Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT các TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG mại của tòa án NHÂN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
VŨ QUANG TUẤN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS.TS.

VŨ THỊ LAN ANH

Hà Nội – 2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được
công bố tỏ lòng cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn

Vũ Quang Tuấn


2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, học viên đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các tổ chức và các cá nhân
dưới đây:
- Học viên xin chân thành biết ơn Ban Giám hiệu nhà trường; Ban chủ nhiệm
khoa Sau đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Cô giáo Tiến sĩ Vũ Thị Lan Anh.
- Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Bộ, Cục Thống kê - Bộ Tư Pháp – Viện
khoa học xét xử Tòa án nhân dân Tối cao – Tòa án nhân dân Tối cao.
- Xin chân thành cảm ơn Văn phòng luật sư ATV - Đoàn Luật sư TP Hà Nội.
- Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc; Lãnh đạo phòng Phòng đào tạo Học
Viện Tư Pháp – Bộ Tư Pháp.
- Xin cảm ơn đến các thầy cô giáo, anh chị em đồng nghiệp và gia đình đã
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Học viên

VŨ QUANG TUẤN

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

-


Bộ luật dân sự

BLTTDS -

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

-

TANDTC
LTM

-

Tòa án nhân dân Tối Cao
Luật thương mại

LTHADS -

Luật thi hành án dân sự

THADS

-

Thi hành án dân sự


THA

-

Thi hành án

TANDTC -

Toà án nhân dân tối cao

VKSNDTC –

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế bao cấp sang
nền kinh tế thị trường với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế có chế độ
sở hữu khác nhau đã làm cho các quan hệ kinh tế ngày càng trở lên đa dạng
và phức tạp. Dưới tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, lợi nhuận
không những là động lực, là một trong những thước đo hiệu quả hoạt động
kinh doanh mà còn là mục đích, là phương tiện tồn tại của các chủ thể kinh
doanh. Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua
được diễn ra trong bối cảnh phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các
quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng
định nó là một bộ phận không thể thiếu của thị trường thế giới. Trong quá
trình tiến hành hoạt động kinh doanh, các bên tham gia (chủ yếu là các

thương nhân) khó tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa
vụ trong những quan hệ cụ thể. Tranh chấp trong kinh doanh là hệ quả khó
tránh khỏi của quá trình phát triển kinh tế, nó cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Khi có tranh chấp
xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của mình các bên đều muốn giải quyết tranh
chấp nhanh chóng, thuận lợi, có hiệu quả và không ảnh hưởng đến công việc
kinh doanh. Bởi vậy, yêu cầu phải áp dụng các hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, bảo đảm nguyên tắc
pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt
Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương
5


lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài, trong đó giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng tòa án là phương thức giải quyết có nhiều ưu việt. Tòa án là
phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến, nhất là tại những nước có
nền kinh tế thị trường đang phát triển như ở Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiệu quả thi hành pháp luật về giải
quyết tranh chấp tại tòa án chưa cao. Một trong những nguyên nhân là quy
định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
còn vướng mắc và việc thực thi pháp luật chưa thống nhất, dẫn đến tình trạng
nhiều vụ án bị kéo dài, bị hủy án, gây khó khăn và làm nảm lonhg các nhà
kinh doanh. Do vậy, để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
bằng con đường tòa án thực sự trở thành phương thức giải quyết hữu hiệu cho
các bên tranh chấp đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết
tranh chấp bằng tòa án nói chung và về thẩm quyền của tòa án nói riêng, đồng
thời nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.

Vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại của Tòa án” để làm luận văn Thạc sỹ luật học của
mình, với mong muốn sẽ làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án, qua đó
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng
Tòa án ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án
là vấn đề khá phức tạp và được nhiều nhà nghiên cứu, luật gia trong và ngoài
nước quan tâm, đặc biệt là các chuyên gia và những người làm công tác thực
tiễn. Trong nước thời gian qua, về mặt lý luận, trên diễn đàn các sách, báo
pháp lý, các tạp chí xuất hiện nhiều bài viết, bài nghiên cứu, trao đổi về hoạt
6


động của Tòa án. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình, sách, báo, bài viết đó
đều chủ yếu tập trung phân tích, làm rõ những quy định chung của Tòa án về
góc độ lý luận, thực trạng hoạt động của các Tòa án các cấp ở Việt Nam hay
những hạn chế, bất cập của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Có một
số công trình nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án như bài báo “Hoàn thiện quy định
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của tòa án” của
tác giả Nguyễn Duy Phương đăng tại Nghiên cứu lập pháp, số 1/2015; “Một
số

kiến

nghị


liên

quan

đến

quy

địnhvề thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo điều 29
Bộ luật tố tụng dân sự của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh đăng trên Tạp chí
Nghề Luật, số3/2010; Tiến sĩ Phan Chí Hiếu với bài “Thẩm quyền giải quyết
tranh chấp kinh doanh theo Bộ luật Tố tụng dân sự và các vấn đề đặt ra trong
thực tiễn thi hành” đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2005;
Thạc sĩ Trần Đình Khánh với bài “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại và lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004” đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 5/2005… Các công trình này chủ yếu nghiên cứu
những nội dung cụ thể trong khuôn khổ bài báo nghiên cứu. Ít có công trình
nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu về mọi vấn đề có liên quan đến thẩm
quyền của toà án trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ lý
luận đến thực tiễn; hoặc có nghiên cứu đã lạc hậu không còn phù hợp với tình
hình thực tế có nhiều thay đổi, nhất là trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 với một số điểm mới về thẩm quyền của
Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7


Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ một số vấn đề
lý luậnvề thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa

án, phân tích thực trạng quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại của Tòa án và thực tiễn áp dụng pháp luật ở
nước ta hiện nay, đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại của Tòa án.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án như khái niệm và các đặc điểm của
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại của Tòa án và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực thi pháp
luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp luật thực định và thực
tiễn thi hành pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại của Tòa án, bao gồm các vấn đề về thẩm quyền theo loại việc,
thẩm quyền theo sự lựa chọn của đương sự, thẩm quyền theo cấp xét xử và
thẩm quyền theo lãnh thổ.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Các quan điểm và đường lối của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nền tảng cơ
sở để thực hiện luận văn. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, điều tra, phương pháp
8


phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu... làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề
pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng

Tòa án.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Luận văn có nội dung được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại củaTòa án
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại củaTòa án hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại củaToàn án hiện nay.

9


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
CÁCTRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN
1.1.Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh doanh ngày càng trở nên
đa dạng và phức tạp, do vậy các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh
ngày càng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính
chất và quy mô. Tranh chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh) là thuật
ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam,
loại tranh chấp này tồn tại dưới nhiều tên gọi khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử
khác nhau với nội hàm không hoàn toàn thống nhất như tranh chấp kinh tế,
tranh chấp thương mại, tranh chấp phát sịnh từ hoạt động thương mại…
Để làm rõ khái niệm “tranh chấp kinh doanh, thương mại, trước hết cần
hiểu khái niệm “tranh chấp”. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “tranh chấp” được
hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các

bên liên quan1. Mặc dù từ điển đã nêu không có thuật ngữ “tranh chấp kinh
doanh, thương mại” nhưng có thể hiểu đây là những bất đồng, mâu thuẫn này
phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
Dưới góc độ pháp lý, tranh chấp kinh doanh, thương mại là một thuật
ngữ pháp lý lần đầu tiên được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2004. Trong khi đó, các văn bản pháp luật khác không sử
dụng thuật ngữ này. Luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm tranh
chấp thương mại mà chỉ có khái niệm hoạt động thương mại, theo đó hoạt
động thương mại là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
1

Viện ngôn ngữ học. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà
Nội – Đà nẵng, 1997, tr. 989.

10


hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại). Thuật ngữ
được Luật Thương mại sử dụng là “tranh chấp trong thương mại” chỉ xuất
hiện trong tên Chương VII chứ không được giải nghĩa.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 sử dụng thuật ngữ “tranh chấp
phát sịnh từ hoạt động thương mại” (Khoản 1 Điều 2) nhưng cũng không có
giải nghĩa.
Theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 thì tranh
chấp kinh doanh thương mại được hiểu là tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao

dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với
người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức
tổ chức của công ty. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là tranh chấp kinh doanh,
thương mại do BLTTDS quy định thực ra chính là các loại tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Khác với khái niệm tranh chấp kinh tế ra đời trong thời kỳ kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, tranh chấp kinh doanh, thương mại hoàn toàn phù hợp
với nội dung và bản chất của các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh,
thương mại trên thị trường hiện nay, phù hợp với pháp luật quốc tế. Có thể
đưa ra khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại như sau: “tranh chấp
11


kinh doanh, thương mại là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột lợi ích về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với người có
liên quantrong hoạt động thương mại”.
Như vậy, khi luận văn sử dụng thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh,
thương mại” tức là sử dụng theo cách gọi của BLTTDS. Điều này phù hợp để
triển khai đề tài của luận văn.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Có thể khái quát những đặc điểm tranh chấp trong kinh doanh thương
mại như sau:
Thứ nhất, các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh, thương mại chủ yếu
là chủ thể kinh doanh, các thương nhân. Trong một số trường hợp, một bên
tranh chấp không phải là chủ thể kinh doanh như tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ với một bên là cá nhân không có đăng ký kinh

doanh hay tranh chấp giữa các thành viên công ty là cá nhân với nhau khi bản
thân họ chỉ góp vốn vào công ty mà không phải là người có đăng ký kinh
doanh. Tuy nhiên, những tranh chấp này vẫn được Tòa án coi là tranh chấp
kinh doanh, thương mại theo BLTTDS.
Thứ hai, nguồn gốc phát sinh tranh chấp kinh doanh, thương mại gắn
liền với các hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh vốn rất đa
dạng,chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật và yếu tố của thị trường,
chẳng hạn như quy luật cung cầu, sự biến đổi của quy luật giá cả… Vì thế,
tranh chấp có thể phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng, hay góp vốn vào công
ty hay chuyển giao công nghệ...
Thứ ba, nội dung các tranh chấp rất phong phú, đa dạng phù hợp với
sự đa dạng của các quan hệ kinh doanh, thương mại. Trong cơ chế kinh tế thị
trường hiện nay, các tranh chấp trong kinh doanh tồn tại dưới nhiều hình thức,
ví dụ như: tranh chấp giữa các thành viên công ty với công ty, giữa các thành
12


viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty,
tranh chấp trong việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, tranh chấp về liên
doanh, liên kết kinh tế…
Chính sự thay đổi về nội dung và hình thức tranh chấp trong kinh doanh
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với các yêu cầu của cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mạicủaTòa
án
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là cách thức, phương pháp
cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp phát sinh,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tranh chấp. Có thể

chia thành bốn phương thức giải quyết tranh chấp là thương lượng, hòa giải,
trọng tài và Tòa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng Tòa án là hình thức
giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước,
nhân danh quyền lực của nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có
nghĩa vụ thi hành, kể cả sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình giải quyết các
tranh chấp, Tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật
đã quy định, cụ thể đó là những nguyên tắc cơ bản, trình tự, thủ tục nhất định
mà pháp luật đã quy định trong việc khởi kiện; trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án, thi hành bản án, quyết định của Tòa án; quyền và nghĩa vụ của
những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan... Trình tự, thủ tục này được quy định
tại pháp luật tố tụng, được áp dụng để giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án.
13


Ở hầu hết các quốc gia, cùng với việc ban hành những đạo luật về nội
dung, Nhà nước cũng ban hành những quy định về thủ tục tố tụng để Tòa án
giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh thương mại. Thủ tục tố tụng Tòa
án áp dụng cho các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại được dựa trên
nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy định đặc thù cho phù hợp
với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như về hội đồng xét xử, về thời gian của
các trình tự tố tụng. Do vậy, ở các quốc gia này người ta không hình thành
pháp luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong kinh doanh thương mại mà
thường chỉ có pháp luật về tố tụng dân sự. Ví dụ: Ở Cộng hòa Liên bang Đức
Luật tố tụng đối với các vụ án dân sự và thương mại được quy định thống
nhất trong Bộ luật Tố tụng dân sự; ở Pháp, Anh và Mỹ các tranh chấp trong
lĩnh vực kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều
được áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự.

Từ phân tích trên, có thể định nghĩa: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật
định và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp có thể được nhà
nướccưỡng chế thi hành nếu có yêu cầu.”
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh thương mại, khi xảy
ra tranh chấp, các bên luôn muốn giải quyết các tranh chấp một cách nhanh
chóng, hiệu quả nhất. Vì thế, việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại cần đáp ứng yêu cầu:
- Nhanh chóng, thuận lợi, dứt điểm, không làm cản trở hoạt động kinh
doanh;
- Duy trì các quan hệ hợp tác, sự tín nhiệm giữa các bên trong kinh
doanh;
14


- Giữ bí mật kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến uy tín của các bên
trên thương trường;
- Giải quyết tranh chấp ít tốn kém về thời gian, tiền bạc và công sức.
1.3. Khái quát về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại của Tòa án
1.3.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại của Tòa án
Thuật ngữ “Thẩm quyền”có nguồn gốc từ tiếng Latinh là
“compotenia”, gồm có hai nghĩa là phạm vi, quyền hạn của các cơ quan,
người có chức vụ nào đó, hoặc phạm vi của những kiến thức, kinh nghiệm mà
ai đó có.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận
và định đoạt một vấn đề pháp luật2. Theo đó, thẩm quyền được hiểu là việc
một cơ quan Nhà nước được phép tự mình nhìn nhận sự việc và đưa ra ý kiến

riêng để giải quyết vấn đề một cách phù hợp theo quy định pháp luật.Nói cách
khác, thẩm quyền là quyền của một chủ thể nhất định, đó là khả năng mà pháp
luật cho phép thực hiện một công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất
định.
Theo Từ điển luật học, thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà
nước quy định. Cách định nghĩa này cho thấy thẩm quyền được hiểu là phạm
vi mà Nhà nước trao quyền cho một cơ quan, tổ chức của Nhà nước và phạm
vi đó phải được pháp luật xác định một cách rõ ràng.
Trong khoa học pháp lý, một số tác giả cho rằng, khái niệm thẩm quyền
là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho một số
2

Viện ngôn ngữ học. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên). NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điẻn học, Hà
Nội – Đà nẵng, 1997, tr. 890.

15


tổ chức hoặc nhân viên Nhà nước. Thẩm quyền là một quyền năng thi hành
trao cho một cơ quan được thiết lập chính thức bởi pháp luật để giải quyết và
đưa ra những tuyên bố về vấn đề pháp lý và để đảm bảo công lý trong phạm
vi lãnh thổ cụ thể.
Như vậy, khái niệm thẩm quyền cũng có sự phân biệt nhất định nhưng
nhìn chung các khái niệm đều tập trung vào phạm vi, giới hạn, chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của cá nhân hoặc cơ quan Nhà nước trong việc thực thi
quyền lực Nhà nước được pháp luật quy định.
Thẩm quyền của Tòa án nói chung được ghi nhận trong Hiến pháp và
các văn bản pháp luật của Nhà nước. Theo đó, Tòa án với chức năng là cơ
quan xét xử có trách nhiệm giải quyết các xung đột trong đời sống xã hội xâm

phạm đến lợi ích trách nhiệm, công dân được quy định trong pháp luật. Là cơ
quan xét xử, chức năng xét xử của Tòa án là bao trùm và xuyên suốt quá trình
hoạt động của Tòa án. Tòa án có thẩm quyền xét xử và nhân danh Nhà nước
để ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thẩm quyền của Tòa án là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc xét xử
các loại vụ án theo quy định pháp luật. Theo Khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2004, Tòa án xét xử những vụ án dân sự, hình sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác
theo quy định pháp luật. Tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, Tòa án các
cấp, các Tòa án khác nhau trong hệ thống Tòa án, có phạm vi quyền hạn khác
nhau trong xét xử các loại vụ án.
Từ các khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án như sau:Thẩm quyền
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án là phạm vi, quyền
hạn của một Tòa án hoặc các Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân dân được
16


tiến hành những thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
theo quy định của pháp luật tố tụng.
Trên thực tế, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại là việc xác định những tranh chấp nào thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án, tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan khác. Một tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án nào thì tranh chấp sẽ
do Tòa án đó giải quyết. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại trước hết được xác định dựa trên quy định
của pháp luật. Pháp luật quy định những tranh chấp kinh doanh thương mại
thuộc thẩm quyền của Tòa án nào để làm căn cứ Tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
1.3.2. Đặc điểm của thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh

thương mại của Tòa án
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án
có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của
Tòa án do pháp luật quy định. Tòa án chỉ được quyền thực hiện chức năng xét
xử đối với những tranh chấp đã được quy định tại Điều 30 BLTTDS hiện
hành.
Thứ hai, thẩm quyềngiải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
củatòa án được phân chia thành các loại khác nhau như thẩm quyền theo vụ
việc, thẩm quyền theo cấp xét xử, thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền
theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Thứ ba, thẩm quyềngiải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của
tòa án có sự linh hoạt phù hợp với quyền tự do định đoạt của các chủ thể kinh
doanh. Mặc dù pháp luật quy định 4 loại thẩm quyền riêng biệt nhưng trong
một vụ tranh chấp, bên khởi kiện có quyền nhất định trong việc lựa chọn tòa
17


án. Ví dụ, nguyên đơn có quyền lựa chọn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nơi bị
đơn có trụ sở hoặc nơi bị đơn có chi nhánh.
1.4. Kinh nghiệm các nước về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án hiện nay
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng cơ chế Tòa án để giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Mặc dù có những khác biệt nhất
định giữa các quốc gia nhưng tựu trung lại có hai mô hình tổ chức hệ thống
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại là thành lập
Tòa án chuyên trách (Tòa thương mại. Tòa kinh tế) hoặc không thành lập Tòa
chuyên trách nhưng giao nhiệm vụ này cho Tòa án thường (Tòa án thẩm
quyền chung, Tòa dân sự...). Tòa án chuyên trách được thành lập và hoạt
động độc lập với Tòa án thường để giải quyết các tranh chấp kinh doanh

thương mại là mô hình ở nột số nước theo truyền thống luật dân sự (civilaw)
như Pháp, Liên Bang Nga với quan niệm cho rằng tranh chấp kinh doanh
thương mại có đặc điểm riêng cần có một Tòa án riêng để giải quyết các tranh
chấp đó. Ở Đức Tòa án thương mại được thành lập nhằm xét xử sơ thẩm đối
với các tranh chấp liên quan đến một hành vi thương mại theo quy định của
Bộ luật thương mại Đức. Thành phần xét xử của Tòa án bao gồm 1 thẩm phán
và hai hội thẩm. Thẩm phán là thẩm phán chuyên nghiệp làm chủ tọa, hội
thẩm từ 30 tuổi trở lên, là thương gia hoặc thành viên của công ty trách nhiệm
hữu hạn được đăng ký trong bản danh sách thương mại. Các hội thẩm Tòa án
thương mại ngang quyền với thẩm phán chuyên nghiệp trong hoạt động xét
xử và được hưởng chi phí ăn ở đi lại, thù lao trong thời gian xét xử. Ở Pháp
Tòa án thương mại là toà án độc lập ở cấp tỉnh. Các tỉnh có ít nhu cầu thì
không có Tòa án thương mại mà được gộp vào Tòa án dân sự để xét xử. Thẩm
phán của Tòa án thương mại được lựa chọn trong giới kinh doanh có kiến
thức và uy tín trong lĩnh vực này. Nhìn chung, thủ tục tố tụng của Tòa án
18


thương mại các nước này cũng linh hoạt mềm dẻo để đáp ứng nhu cầu kinh
doanh.
Các quốc gia theo truyền thống án lệ (Common law) thường không
thành lập Tòa thương mại mà giao nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại cho Tòa án thường với quan niệm là về bản chất tranh chấp
kinh tế cũng là một dạng tranh chấp dân sự. Nhiều quốc gia thuộc hệ thống
civil law cũng không tách biệt các tranh chấp kinh doanh thương mại với
tranh chấp dân sự. Tòa án dân sự đều có chức năng giải quyết tranh chấp về
dân sự và kinh doanh thương mại.
Việc tổ chức hệ thống Tòa án để giải quyết các tranh chấp kinh doanh
thương mại không theo địa giới hành chính mà thường được xác định theo
nhu cầu của hoạt động xét xử (số lượng các vụ tranh chấp trong năm). Chính

vì vậy, số lượng các Tòa án ở thủ đô hoặc các trung tâm thương mại bao giờ
cũng nhiều hơn các khu vực khác, nơi mà các hoạt động sản xuất kinh doanh
thương mại kém phát triển hơn.

19


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TOÀ ÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh
doanh thương mại của Tòa án ở Việt Nam
2.1.1. Hệ thống các quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại của Tòa án
Bên cạnh Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại của Tòa án còn được quy định rải rác ở các văn bản
pháp luật như Hiến pháp năm 2013; Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014
và các văn bản pháp luật khác.
- Quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại của Tòa án trong Hiến pháp năm 2013
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp
tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, mục đích thực hiện quyền tư
pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt từ các quan hệ
xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt
chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp
luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm,
góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm minh. Tại
khoản 3 Điều 2 và khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền

lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”;
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
20


- Quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng Tòa án trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
Ngày 24/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 (Quốc hội khóa XIII). Quốc hội đã
thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Luật sẽ chính thức có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/6/2015 và thay thế cho Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2002. Với 11 chương, 98 điều, Luật cơ bản thay đổi một số nội dung như quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của TAND; về
Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong TAND; về bảo đảm hoạt
động của TAND.
Về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, Điều 2 của Luật quy
định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy
tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác.
Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật;
xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập
trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định

việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện
pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.

21


Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Với những quy định mới về chức năng nhiệm vụ của Toà án, Luật tổ
chức TAND năm 2014 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013,
bảo đảm Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, quyền con người, quyền công dân...; bảo đảm nguyên tắc quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;
thể chế hóa những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp.
Về tổ chức bộ máy TAND gồm 4 cấp theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Theo đó, tổ chức Tòa án nhân dân gồm:
Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân cấp cao; các Tòa án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Toà án quân sự (Điều 3).
Về thẩm quyền của các Toà án Luật quy định:
- Đối với Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các
bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc
thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3
Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao.
- Về Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo quy

định của Luật, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử
phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm
22


quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; không
thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Về Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương, theo quy định của Luật, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm
hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án và giải quyết các loại việc
khác theo quy định của pháp luật.
- Về Toà án quân sự, theo quy định tại Điều 49 của Luật, các Toà án
quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ
án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của
luật.
Với quy định trên của Luật Tổ chức toà án nhân dân năm 2014 thì tổ
chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn hoá
nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí, bảo đảm phù hợp
với các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, đó là tổ chức theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm độc lập xét xử..., góp
phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án
hiện nay. Đây cũng là phương thức để nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án trong
Nhà nước pháp quyền XHCN.
- Quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại của Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTDS năm 2015 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quy định về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án. Cụ thể
Bộ luật tố tụng dân sự đã hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền theo loại việc,

thẩm quyền theo các cấp, thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa
chọn của nguyên đơn. BLDS năm 2015 đã có những hướng dẫn cụ thể về
thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
23


2.1.2. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án
2.1.2.1.Thẩm quyền theo loại việc của Tòa án
Theo quy định của Điều 30 BLTTDS năm 2015 thì những tranh chấp
về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bao gồm:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa
cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có
giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp
giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành
viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển
đổi hình thức tổ chức của công ty.
5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật.”
Với quy định này, BLTTDS 2015 đã có điểm mới tiến bộ so với
BLTTDS 2004 trước đây. Khoản 1 Điều 30 chỉ quy định thẩm quyền của Tòa
án đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa

cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận, chứ không còn liệt kê các lĩnh vực tranh chấp cụ thể như Điều 29
BLTTDS 2004 nữa. Quy định mới này loại trừ được những bất cập phát sinh
24


trong quá trình áp dụng BLTTDS 2004 khi bằng cách liệt kê đã không thể bao
quát hết mọi lĩnh vực có thể phát sinh tranh chấp trong quá trình hoạt động
kinh doanh của các chủ thể.
Về mục đích lợi nhuận, tại mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP quy định: "hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một
hoặc nhiều hành vi thương mại. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ
là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm
cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động, kinh
doanh thương mại”. Đối với mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong
hoạt động kinh doanh, thương mại được hướng dẫn "là mong muốn của cá
nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà không phân biệt có thu được hay
không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, thương mại đó”. Đối với
việc chủ thể có đăng ký kinh doanh hay không dựa vào quy định của Luật
Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên
cạnh đó, mục 3 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP còn hướng dẫn
bằng hình thức liệt kê các tranh chấp được xác định là tranh chấp giữa công ty
với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau cũng như quy
định điểm mở là các tranh chấp khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
chấm dứt hoạt động của công ty được quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS.
Đối với quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS, mục 3 Phần I Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn rõ là chỉ cần 02 bên có mục đích lợi nhuận mà
không cần phải có đăng ký kinh doanh. Nếu chỉ một bên có mục đích lợi
nhuận thì đó là tranh chấp dân sự.
Căn cứ vào quy định của Luật Doanh nghiệp thì tranh chấp trong hoạt
động kinh doanh thương mại trong trường hợp này vẫn phải bảo đảm đầy đủ

ba điều kiện về chủ thể, bản chất tranh chấp và về mục đích lợi nhuận. Trong
đó: Chủ thể của quan hệ tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh theo quy định
25


×