPT

: Cổ phần phát triển

UBND

: Ủy ban nhân dân



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Tình hình giải quyết các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2012-2016 ................................................................................45
Bảng 2: Thống kê chi tiết các loại tranh chấp kinh doanh, thương mại đã thụ lý tại tòa
án tỉnh Hà Nam ..............................................................................................................46
Bảng 3: Phân tích số liệu tình hình thụ lý và giải quyết các vụ tranh chấp
kinh doanh, thương mại của tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà Nam giai đoạn
2012-2016 ....................................................................................................................49


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu của
thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều
sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước
khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh
chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh, thương mại nói riêng với
tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại và phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
Để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của cá nhân, tổ chức
trong nền kinh tế, pháp luật đã quy định nhiều phương thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ
tục Trọng tài, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Ở Việt Nam các đương sự thường
lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng Toà án
như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của
mình khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hoà giải.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại xuất hiện ở tất cả các địa phương
trong cả nước mà Hà Nam không phải là một trường hợp ngoại lệ. Được tái lập
trên cơ sở chia tách ra từ tỉnh Hà Nam Ninh (cũ) vào ngày 01/01/1997, tỉnh Hà
Nam đã từng bước tạo bước đột phá trong phát triển về mọi mặt của đời sống

kinh tế - xã hội. Khu vực trung tâm hành chính của tỉnh được mở rộng, cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội, các khu dân cư phát triển mạnh mẽ. Với vị trí địa lý, giao
thông thuận lợi không chỉ tiếp giáp cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà Nội mà
còn nằm trên các trục đường giao thông huyết mạch của đất nước như: Quốc lộ
1A Bắc - Nam, quốc lộ 38; đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình v.v... đã tạo sức
hút cho nhiều nhà đầu tư chọn Hà Nam làm nơi xây dựng cơ sở sản xuất - kinh
doanh; nhiều khu công nghiệp mới được hình thành: như khu công nghiệp Đồng
Văn, khu công nghiệp Thanh Liêm v.v... Trong một vài năm trở lại đây, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Nam từ nông nghiệp sang công nghiệp,
1


dịch vụ, nông nghiệp đã từng bước làm thay đổi căn bản bức tranh kinh tế của
tỉnh, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện… Tuy nhiên, cùng với
sự gia tăng của hoạt động kinh doanh, thương mại, số lượng các vụ tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại tòa án ở tỉnh Hà Nam cũng gia tăng và ngày càng có
những vụ án phức tạp. Thực tiễn giải quyết loại tranh chấp này trên địa bàn tỉnh
Hà Nam còn tồn tại một số hạn chế, bất cập dẫn đến việc giải quyết dây dưa, kéo
dài gây tổn hại lợi ích kinh tế cho các bên đương sự cũng như ảnh hưởng đến
tâm lý của cộng đồng kinh doanh nói chung nên rất cần có sự nghiên cứu, tìm
hiểu nguyên nhân về vấn đề này, đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án theo tinh
thần cải cách tư pháp.
Chính vì vậy, là cán bộ đang công tác tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam,
tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng tòa án từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” để nghiên cứu trong phạm vi luận văn
thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên
cứu về vấn đề giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án theo

những khía cạnh khác nhau. Nhằm đánh giá tổng quan các công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài, học viên chia các công trình nghiên cứu có liên quan
đến đề tài thành các nhóm vấn đề như sau:
Các nghiên cứu lí luận về vấn đề giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
Nguyễn Vũ Hoàng (2003), Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
bằng con đường Tòa án, Nxb Thanh Niên, 269 tr, đã nêu tổng quan về tranh
chấp thương mại quốc tế, phân tích các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế như: thông qua thương lượng giữa các bên, thông qua hòa
giải, thông qua tòa án, thông qua trọng tài từ đó cuốn sách đi sâu phân tích các
nội dung giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng phương thức tòa án.
2


Vũ Thị Hồng Vân (2008), Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của toà án theo Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004,
Tạp chí Luật học, số 4, đã nêu khái niệm giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại và phân tích nội dung các quy định trong BLTTDS năm 2004 về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của toà án.
Vũ Thị Huệ (2010), Hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã chỉ
ra vị trí, vai trò của Tòa án trong tiến trình giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bằng cơ quan tài phán Trọng tài đồng thời đánh giá mối quan hệ hợp
tác, bổ trợ cho nhau cũng như những ưu điểm, nhược điểm của từng phương
thức giải quyết tranh chấp.
Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung
BLTTDS, Tạp chí TAND số 11, đã đề cập đến các vấn đề như: nên quy định thời
hiệu cụ thể đổi với từng quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại, vấn đề lựa
chọn tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và
các đề xuất liên quan áp dụng chế định xử án rút gọn để tránh tình trạng giải

quyết án kéo dài.
Sách chuyên khảo Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa án,
Trọng tài - Cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, Nxb Lao động, 367 tr, của tác
giả Nguyễn Thị Hoài Phương có nghiên cứu qui trình và thủ tục giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tại Tòa án và Trọng tài thương mại. Tác giả đã phân tích
những quy định về thủ tục tố tụng tại Tòa án và Trọng tài thương mại ở Việt
Nam, về vai trò của các bên khi tham gia tranh tụng tại Tòa án và Trọng tài
thương mại, về mối quan hệ giữa tòa án và Trọng tài thương mại trong vấn đề về
thủ tục tố tụng và về khả năng thi hành phán quyết của trọng tài trong thực tế.
Đinh Thị Trang (2013), Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại theo thủ tục tố tụng tòa án ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ,
trường Đại học Quốc gia Hà Nội, đã nêu và phân tích các vấn đề lý luận cơ bản
của nội dung tố tụng tại tòa án (chủ yếu dựa trên văn bản pháp luật hiện hành là
3


BLTTDS năm 2004 và các văn bản pháp lý có liên quan cùng với thực tiễn hoạt
động xét xử các loại án kinh doanh thương mại tại tòa án nhân dân. Từ đó, tác
giả có đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng giải quyết các vụ án
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Ngoài ra, có khá nhiều bài viết bàn về một vài khía cạnh lý luận của việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại như: Giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại theo quy định của BLTTDS năm 2004 của tác giả Viên Thế
Giang, (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005); Về mở rộng thẩm quyền
của toà án cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương
mại theo BLTTDS của tác giả Vũ Thị Hồng Vân (Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Số 01/2006); Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại theo pháp luật Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế của tác giả Dương Nguyệt Nga (Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối
cao, Số 16/2007); Có cần thiết phân biệt "Tranh chấp dân sự" với "Tranh chấp

kinh doanh, thương mại" trong quá trình giải quyết tại toà án? của tác giả Đặng
Thanh Hoa (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 9/2011); Tranh chấp
lao động hay tranh chấp kinh doanh thương mại? của tác giả Phạm Công Bảy
(Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 3/2012).v.v…
Các nghiên cứu về thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại
Lã Hoàng Giáp (2016), Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ
thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Luận
văn Thạc sĩ, Viện Đại học Mở Hà Nội, đã nêu và phân tích thực trạng giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình.
Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu quá trình áp dụng các quy định của pháp luật
hiện hành trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tác giả kiến
nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại tòa án.

4


Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Thơ có nhan đề Giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh nên chọn cách nào? đăng trên Tạp chí Doanh nhân và Pháp
luật số 19 năm 2009, đã đưa ra lời khuyên rằng các nhà quản lý phải cân nhắc
thấu đáo khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp sao cho vừa đảm bảo
có lợi cho doanh nghiệp mình nhưng phải duy trì được mối quan hệ kinh doanh.
Tác giả này cũng nêu rõ những ưu nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp về
thương mại tại tòa án và trọng tài để doanh nghiệp cân nhắc trước khi quyết định
khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài.
Bài viết của tác giả Nguyễn Minh Đức có nhan đề Cơ chế và kiến nghị
hoàn thiện giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng Tòa kinh tế, đăng trên
Trang điện tử của Bộ Tư pháp (năm 2011), trong đó tác giả này đã đưa ra kiến
nghị hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh tại Tòa kinh tế.

Bài viết nay đặc biệt phân tích những bất cập của BLTTDS năm 2004 và những
vướng mắc trong quá trình áp dụng qui định của BLTTDS năm 2004 liên quan
đến thủ tục tố tụng tại Tòa kinh tế khi giải quyết tranh chấp về thương mại.
Ngoài ra, có rất nhiều bài viết nêu và phân tích những vấn đề phát sinh
trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh như: Thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi
hành của Phan Chí Hiếu (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2005); Xác định
thẩm quyền giữa toà án và trọng tài trong quá trình thụ lí vụ án dân sự giải
quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại tại toà án và một số kiến nghị hoàn
thiện của tác giả Bùi Thành Trung (Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 12/2014); Xác định địa chỉ của người bị kiện khi tòa án thụ lý vụ án giải
quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại của tác giả Bùi Thành Trung (Tạp
chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 4/2015); Những vướng mắc
khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án của tác giả Vũ Gia
Trưởng (Tạp chí Luật sư Việt Nam. Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Số 3/2016.);
Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa
qua Sở giao dịch của tác giả Vũ Thị Lan Anh (Tạp chí Nghề Luật. Học viện Tư
5


pháp, Số 3/2016.); Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt
hại vào thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại
của tác giả Nguyễn Thị Hằng Nga (Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân
tối cao, Số 9/2006); Một số khó khăn khi áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại toà án của tác giả
Vũ Đức Hoàng (Tạp chí Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số 19/2010);
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại tại tòa án của tác giả Triệu Thị Huỳnh Hoa (Tạp chí Tòa án nhân
dân. Tòa án nhân dân tối cao, Số 19/2012);
Các nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh

chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án
Các đề xuất về giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại bằng tòa án thường có trong các luận án, luận văn nghiên cứu
về vấn đề giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án ở Việt
Nam. Có thể kể một số công trình tiêu biểu sau:
Luận án Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Kim Vinh; Luận án Thẩm quyền xét xử của
Toà án nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh thương mại theo pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Tiến; Luận văn Một số giải pháp
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân cấp huyện của tác giả Nguyễn Vũ Hoàng; Luận văn Thẩm quyền giải
quyết tranh chấp kinh doanh của Toà án theo BLTTDS - Những điểm mới và các
vấn đề đặt ra cho thực tiễn thi hành của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê; Luận
văn Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định của BLTTDS Những vướng mắc và giải pháp khắc phục của tác giả Cung Mỹ Anh; Luận văn
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại tòa án theo quy định của pháp luật hiện hành của tác giả Khuất
Thu Hương; Luận văn Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án
nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của tác giả
6


Phạm Thị Ban; Luận văn Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bằng trọng tài và toà án dưới góc độ so sánh của tác giả Cao Thị
Thanh Thuỷ.v.v…
Ngoài ra, có rất nhiều bài viết cũng có đề xuất kiến nghị giải pháp nâng
cáo hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án như: Một
số kiến nghị liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại theo điều 29 BLTTDS của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh (Tạp
chí Nghề Luật. Học viện Tư pháp, Số3/2010); Hoàn thiện các quy định về biện
pháp khẩn cấp tạm thời để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong giải quyết tranh

chấp kinh doanh thương mại tại tòa án của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy (Tạp
chí Kiểm sát Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 22/2014); Hoàn thiện quy định
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án của tác
giả Nguyễn Duy Phương (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Viện nghiên cứu lập
pháp, Số 1/2015); Chứng cứ điện tử trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại tòa án - Một số kiến nghị của tác giả Lê Văn Thiệp (Tạp chí
Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 5/2016);
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam, nhất là pháp luật tố tụng dân sự và các luật liên quan đến
hoạt động kinh doanh thương mại; về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại trong thời gian qua. Các công trình
nghiên cứu cũng đưa ra nhiều giải pháp có giá trị trong việc góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại. Đây là
những tri thức quan trọng mà luận văn có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu
của mình.
Tuy nhiên, hầu hết các công trình nêu trên đều nghiên cứu vấn đề giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi
bổ sung năm 2011), trong khi Bộ luật này hiện đã hết hiệu lực, được thay thế
bằng BLTTDS năm 2015. Đồng thời, vấn đề về giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại rất rộng, các công trình nghiên cứu trên chỉ giải quyết được
7


một số mặt chứ chưa đưa ra các giải pháp tổng thể để hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả của hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Hơn nữa nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang tiếp tục được đặt ra và có nhu
cầu giải quyết hoặc chưa được cập nhật trong pháp luật hiện hành. Đây là vấn đề
cấp thiết đặt ra trong tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ
thống pháp luật kinh tế nói riêng ở nước ta. Đặc biệt, hiện chưa có một công
trình nào nghiên cứu quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ

thực tiễn tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam, trên cơ sở nghiên cứu quá trình áp dụng các quy định của
pháp luật hiện hành trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của
tòa án, luận văn hướng đến mục đích kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận và pháp luật về tranh chấp kinh doanh
thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.
- Từ các vụ việc thực tế và số liệu thống kê giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, phân tích làm rõ quá trình
áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành trong việc giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại tại tòa án, phân tích làm rõ những bất cập, hạn chế,
khó khăn, vướng mắc trong quá trình tòa án áp dụng pháp luật để giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật
trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án.

8


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là những vấn đề lí luận và pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại cũng như quá trình giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu các

vụ án về tranh chấp kinh doanh thương mại được giải quyết theo quy định của
BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi bổ sung năm 2011), đối chiếu với những quy
định mới trong BLTTDS năm 2015, đặc biệt đi sâu nghiên cứu điển hình một số
vụ án về tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam
giai đoạn 2012-2016, từ đó khái quát các hạn chế, bất cập, khó khăn, vướng mắc
trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Nam để kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trong quá trình giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu trong đề tài bao
gồm các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên
cứu khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, hệ thống hóa pháp luật, suy luận logic, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu
bản án, quy nạp, diễn dịch.
Trong Chương 1, học viên chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp trên cơ sở các nội dung quy định của các văn bản pháp luật về giải
quyết tranh chấp thương mại tại tòa án. Đồng thời, học viên có sử dụng phương
pháp so sánh để nêu bật những điểm giống và khác nhau cũng như ưu điểm và

9


nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
là: hòa giải, thương lượng, trọng tài và tòa án.
Trong Chương 2, học viên chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, tổng
hợp số liệu về tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án

nhân dân tỉnh Hà Nam. Đồng thời, học viên cũng sử dụng phương pháp nghiên
cứu bản án và phân tích để tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc và hạn chế
trong thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án
tỉnh Hà Nam.
Trong Chương 3, phương pháp nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và suy
luận logic được học viên sử dụng nhiều để nêu bật những giải pháp hoàn thiện
pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật trong giải quyết loại tranh chấp này tại tòa án tỉnh Hà Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại tòa án;
Chương 2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án nhân dân tỉnh Hà Nam;
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án.

10


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1.1. Một số vấn đề lí luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1.1. Khái niệm
Tranh chấp là một khái niệm được hiểu khác nhau tùy vào cách tiếp cận
khác nhau. Trong đời sống hàng ngày tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn,
những bất đồng, những xung đột phát sinh giữa các bên liên quan đến quyền và
lợi ích của các bên trong một mối quan hệ về một vấn đề nhất định nào đó mà
các bên không thể giải quyết được.

Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học đã giải thích “tranh chấp” là:
“Giành nhau, một cách giằng co, cái không rõ thuộc về bên nào” rộng hơn là
“Đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi
giữa hai bên” [73, tr. 989]. Khái niệm này nhấn mạnh yếu tố bất đồng ý kiến
dẫn đến xung đột về quyền lợi của hai bên khi quyền và lợi ích này bị đụng
chạm đến.
Theo từ điển Black’s Law, tranh chấp là: “Một sự xung đột hay tranh cãi;
sự mâu thuẫn về quyền khiếu nại hoặc quyền lợi; một sự đòi hỏi quyền lợi, khiếu
nại hoặc yêu cầu đối với một bên mà trái với tuyên bố hoặc cáo buộc của bên
còn lại” [8]. Khái niệm này nhấn mạnh đến yếu tố mâu thuẫn về quyền lợi và sự
mâu thuẫn giữa yêu cầu của một bên với cáo buộc của bên kia.
Xét dưới góc độ kinh tế, tranh chấp là những mâu thuẫn, những xung đột
về lợi ích kinh tế mà các bên không thể dung hòa được.
Trong đời sống, tranh chấp có thể phát sinh ở mọi lĩnh vực từ chính trị,
tinh thần đến kinh tế, thương mại.
Tác giả Viên Thế Cương đưa ra định nghĩa “Tranh chấp kinh doanh được
hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các chủ thể kinh doanh với nhau
hoặc với các bên có liên quan khi họ tham gia quan hệ kinh doanh, phát sinh do
11


một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ pháp lý của mình”
[11; tr. 11].
Giáo trình Luật Thương mại, tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội cũng
đưa ra quan điểm về tranh chấp thương mại: “Tranh chấp thương mại là những
mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá
trình thực hiện các họat động thương mại” [60, tr. 432].
Theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014: “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị

trường nhằm mục đích sinh lợi” [42].
Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác” [39].
Như vậy, cả hai hoạt động kinh doanh và thương mại nêu trên có cùng nội
hàm là việc các chủ thể kinh doanh cùng hoạt động đầu tư, kinh doanh, cung
ứng các dịch vụ…nhằm mục đích sinh lợi, do đó hai hoạt động này đã được
BLTTDS năm 2004 gọi chung là hoạt động kinh doanh, thương mại và đưa vào
cùng một quy trình giải quyết khi có tranh chấp là hoàn toàn phù hợp.
Từ những phân tích trên, có thể thấy hiện nay, chưa có văn bản pháp lý
nào quy định cụ thể khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại. Khái niệm
tranh chấp kinh doanh thương mại mới chỉ được một số tác giả trên cơ sở tiếp
cận thông qua luật nội dung và luật tố tụng để đưa ra định nghĩa. Trong phạm vi
luận văn này, học viên sử dụng khái niệm: “Tranh chấp kinh doanh thương mại
là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể trong các
hoạt động kinh doanh thương mại”.
1.1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
Do tranh chấp kinh doanh thương mại là một tranh chấp pháp lý liên quan
tới hoạt động kinh doanh thương mại, do vậy nó có những đặc điểm cơ bản sau đây:
12


Thứ nhất, lĩnh vực phát sinh tranh chấp là lĩnh vực kinh doanh, thương
mại. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Các quan hệ thương mại có bản chất
là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi
ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm:
(i) Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí

gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá,
hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá,
hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu
và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai
thác;
(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
(iii) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty;
(vi)Tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, chủ thể tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu là các
thương nhân. Tuy nhiên trong một số trường hợp, các cá nhân, tổ chức không
phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại. Điều này
xuất phát từ đặc điểm của từng mối quan hệ kinh doanh, thương mại cụ thể. Có
mối quan hệ kinh doanh, thương mại phải được giao kết giữa các thương nhân
với nhau, tuy nhiên cũng có những mối quan hệ kinh doanh, thương mại có thể
được giao kết giữa thương nhân với các nhân, tổ chức không phải là thương
nhân. Khoản 3 Điều 29 BLTTDS có quy định về một loại tranh chấp không
diễn ra giữa các thương nhân với nhau. Đó là tranh chấp giữa các công ty và
thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến

13


việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là do các bên
trong tranh chấp tự định đoạt. Điều này thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp
có nhiều hơn một cách để giải quyết tranh chấp như: hòa giải, thương lượng,

trọng tài, tòa án. Việc chọn phương pháp giải quyết nào là quyền của các bên
nhưng vẫn trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của nhà nước.
Thứ tư, tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật
chất và có giá trị lớn. Các tranh chấp này đều chủ yếu tranh chấp về những lợi
ích vật chất có ảnh hưởng lớn và liên quan trực tiếp đến lợi ích khác của các bên.
1.1.2. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo nghĩa chung nhất có
thể hiểu là cách thức, phương pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại
trừ các tranh chấp phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể kinh doanh, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội [25, tr. 287].
Mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh thương mại vừa mang tính xung
đột vừa hợp tác. Khi xảy ra tranh chấp các bên luôn tìm cách nhanh chóng để
giải quyết các xung đột, mâu thuẫn này để sớm đưa hoạt động kinh doanh, sản
xuất của mình trở lại bình thường ổn định bởi các tranh chấp này không chỉ ảnh
hưởng đến bản thân các bên tranh chấp mà còn có thể ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của cả cộng đồng kinh doanh. Đây là phản ứng mang tính
chất dây truyền, do vậy nếu không được giải quyết một cách triệt để, nhanh
chóng, khoa học, đảm bảo quyền lợi của các bên thì sẽ tác động tiêu cực tới sự
phát triển kinh tế xã hội nói chung và bản thân các chủ thể trong quan hệ tranh
chấp kinh doanh thương mại nói riêng.
Do đó, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại đòi hỏi các bên
tranh chấp cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp phải tiến hành nhanh chóng,
14


kín đáo, không làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các bên
đồng thời phải luôn đảm bảo được sự hợp tác trong hoạt động kinh doanh
thương mại.

Vì tranh chấp kinh doanh thương mại là việc phát sinh các mâu thuẫn, bất
đồng từ hoạt động sản xuất, đầu tư hay cung ứng các dịch vụ v.v… (được gọi
chung là các hoạt động kinh doanh thương mại), là một trong các loại việc thuộc
lĩnh vực tư, do đó các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp kinh doanh ngay từ trước khi nó xảy ra (quyền định liệu trước) hoặc
sau khi tranh chấp xảy ra. Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của
các bên được thực hiện trên cơ sở sự nhanh chóng, ít tốn kém và phải đảm bảo
các quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, không cản trở các hoạt động kinh
doanh của chủ thể và không làm mất cơ hội kinh doanh của họ.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại chính là quá trình phân xử
để làm rõ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, buộc bên vi phạm nghĩa vụ
phải thực hiện trách nhiệm của mình đối với bên bị vi phạm. Việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại được tiến hành khi có ít nhất một bên cho
rằng mình có quyền lợi hợp pháp bị bên kia xâm phạm và có yêu cầu được giải
quyết. Các bên tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các
giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Kết quả là các quyền và
nghĩa vụ của các bên được xác định lại hoặc mâu thuẫn hay xung đột giữa các bên
được dung hòa thông qua các phán quyết của người đứng ra giải quyết tranh chấp.
Như vậy, có thể thể hiểu, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương
mại là cách thức hay các phương pháp hoạt động để điều chỉnh các bất đồng,
các xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh thương mại, bảo vệ trật
tự kỷ cương của xã hội.
Về đặc điểm, trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, các bên
có quyền lựa chọn phương thức, biện pháp giải quyết mà không bị pháp luật
15


cấm. Việc giải quyết tranh chấp giúp chấm dứt xung đột về lợi ích giữa các bên,

bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên; giải tỏa sự nặng nề về tâm
lý; có thể giúp khôi phục, duy trì và củng cố quan hệ hợp tác giữa các bên, giữ
gìn bí mật kinh doanh. Đồng thời, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữ các chủ thể trong kinh doanh, giữa các
công dân trước pháp luật, góp phần thiết lập sự cân bằng, giữ gìn trật tự kỷ
cương, pháp luật; là điều kiện để tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Ngoài ra, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại còn góp phần đánh
giá được hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn kinh doanh, chỉ ra được
những bất cập, tạo định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh
doanh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh tế phát triển.
1.1.2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
tòa án
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án là hình thức
giải quyết các tranh chấp thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh thương mại do cơ
quan tài phán của Nhà nước là tòa án tiến hành, mang ý chí quyền lực Nhà nước,
được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ. Các phán quyết của
tòa án mang tính cưỡng chế cao, được cơ quan Nhà nước bảo đảm thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Hiệu lực của bản án, quyết định có giá trị
pháp lý cao, buộc các bên phải thực hiện [61]. Vì vậy, việc đưa tranh chấp ra
giải quyết tại tòa án hiện có nhiều ưu điểm đồng thời cũng có những nhược điểm
nhất định.
* Ưu điểm
Thứ nhất là tính đảm bảo thi hành cao. Toà án là cơ quan nhân danh Nhà
nước để giải quyết tranh chấp, do đó, phán quyết của toà án được đảm bảo thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ
quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã
có hiệu lực pháp luật. Đặc điểm này được có thể coi là yếu tố hấp dẫn nhất khiến
các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án.
16



Thứ hai là tính khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Khi giải quyết
tranh chấp tại toà án, việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế, nguyên
tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công
bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
Thứ ba là tính bao quát, toàn diện. Thẩm quyền giải quyết của toà án
được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế. Chính vì thế, khi xảy ra tranh chấp,
người ta thường nghĩ đến toà án như là nơi bao quát giải quyết mọi vấn đề.
Thứ tư là tính hiệu quả về chi phí. Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện
nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều
so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.
* Hạn chế: Tuy toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp
các bên có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương thức giải
quyết tranh chấp này cũng bộc lộ nhiều hạn chế:
Một là tính cứng nhắc, khuôn mẫu. Khi lựa chọn phương thức giải quyết
tranh chấp bằng toà án, các bên phải nắm rõ bản chất, vì việc giải quyết tranh
chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của
pháp luật tố tụng, và đặc điểm này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh
chấp vì tính chất của hoạt động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải
rất linh hoạt và mềm dẻo [62].
Hai là tính ảnh hưởng đến uy tín trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Một điều bất lợi nữa của toà án, đó là nguyên tắc xét xử công khai. Điều này
xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý
đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công
khai của toà án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật Nhà nước hoặc bí mật
nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sự, toà án có thể xử kín nhưng
phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều
không muốn mang dấu đen phải ra toà để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên đây có thể coi là nhược điểm

17


×