Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

TÀI LIỆUBỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN - NỘI DUNG II: SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VÀ TỔ CHỨC CÁCHOẠT ĐỘNG GIÁO DỤCỞ TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.8 KB, 97 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHÚ THỌ

TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN - NỘI DUNG II:
SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VÀ TỔ CHỨC CÁC
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
Ở TRƯỜNG THCS

Phú Thọ, tháng 8 năm 2013


TÀI LIỆU
SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VÀ TỔ CHỨC
CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THCS
(NỘI DUNG II)
Căn cứ Công văn số 8576/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 13 tháng 12 năm
2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc “Hướng dẫn triển khai thực hiện công
tác bồi dưỡng thường xuyên GV mầm non, phổ thông và giáo dục thường
xuyên”;
Căn cứ Văn bản số 5977/BGDĐT-GDTrH ngày 07 tháng 7 năm 2008 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục địa
phương ở cấp THCS và cấp THPT;
Căn cứ Công văn 276/BGD&ĐT-GDTrH ngày 11 tháng 01 năm 2013 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc triệu tập lớp tập huấn dạy học di sản giáo dục
phổ thông, giáo dục thường xuyên của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
Căn cứ Công văn liên ngành số 73/HD - BGD&ĐT-BVHTTDL ngày 16
tháng 01 năm 2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch về “Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm
GDTX”;
Căn cứ Kế hoạch số 401/KH-SGDĐT ngày 27 tháng 3 năm 2013 về việc
bồi dưỡng thường xuyên GV mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên;


Dựa trên điều kiện thực tiễn và những yêu cầu của việc sử dụng di sản văn
hóa trong dạy học và các hoạt động giáo dục ở trường THCS hiện nay, phòng
giáo dục Trung học xây dựng đề cương bồi dưỡng thường xuyên GV THCS như
sau:
I. Mục đích, yêu cầu
Giúp GV THCS học tập, bồi dưỡng thường xuyên, cập nhận kiến thức, cách
tiếp cận và sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và các hoạt động giáo dục ở
nhà trường, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, phát triển chuyên môn nghiệp
vụ đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
trong nhà trường.
GV được bồi dưỡng thực hiện nghiêm túc nội dung hướng dẫn của tài liệu,
tích cực trao đổi, đàm thoại để thống nhất các giải pháp thực hiện hiệu quả, phù
hợp với đối tượng học sinh và điều kiện thực tế ở từng địa phương.
II. Đối tượng: Giáo viên THCS


III. Hình thức và phương pháp bồi dưỡng:
1. Hình thức: Bồi dưỡng tập trung một đợt (Trong hè hoặc đầu năm học
2013-2014);
2. Phương pháp: Thuyết trình, thảo luận nhóm và thực hành tại lớp tập
huấn, trải nghiệm di sản.
IV. Thời lượng: 30 tiết.
Tên và nội dung Môđun
Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA (05
tiết)
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại di sản văn hóa
2. Ý nghĩa của di sản văn hóa đối với dạy học và các hoạt động giáo dục
trong nhà trường
3. Những di sản văn hóa thường được sử dụng trong dạy học và các hoạt
động giáo dục

4. Trách nhiệm của nhà trường đối với di sản văn hóa của địa phương, dân tộc và
nhân loại.
Phần II. SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VÀ TỔ
CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THCS (15 tiết)
1. Những yêu cầu về sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và các hoạt động
giáo dục trong nhà trường
2. Các hình thức tổ chức dạy học, tổ chức các hoạt động giáo dục với di sản
văn hóa trong nhà trường
3. Một số phương pháp dạy học, đánh giá kết quả dạy học, giáo dục có sử dụng di
sản văn hóa
Phần III. THỰC HÀNH XÂY DỰNG KẾ HOẠCH VÀ THIẾT
KẾ GIÁO ÁN DẠY HỌC VÀ TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC CÓ SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA (10 tiết)
1. Xây dựng kế hoạch dạy học và các hoạt động giáo dục có sử dụng di sản ở
trường phổ thông
2. Thiết kế giáo án và các hoạt động giáo dục có sử dụng di sản
3. Một số ví dụ minh hoạ
Tổng


V. Nội dung
Thực hiện nội dung bồi dưỡng 2 về sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và
các hoạt động giáo dục ở trường THCS:
- Phần I: Những vấn đề chung về di sản văn hóa;
- Phần II: Sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và các hoạt động giáo dục
ở trường THCS;
- Phần III: Thực hành thiết kế giáo án dạy học và tổ chức các hoạt động
giáo dục có sử dụng di sản văn hóa.



Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA
1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại di sản văn hóa
a. Khái niệm về di sản văn hóa:
Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
hóa vật thể (bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần,
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác.
b. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam:
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của
cộng đồng 54 dân tộc, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế
thừa và tái sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt Nam là
bức tranh đa dạng văn hóa, là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hóa Việt Nam
có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu
và kế thừa từ các nền văn hóa và văn minh của nhân loại. Những giá trị đó là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa và văn minh của nhân loại với nền văn hóa
bản địa lâu đời của các dân tộc Việt Nam.
Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống
mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa thông qua Luật di sản văn hóa năm 2001 (có hiệu lực
từ 01/01/2002), được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
c. Phân loại di sản:
Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật
và bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm:

- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.


- Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên
nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình
kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý
hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn
và các hình thức khác.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;
Ngữ văn dân gian, bao gồm: Sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt
khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết;
Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm: Âm nhạc, múa, hát, sân khấu và
các hình thức trình diễn dân gian khác;
Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ
và các phong tục khác;
Lễ hội truyền thống;
Nghề thủ công truyền thống;
Tri thức dân gian.

2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông
Di sản văn hóa, dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể đều có thể sử dụng trong
quá trình giáo dục, dạy học dưới hình thức tạo môi trường; tạo công cụ hoặc là nguồn
cung cấp chất liệu để xây dựng nội dung dạy học, giáo dục.
Bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài liệu về lý luận
dạy học, giáo dục chung, đại cương và tài liệu về lý luận dạy học bộ môn hầu
như chưa đề cập đến điều kiện, phương tiện dạy học là các di sản văn hóa. Gần
đây trong phong trào thi đua xây dựng nhà trường thân thiện, học sinh tích cực,
một trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho HS tham gia chăm sóc các


di sản, chủ yếu là các di tích mang tính lịch sử của địa phương. Việc khai thác
các di sản văn hóa ở địa bàn nhà trường đóng như là nguồn tri thức, là phương
tiện dạy học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có thường mang tính tự
phát. Vì vậy, vai trò và thế mạnh của những di sản văn hóa phong phú, ở địa
phương chưa được khai thác đúng mức để sử dụng trọng dạy học và các hoạt
động giáo dục của nhà trường.
Dưới dạng công cụ, thiết bị dạy học, di sản văn hóa giúp cho quá trình học tập
của HS trở nên hấp dẫn hơn, HS hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc hơn, phát triển
tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo đức cho HS. Ý nghĩa, vai trò của các
di sản văn hóa có thể được phân tích dưới các góc độ sau:
- Về vai trò: Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan
quý giá trong dạy học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong
dạy học ở trường phổ thông có ý nghĩa toàn diện:
+ Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho HS:
Các di sản văn hóa sử dụng trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao
tính trực quan giúp người học mở rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện
tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản. Tiếp cận với di sản, HS sử dụng
hệ thống tín hiệu thứ nhất (sử dụng các giác quan như mắt - nhìn, tai nghe, mũi –
ngửi, tay - sờ,…) để nghe được, thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu

được những kiến thức cần thiết từ di sản. Những hình ảnh, vật dụng trong bảo
tàng sẽ không chỉ giúp các em có thêm hiểu biết mà còn tác động sâu sắc đến
tình cảm của các em. Ngoài ra, các giá trị có trong di sản còn được GV khai thác
bằng cách đặt các câu hỏi mang tính định hướng hoặc gợi ý cho HS tìm hiểu
chúng qua đó di sản được sử dụng như là phương tiện điều khiển quá trình nhận
thức của HS. Những gợi ý đó giúp cho hoạt động tham quan trở nên có ý nghĩa
hơn và làm cho bài học trở nên sống động hơn.
+ Giúp HS phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức:
Di sản văn hóa là phương tiện quan trọng giúp HS rèn một số kỹ năng học
tập như kỹ năng quan sát, thu thập, xử lý thông tin qua đó tự chiếm lĩnh kiến
thức cần thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản; kỹ năng vận dụng
kiến thức đã học để giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn
hóa, của khu bảo tồn. HS có thể thu thập các mẫu vật như các loại lá cây, sâu,
bướm; chụp ảnh các loại cây con trong khu bảo tồn (có thể từ ảnh trong phòng
giới thiệu khu vực bảo tồn),… thông tin từ những nhân viên chăm sóc khu bảo
tồn hoặc từ các nguồn khác nhau để nhận biết hiện trạng, nguyên nhân và liên hệ
với kiến thức đã học để giải thích sự xuất hiện và tồn tại của khu bảo tồn thiên
nhiên, liên hệ với thực tiễn khai thác rừng ở nước ta để tìm hiểu vai trò của khu


bảo tồn với công tác bảo vệ đa dạng sinh học. GV nên yêu cầu HS suy nghĩ về
nhiệm vụ của mình đối với việc bảo vệ các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc cảnh
quan thiên nhiên ở địa phương mình.
+ Kích thích hứng thú nhận thức của HS:
Hứng thú nhận thức là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ
và hiệu quả của quá trình học tập. Trong giai đoạn nhận thức cảm tính, sự tri giác
các đối tượng, hiện tượng là điều kiện để phát sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng
về chúng và sau đó, nhờ nhận thức lí tính hình thành nên khái niệm hoàn chỉnh
về đối tượng, hiện tượng nghiên cứu. Trong quá trình tiếp cận với di sản văn hóa
theo sự hướng dẫn của GV, các hiện tượng sự vật, các giá trị ẩn chứa trong di sản

sẽ được các em tìm hiểu. Những điều tưởng như quen thuộc sẽ trở nên hấp dẫn
hơn, sống động hơn và HS sẽ có hứng thú với chúng, từ đó các em có được động
cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng
như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản văn hóa tốt hơn.
+ Phát triển trí tuệ của HS:
Trong quá trình học tập, trí tuệ của HS được phát triển nhờ sự tích cực hóa
các mặt khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ việc tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển khác nhau của hoạt động tâm lí: tri giác, biểu tượng, trí nhớ,
….cho HS tiếp cận di sản đúng mục đích, đúng lúc với những phương pháp dạy
học phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính định hướng, kích thích tư duy,
GV sẽ giúp HS phát triển khả năng quan sát, khả năng xử lý thông tin, khả năng
phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó phát triển trí tuệ của các em.
+ Giáo dục nhân cách HS:
Di sản văn hóa là một trong những phương tiện dạy học đa dạng sống động
nhất. Ẩn chứa trong di sản là những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác động mạnh tới tình
cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân cách của HS. Khai thác được những giá
trị ẩn chứa trong các di sản, chuyển giao cho HS để các em cũng nhận thức được
những giá trí đó, GV giúp hình thành ở HS một hệ thống các quan điểm, các khái
niệm về nhận thức thế giới xung quanh, giúp các em nhận thức được bản chất và
có cơ sở giải thích một cách khoa học các sự vật, hiện tượng liên quan đến di
sản. Tiến hành nghiên cứu di sản một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng cũng chính là
rèn cho các em tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học.
- Góp phần phát triển một số kỹ năng sống ở HS:
Để tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả, HS rất cần kỹ
năng sống. Kỹ năng sống được hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗi
người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng


ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Dạy học với di sản văn hóa

tạo điều kiện phát triển một số kỹ năng sống như:
+ Kỹ năng giao tiếp:
Trong quá trình học tập, tiếp cận với di sản văn hóa, HS được rèn luyện
cách trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc
của bản thân dưới hình thức nói, viết một cách phù hợp với đối tượng, hoàn
cảnh và văn hóa giao tiếp; đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người
khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Kỹ năng này giúp HS có mối quan hệ
tích cực với nguời khác, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn
bè mới. Làm việc với di sản, HS có được môi trường giao tiếp cởi mở với
bạn bè không chỉ trong phạm vi lớp học, đôi khi với nhiều đối tượng khác
(cả người nước ngoài). GV lưu ý cách thức giao tiếp phù hợp cũng chính là
góp phần phát triển ở các em một loại kỹ năng sống cần thiết.
+ Kỹ năng lắng nghe tích cực:
Người có kỹ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể
hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác (bằng các
cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà không
vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp. GV lưu ý HS
chú ý lắng nghe người giới thiệu về di sản, đưa ra những câu hỏi tìm hiểu sâu về
di sản cũng chính là hướng dẫn các em thực hành kỹ năng lắng nghe tích cực.
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng:
Kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng là khả năng có thể diễn đạt ý kiến,
quan điểm, suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân, thông qua các hình thức
nói, viết và cả ngôn ngữ cơ thể (cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười,...)
một cách phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh, văn hóa giao tiếp và trình
bày đúng với nội dung chủ đề đang được quan tâm; thông tin đưa ra đầy đủ,
chính xác, được sắp xếp một cách hợp lí, logic và phù hợp với nhu cầu, trình độ
của đối tượng giao tiếp; cách trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và hấp dẫn đối
tượng giao tiếp. Cho HS tiếp cận với di sản, GV cần lưu ý yêu cầu HS tìm hiểu
sự vật hiện tượng liên quan đến di sản một cách chi tiết, cụ thể và tạo điều kiện
để HS trình bày lại được những thông tin thu thập được đồng thời bộc lộ cả suy

nghĩ của cá nhân HS về những gì các em trình bày.
+ Kỹ năng hợp tác:
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một
công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Học tập với di sản, đòi hỏi sự
hợp tác chặt chẽ của nhóm HS. Trong quá trình làm việc, HS biết chia sẻ trách


nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác
trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ GV giao; biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét
các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm; đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ
các thành viên khác trong quá trình hoạt động; tôn trọng những quyết định
chung, những điều đã cam kết.
+ Kỹ năng tư duy phê phán:
Kỹ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và
toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng,... xảy ra. Khi làm việc với di sản, HS
không chỉ thu thập thông tin rồi mô tả các hiện tượng sự vật được các em tìm
hiểu mà còn cần phải biết phân tích chúng một cách có phê phán. Khi sắp xếp
các thông tin thu thập được theo từng nội dung, các em phân tích, so sánh, đối
chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều; xác
định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng,... đưa ra những nhận định
về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng,...
Những động tác đó giúp HS phát triển kỹ năng tư duy phê phán.
+ Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm:
Đó là khả năng con người tự tin, chủ động nhận nhiệm vụ phù hợp với khả
năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ và ý thức cùng chia sẻ công việc
với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách nhiệm, cần dựa trên
những điểm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm kiếm thêm sự giúp đỡ
cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ. Việc GV giao nhiệm vụ rõ ràng, HS tiếp nhận
nhiệm vụ và trao đổi nhóm, phân công nhau và thực thi nhiệm vụ được giao một
cách có ý thức, nhiệt tình và có kết quả. Quá trình đó giúp cho kỹ năng đảm nhận

trách nhiệm của HS được rèn luyện.
+ Kỹ năng đặt mục tiêu:
Kỹ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
Trong cả quá trình tiếp cận di sản, GV đã cùng HS xác định mục tiêu chung. Ở
từng hoạt động cụ thể, HS cần biết mình phải đạt được cái gì sau buổi tìm hiểu di
sản và biết phải làm gì để đạt được mục tiêu đó. Kỹ năng đặt mục tiêu giúp HS
họat động có mục đích, có kế hoạch và có khả năng thực hiện được mục tiêu do
chính mình xác định.
+ Kỹ năng quản lí thời gian:
Đó là khả năng con người biết sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên,
biết tập trung vào giải quyết công việc chính, trọng tâm trong một thời gian nhất
định. Các buổi dạy học với di sản bao giờ cũng bị giới hạn bởi thời gian, dù có


vận dụng phương pháp dạy học theo dự án, nghĩa là HS có vài ngày, đôi khi vài
tuần để chuẩn bị, song thời gian vật chất dành cho việc này thực ra rất hạn chế.
Điều đó đòi hỏi HS phải biết lên kế hoạch, sắp xếp thời gian và tuân thủ đúng kế
hoạch đã định mới có thể thực hiện đầy đủ các công việc và cuối cùng có sản
phẩm theo dự kiến. Nếu biết tuần tự thực hiện các bước trong cả quá trình, HS sẽ
tránh được căng thẳng do áp lực công việc gây nên. Quản lí thời gian tốt góp phần rất
quan trọng vào sự thành công của cá nhân và của nhóm.
+ Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin:
Kỹ năng này giúp HS có thể thu được những thông tin cần thiết một cách
đầy đủ, khách quan, chính xác và kịp thời. Trước khi làm việc với di sản, HS đã
cùng GV xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin; HS được thông
báo về những loại thông tin cần phải tìm kiếm, nguồn / các địa chỉ tin cậy có thể
cung cấp những loại thông tin đó; HS biết cách chuẩn bị công cụ để thu thập
thông tin; cách tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng, cách sắp
xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung một cách hệ thống sau đó

phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được; xem xét một
cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các thông tin đó và cuối cùng là
viết báo cáo. Những công việc nêu trên được HS tuần tự thực hiện. Cách tổ chức
như vậy sẽ giúp các em rèn được kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin trong quá
trình làm việc với di sản.
- Tạo điều kiện tổ chức quá trình họat động của GV và HS một cách hợp lý
Khi làm việc với/ tại nơi có di sản, GV và HS phải gia tăng cường độ làm
việc. GV không thuyết trình về các hiện tượng, sự vật cần tìm hiểu mà cần
hướng dẫn HS tự quan sát, thu thập thông tin, trao đổi trong nhóm để xử lý các
thông tin, tìm hiểu về di sản, để tìm cách trình bày lại những hiểu biết của cá
nhân hoặc nhóm. Đôi khi HS có thể được yêu cầu tổ chức triển lãm những hiện
vật, bài viết giới thiệu về di sản do các em thu thập được. Môi trường làm việc
thay đổi đòi hỏi GV phải có phương pháp dạy học, cách thức tổ chức dạy học
phù hợp, sao cho tập thể HS được lôi cuốn vào công việc tìm hiểu, nghiên cứu di
sản; đòi hỏi từng HS phải làm việc thực sự và phải biết hợp tác với bạn để cùng
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
3. Những di sản thường được sử dụng trong dạy học, giáo dục ở nhà
trường phổ thông
Di sản văn hóa ở Việt Nam vô cùng đa dạng, phong phú và có nhiều giá trị.
Tính đến năm 2012, Việt Nam có 07 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới
(Quần thể di tích Cố đô Huế; Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An; Khu di tích Mĩ
Sơn,Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, Hoàng thành Thăng Long; Thành


nhà Hồ ); 07 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (Nhã nhạc cung đình Huế;
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; Không gian văn hóa Quan họ Bắc
Ninh; Ca trù, Hội Gióng; Hát Xoan; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương); 03 di
sản thông tin tư liệu thế giới (Mộc bản triều Nguyễn; 82 bia đá ở Văn Miếu Quốc
tử giám; Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm); 08 khu dự trữ sinh quyển thế
giới (rừng ngập mặn Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh; đảo Cát Bà, Hải Phòng; khu dự

trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang; khu dự trữ sinh quyển đồng
bằng châu thổ sông Hồng; khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, khu dự trữ
sinh quyển mũi Cà Mau; khu dự trữ sinh quyển Cù lao Chàm; khu dự trữ sinh
quyển Đồng Nai); 01 di sản thiên nhiên thuộc mạng lưới công viên địa chất toàn
cầu (Cao nguyên đá Đồng Văn); trên 3000 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh
cấp quốc gia; hàng triệu mẫu vật, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được lưu giữ
trong hơn 120 bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Đặc biệt, các hiện vật văn hóa
trong cuộc sống hàng ngày, các di sản văn hóa phi vật thể đang sống trong cộng
đồng rất giàu có nhưng ít được biết đến và khai thác.
Tiềm năng di sản văn hoá Việt Nam
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã để lại cho chúng ta ngày
nay kho tàng di sản văn hoá (phi vật thể và vật thể) cực kỳ phong phú và quý
giá. Căn cứ nguồn tài liệu lưu trữ của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
(VHTTDL), cả nước ta hiện có 40.000 di tích lịch sử – văn hoá. Trong số đó,
Bộ VHTTDL đã xếp hạng 3152 di tích có giá trị quốc gia, gồm: 1468 di tích
lịch sử – văn hoá; 1478 di tích kiến trúc – nghệ thuật; 77 di tích khảo cổ; 129
danh lam – thắng cảnh(1).
Căn cứ Điểm 3, Điều 29, Chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hoá vật thể (Luật Di sản văn hóa). Mục 1: Di tích lịch sử – văn hoá, danh
lam thắng cảnh, theo đề nghị của Bộ VHTTDL và văn bản thẩm định của Hội
Di sản Văn hoá Quốc gia, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định xếp hạng 23 di
tích có giá trị quốc gia đặc biệt (xem phụ lục 1); đồng thời cũng đã đề nghị Tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) xem xét,
đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thiên nhiên, di sản văn
hoá vật thể tiêu biểu của nhân loại. Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh được
UNESCO ghi danh lần thứ nhất với giá trị cảnh quan ngoại hạng (năm 1994), lần
thứ hai với giá trị địa mạo – địa chất (năm 2000); Vườn quốc gia Phong Nha –
Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình được UNESCO ghi danh vào danh mục Di
sản thiên nhiên thế giới năm 2003; 05 di sản văn hoá vật thể của Việt Nam
được UNESCO ghi danh vào danh mục di sản văn hoá của nhân loại là: Quần

thể các công trình kiến trúc cố đô Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế (năm
1993); Khu phố cổ Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam; Khu di tích tháp Chàm –
() Nguồn : Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL.

1


Mỹ Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam; Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long –
Hà Nội (năm 2010); Thành nhà Hồ thuộc tỉnh Thanh Hoá (năm 2012) (2).
Về văn hoá phi vật thể: Cả nước có 3355 làng nghề và làng có nghề;
trong số đó có trên 1000 làng được công nhận là làng nghề. Trên 400 làng
được công nhận là làng nghề truyền thống, 145 người được công nhận là nghệ
nhân. Theo đề nghị của Bộ VHTTDL,Thủ tướng đã quyết định công nhận 55
làng nghề truyền thống tiêu biểu của quốc gia; công nhận đợt I: 1 nghệ nhân
nhân dân, 20 nghệ nhân ưu tú (3).
- Lễ hội: Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hoá cộng
đồng của nhân dân ở nông thôn, cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân
dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá
cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh. Do vậy, lễ hội bao giờ
cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân dân sâu sắc.
Cả nước có: 7966 lễ hội, trong số đó có 7039 lễ hội dân gian/truyền thống
(chiếm 88,36%); 332 lễ hội lịch sử – cách mạng (chiếm 4,17%); 544 lễ hội tôn
giáo (chiếm 6,29%); 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,13%); còn lại
41 lễ hội khác, có thể gọi là lễ hội văn hoá du lịch (chiếm 0,51%). Lễ hội dân
gian / truyền thống, lễ hội lịch sử, tôn giáo có lịch sử lâu đời và ẩn chứa các
giá trị: giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng; giá trị hướng về cội
nguồn; giá trị cân bằng đời sống tâm linh; giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn
hoá(4).
- Những huyền thoại về các vị thánh, thần như Sơn Tinh, Thủy Tinh, Phù
Đổng Thiên Vương… về các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, danh nhân

văn hoá như Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung – Nguyễn Huệ… Những truyện
cổ tích, truyện dân gian, ca dao, tục ngữ… cũng đã được nghiên cứu, sưu tầm,
xuất bản. Chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh (quốc ngữ) chúng ta cũng đã được
biết, nay còn biết cả chữ Chăm cổ, chữ Thái cổ…
Giá trị văn hoá phi vật thể của nhân dân ta cũng đã được UNESCO thừa
nhận. Những năm qua, UNESCO đã ghi danh các di sản văn hoá phi vật thể
sau đây của Việt Nam vào danh mục Di sản phi vật thể tiêu biểu của nhân loại:
Nhã nhạc Cung đình Việt Nam – Nhã nhạc (Triều Nguyễn) – Kiệt tác di sản
phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, tỉnh Thừa Thiên Huế (công nhận năm
2003); Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên – Kiệt tác truyền khẩu và
() Nguồn: Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL.

2

() Nguồn: Lưu Duy Dần, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội làng nghề, tổ nghề.

3

() GS.TS. Ngô Đức Thịnh, Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền (Tham luận tại Hội thảo khoa
học : Lễ hội - nhận thức, giá trị và giải pháp quản lý, do Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia và Bộ
VHTTDL phối hợp tổ chức tháng 5/2012 tại Hà Nội),Tài liệu lưu tại HĐDSVHQG.
4


di sản phi vật thể của nhân loại (công nhận năm 2005); Hát quan họ (dân ca
quan họ Bắc Ninh) – Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại (công nhận
năm 2009); Hát ca trù – Di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại (2009); Lễ hội Thánh Gióng ở đền Phù Đổng (Gia Lâm) và đền
Sóc (Sóc Sơn) thành phố Hà Nội – Di sản đại diện của nhân loại (năm 2010);

Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ – Di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
của nhân loại (2011); Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại (2012). Văn bia Quốc Tử Giám – Hà Nội, Châu
bản Vương triều Nguyễn cũng đã được ghi nhận là di sản ký ức của khu vực
và của nhân loại. Hiện tại, chúng ta cũng đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị
UNESCO ghi danh: Đờn ca tài tử Nam Bộ vào danh mục Di sản văn hoá đại
diện của nhân loại…
Khí hậu nước ta nhiệt đới gió mùa, lắm mưa, nhiều bão, nắng nóng, độ
ẩm cao, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh, cộng thêm ý thức bảo tồn di sản
chưa thật tốt, nên có những di sản văn hóa vật thể nay chỉ còn là địa danh, là
phế tích; có những di sản văn hóa phi vật thể thật sự đã bị thất truyền. Đây
thực sự là điều đáng tiếc. Những di sản mà Nhà nước đã xếp hạng, UNESCO
đã ghi danh vào danh mục Di sản đại diện của nhân l oại cả vật thể, phi vật thể
và những di sản đã biết đến, chưa được xếp hạng, cũng còn khá nhiều. Đó
chính là cơ sở, là nền tảng để chúng ta sử dụng trong giáo dục nhằm giữ gìn
và phát huy những giá trị của di sản văn hóa đối với hiện tại và tương lai.
Bên cạnh khối lượng, chất lượng các di sản nói trên, nước ta còn có 217
bảo tàng và các bảo tàng đó đang bảo quản, trưng bày trên 3 triệu tài liệu hiện
vật. Gần đây, Bộ VHTTDL đã trình Thủ tướng Chính phủ công nhận 30 bảo
vật quốc gia trong số các hiện vật nói trên. Ví dụ: Trống đồng Ngọc Lũ, trống
đồng Hoàng Hạ, thạp đồng Đào Thịnh, tượng hai người cõng nhau thổi khèn
thuộc văn hoá Đông Sơn, đài thờ Trà Kiệu, tượng Phật Đông Dương, tượng
Bồ tát Tara thuộc văn hoá Chăm, tượng Nữ thần Đêvi, tượng Phật Lộc Mỹ,
tượng thần Surya thuộc văn hoá Óc Eo, tượng Adiđà chùa Phật Tích, tượng
nghìn mắt nghìn tay chùa Bút Tháp... và 04 di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh như:
Cuốn Đường Kách mệnh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (thời kỳ chống
thực dân Pháp), Lời kêu gọi “mỗi người làm việc bằng hai” (thời chống Mỹ
cứu nước), Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (5).
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong khu
vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Trên địa

bàn Phú Thọ có 34 dân tộc cùng sinh sống, từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại
Hồ Chí Minh, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tạo ra những giá trị văn hóa
mang đậm bản sắc dân tộc. Hiện nay, Phú Thọ có 1372 di tích lịch sử văn hóa
(Trong đó, Khu di tích lịch sử Đền Hùng được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia
() Nguồn: Cục Di sản văn hóa, Bộ VHTTDL.

5


đặc biệt, 73 di tích được xếp hạng quốc gia, 219 di tích lịch sử và di tích kiến
trúc nghệ thuật được xếp hạng cấp tỉnh và 260 lễ hội đang được duy trì thường
xuyên…). Những di sản văn hóa của địa phương đang được lưu giữ trong nhân
dân, lưu giữ tại Bảo tàng Hùng Vương (Có hai bảo tàng Hùng Vương: Bảo tàng
Hùng Vương tại khu di tích lịch sử Đền Hùng và Bảo tàng Hùng Vương cấp tỉnh
ở phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì) Đặc biệt, Phú Thọ có 02 di sản văn hóa
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, đó là hát
Xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Những giá trị văn hóa, di sản văn
hóa ở Phú Thọ đều có khả năng khai thác phục vụ cho tham quan, du lịch, sử
dụng trong dạy học và các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông.
Phú Thọ có nhiều di sản nổi tiếng như: Khu di tích Đền Hùng (thành phố
Việt Trì); đầm Ao Châu, Ao Giời- Suối Tiên, đền Mẫu Âu Cơ (huyện Hạ Hòa);
khu rừng nguyên sinh Xuân Sơn (huyện Tân Sơn); vùng nước khoáng nóng
Thanh Thuỷ (huyện Thanh Thủy); các khu di chỉ khảo cổ: Phùng Nguyên, Sơn
Vi, Gò Mun; các di tích kháng chiến: Chiến khu Hiền Lương (huyện Hạ Hoà),
chiến khu Vạn Thắng (huyện Cẩm Khê), tượng đài chiến thắng sông Lô (huyện
Đoan Hùng), khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Cổ Tiết (huyện Tam Nông)
và Chu Hoá (huyện Lâm Thao)…
Phú Thọ còn là miền đất lưu giữ nhiều giá trị văn hoá dân tộc đặc sắc của
tổ tiên, mang tính giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn: Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương, lễ hội Đền Hùng, hội Phết (Hiền Quan), hội làng Đào Xá,

Sơn Vi; Các làng nghề truyền thống: may nón lá (xã Sai Nga, huyện Cẩm Khê);
làng làm ủ ấm Sơn Vi (huyện Lâm Thao), làng làm bún Hùng Lô (xã Hùng Lô,
thành phố Việt Trì) đã được UBND tỉnh công nhận là làng nghề truyền thống.…;
nhiều làn điệu dân ca, nhiều trò diễn dân gian, nhiều truyền thuyết - huyền thoại
về dựng nước, nhiều truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười giàu tính nhân văn,
mang nét đặc sắc của vùng đất Tổ, đặc trưng văn hoá Lạc Hồng…Do đó, Phú
Thọ có điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và các
hoạt động giáo dục trong nhà trường phổ thông.
Di sản văn hóa Việt Nam nói chung, di sản văn hóa Phú Thọ nói riêng là
những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng các dân tộc, trải qua
một quá trình lịch sử lâu đời, được trao truyền, kế thừa và tái sáng tạo từ nhiều
thế hệ cho tới ngày nay. Di sản văn hóa Việt Nam là bức tranh đa dạng văn hóa,
là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di
sản văn hóa nhân loại. Di sản văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Đối với giáo dục, việc sử dụng di sản
trong dạy học ở trường phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho quá trình học
tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu bài sâu sắc
hơn, phát triển tư duy độc lập sáng tạo, giáo dục truyền thống, lòng yêu quê hương,
đất nước, giáo dục tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh góp phần giáo dục
toàn diện học sinh.


Di sản văn hoá Việt Nam là nguồn tài nguyên vô tận để dạy và học suốt đời.
Kho tàng tri thức chứa đựng trong hệ thống di tích, đền chùa, bảo tàng, trong con
người và trong môi trường sống xung quanh chúng ta vô cùng phong phú. Mọi di
sản văn hoá đều có tiềm năng và điều kiện để sử dụng trong dạy học, giáo dục ở
trường phổ thông. Từ di sản thế giới, di sản quốc gia đến di sản của địa phương,
của cộng đồng; từ di sản văn hoá đến di sản thiên nhiên; từ di sản vật thể đến di
sản phi vật thể, di sản thông tin tư liệu…mọi di sản đều có khả năng sử dụng để
dạy học, giáo dục trong trường phổ thông. Để khai thác và phát huy giá trị di sản

trong việc dạy học, giáo dục ở trường phổ thông cần chú ý những vấn đề sau:
- Mọi di sản đều có giá trị. Nhiều giá trị khác nhau được tích hợp trong một
di sản. Tuỳ thuộc vào mục tiêu giáo dục mà chúng ta có thể nhận dạng ra những
giá trị của di sản. Đó là giá trị thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như:
Lịch sử, nghệ thuật, văn hoá, văn học, kiến trúc, mĩ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng,
tri thức dân gian… Đó là những giá trị thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên như : Y
học, địa chất, địa mạo, sinh thái, môi trường, thiên văn,… Đó là những giá trị
thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật như : Vật lý, hoá học, cơ học, thông tin, điện
tử…. Từ những di sản nổi tiếng thế giới đến di sản còn ít được biết đến đang lưu
giữ và thực hành trong đời sống cộng đồng đều có giá trị và có những khả năng
đa dạng để khai thác sử dụng dạy học.
Những di sản của địa phương bao gồm các di tích, di vật, những đồ vật thể
hiện văn hóa đời thường và các di sản phi vật thể gần gũi với nhà trường là tiềm
năng trực tiếp, dễ khai thác và phát huy thường xuyên, hiệu quả nhất. Nhà trường
cần ưu tiên sử dụng những di sản này trong dạy và học.
Di sản văn hoá phi vật thể thường gắn bó một cách chặt chẽ với di sản vật
thể và di sản thiên nhiên. Di sản văn hoá phi vật thể cũng luôn gắn bó chặt chẽ
với con người, được biểu hiện thông qua con người cùng với không gian văn hoá
có liên quan. Những người nắm giữ di sản văn hoá phi vật thể thường là những
nghệ nhân, người lớn tuổi có tri thức và kinh nghiệm, người làm nghề chuyên
nghiệp, những dòng họ, gia đình thực hành nghề truyền thống… Họ là những
chủ thể của di sản phi vật thể và có thể trở thành những đối tác, cộng tác viên đắc
lực của nhà trường trong việc sử dụng di sản để dạy học. Di sản phi vật thể có ở
mọi nơi trong cuộc sống đương đại. Gắn kết di sản văn hoá phi vật thể với giáo
dục ở trường phổ thông giúp cho các bài học sinh động, cảm xúc và có ý nghĩa
giáo dục văn hoá một cách sâu sắc. Vì vậy, ở nhiều nước trên thế giới di sản phi
vật thể thường được sử dụng để dạy học.
Để xác định giá trị di sản và có cách thức sử dụng di sản để dạy học một
cách hiệu quả nhất, nhà trường cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cán bộ
nghiên cứu, cơ quan quản lý di sản để tiếp cận di sản, nhận dạng giá trị di sản và



khai thác di sản một cách phù hợp và hiệu quả. Ở mỗi tỉnh và thành phố đều có
các cơ quan quản lý di sản. Đó là các bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành,
bảo tàng tỉnh và thành phố. Đó là các ban quản lý di tích, di sản trực thuộc các
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố hoặc trực thuộc tỉnh (Khu di
tích lịch sử Đền Hùng không trực thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch mà trực
thuộc trực tiếp UBND tỉnh Phú Thọ). Đó là các ban quản lý di tích do cộng đồng
quản lý trực thuộc chính quyền cấp huyện, xã. Một số viện nghiên cứu về chuyên
ngành trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Viện Khoa học xã hội và
Nhân văn quốc gia là những trung tâm lưu trữ dữ liệu phong phú về di sản
văn hoá Việt Nam.
4. Trách nhiệm của nhà trường phổ thông đối với di sản văn hóa Việt
Nam
Nhà trường phổ thông vừa có trách nhiệm giáo dục nâng cao nhận thức cho
HS về di sản văn hoá, góp phần bảo vệ di sản văn hoá vừa có trách nhiệm sử
dụng di sản văn hoá để dạy học. Việc sử dụng di sản văn hoá để dạy học mang
lại những kết quả tích cực vừa có giá trị ở phương pháp giáo dục kiến thức phổ
thông theo quy định của chương trình, vừa nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của HS đối với di sản văn hoá.
Để đảm bảo việc sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông phù hợp,
khả thi và bền vững thì nội dung lựa chọn sử dụng trong dạy học và các hoạt
động giáo dục cần có sự linh hoạt và phải phù hợp với văn hóa địa phương và
dân tộc, phù hợp với mọi điều kiện của nhà trường ở: Nông thôn, đô thị, miền
núi, ven biển, hải đảo... và mọi đối tượng HS. Quan niệm chỉ đạo là lấy HS và
hoạt động học làm trung tâm; tận dụng khai thác nguồn học liệu tại chỗ là những
di sản văn hóa gần gũi, xung quanh môi trường sống, dễ hiểu với HS và sử dụng
những kinh nghiệm và tri thức của người địa phương.
Đồng thời, việc giáo dục di sản, sử dụng di sản để dạy học cần chú trọng
hướng đến các thiết chế văn hóa và loại hình đa dạng là những bảo tàng, di sản

vật thể (di tích văn hóa, thiên nhiên, lịch sử, cách mạng, kháng chiến, v.v.), di sản
thiên nhiên, di sản phi vật thể, nhất là những di sản sống, nhân chứng sống ở
xung quanh và gần gũi với nhà trường. Theo đó, hoạt động giáo dục di sản và sử
dụng di sản để dạy học là những hoạt động giáo dục có định hướng, không theo
phong trào và hình thức. Cần xác định sử dụng di sản như nguồn học liệu để trau
dồi hiểu biết về di sản và rèn luyện phương pháp học tập và kỹ năng sống.
Nhà trường cần đổi mới phương pháp tiếp cận di sản thông qua các hoạt
động trong và ngoài giờ lên lớp nhằm giúp HS tự chủ, năng động, sáng tạo,
khám phá - không theo mô hình học thuộc lòng, hỏi đáp, thi chấm điểm. GV
đóng vai trò là người thiết kế hoạt động, điều phối viên, giúp tổ chức hoạt động


cho HS. Cần xác định và sử dụng kết hợp tối đa khung thời gian: Hoạt động
ngoại khóa, chương trình ngoài giờ, chương trình địa phương, các tiết chào cờ,
sinh hoạt tập thể, v.v. cho các hoạt động giáo dục di sản. Khuyến khích tư duy
phản biện của HS và GV. Tránh lặp lại các định kiến và cần làm mới nhận thức,
tiếp cận về di sản văn hóa và phương pháp giáo dục.
Do đặc thù của môn Âm nhạc (THCS) nên khi sử dụng di sản trong
dạy học cần chú ý:
- Di sản là phương tiện để hỗ trợ các nội dung trong chương trình Âm nhạc
hiện hành, chứ không phải dạy về di sản. Như vậy nội dung chương trình, chuẩn
kiến thức, kĩ năng của môn Âm nhạc không thay đổi, chỉ thay đổi về phương tiện
dạy học...
- Việt Nam có nhiều di sản, nhưng trong dạy học Âm nhạc ở THCS, chủ
yếu là dùng 5 di sản gắn liền với sinh hoạt văn hóa và âm nhạc, đó là: Nhã nhạc
cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ
Bắc Ninh- Bắc Giang, Ca trù và Hát xoan. Ngoài ra, các loại di sản khác cũng có
thể được khai thác và sử dụng sao cho linh hoạt và hiệu quả. Dưới đây là một số
cách khai thác tư liệu di sản cho môn Âm nhạc :
Tư liệu về di

sản

Mô tả
- Hình ảnh về kinh đô Huế, dàn nhã nhạc cung đình Huế, các
loại nhạc cụ dùng trong dàn nhã nhạc, ...

Hình ảnh về di
sản

- Hình ảnh về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên:
lễ hội, cồng chiêng, nhà rông, ...
- Hình ảnh về hát quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang: hội Lim,
trang phục, hình thức hát quan họ, các liền anh liền chị, ...
- Hình ảnh về hát ca trù: nhạc cụ, trang phục, các nghệ nhân, ...
- Hình ảnh về hát xoan ở Phú Thọ: trang phục, hát múa, ...
- Đĩa nhạc, video về nhã nhạc cung đình Huế.

Âm thanh về di
sản

- Đĩa nhạc, video về không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên.
- Đĩa nhạc, video về quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang.
- Đĩa nhạc, video về hát ca trù.
- Đĩa nhạc, video về hát xoan.


- Bài viết, câu chuyện hoặc xuất xứ về nhã nhạc cung đình
Huế.
Thông tin về di

sản

- Bài viết, câu chuyện hoặc thông tin về không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên.
- Bài viết, câu chuyện hoặc lịch sử về quan họ Bắc Ninh - Bắc
Giang.
- Bài viết, câu chuyện hoặc thông tin về hát ca trù.
- Bài viết, câu chuyện hoặc truyền thuyết về hát xoan.
- Các nhạc cụ trong dàn nhã nhạc cung đình Huế.
- Cồng chiêng Tây Nguyên.

Hiện vật về di
sản

- Bản nhạc quan họ, trang phục quan họ.
- Các nhạc cụ trong hát ca trù: đàn đáy, phách, trống chầu.
- Lời ca của bài hát xoan, trang phục biểu diễn...

Để giáo dục qua các di sản đạt hiệu quả cao, cần lưu ý:
Một là: Về nhận thức thì giáo dục qua di sản là trách nhiệm của toàn xã
hội, của cả một hệ thống chính trị, trước hết là của các gia đình và nhà trường
(xã hội hóa giáo dục). Đây hiển nhiên không phải là trách nhiệm chỉ của riêng
Bộ Giáo dục và Đào tạo, của ngành giáo dục. Ngành giáo dục sử dụng phương
pháp dạy và học thông qua các di sản như là một phương pháp bổ trợ tích cực
nhằm củng cố và mở rộng kiến thức cho HS.
Hai là: Giáo dục thông qua di sản là phương thức giáo dục vừa có tính
phổ biến, vừa không phụ thuộc vào độ tuổi của người học và đạt hiệu quả cao,
góp phần tạo lập, phát triển, hoàn thiện nhân cách con người và không đòi hỏi
quá nhiều chi phí, “chơi mà học, học mà chơi”: Khi trẻ mới sinh, sự vuốt ve,
cưng nựng, lời ru và tiếng hát của người mẹ từ ngày này qua ngày khác thật sự

đã xác lập được phản xạ có điều kiện đầu tiên ở não bộ trẻ. Để rồi sau đó, lúc
trẻ giận hờn, mẹ nựng, mẹ ru “cơn hờn” dịu lại. Lúc trẻ vẫn đang mải chơi,
nhưng đã đến giờ trẻ cần được ngủ, mẹ bế trẻ và chỉ vài động thái cưng chiều,
vài lời hát ru, trẻ đã “chìm sâu vào giấc ngủ ngon lành”. Khi trẻ biết nói, biết
nhận biết, não bộ trẻ bắt đầu hình thành được các khái niệm, từ giản đơn đến
phức tạp, mà những khái niệm đầu đời ấy chính là di sản văn hoá: tiếng nói, đồ
vật, cái nôi, cái giường, cái chăn, cái bát, cái thìa, đôi đũa, cái nhà mà trẻ vẫn
tiếp xúc hàng ngày, v.v... Tới tuổi cắp sách tới trường, trẻ lại một lần nữa được
làm quen, được tiếp cận với di sản văn hoá... Thế là các khái niệm được định
hình và trở thành hữu thức khi được tiếp nhận ở các lớp học tiếp theo, v.v...


Ba là: Dạy và học thông qua các di sản văn hoá là phương pháp trực
quan, sinh động và thực sự có hiệu quả. Do mục tiêu đào tạo, do khối lượng
kiến thức cần phải truyền thụ cho HS các cấp, chúng ta hiện chưa đưa việc
dạy, học các di sản văn hoá vào chương trình bắt buộc (có thời lượng), mà
mới chỉ dừng lại ở chương trình ngoại khoá, ở các giờ tự học, hoặc sinh hoạt
tập thể. Từ đầu năm 2013, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thí điểm việc sử
dụng di sản văn hóa trong dạy học và các hoạt động giáo dục ở trường phổ
thông (Trong đó ở Phú Thọ có thí điểm 02 trường THPT: Việt Trì, Long Châu
Sa; 02 trường THCS: Gia Cẩm, Nông Trang). Ở đây, mức độ là “sử dụng” di
sản văn hóa, coi di sản văn hóa như là phương tiện, tư liệu dạy học, hỗ trợ cho
bài học thêm sinh động, học sinh hứng thú, qua đó giáo dục học sinh lòng yêu
quê hương, đất nước; giáo dục truyền thống, đạo lý, hình thành nhân cách, kỹ
năng sống cho học sinh; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa bản sắc dân
tộc.
Bốn là: Để nhằm tăng cường tính hành dụng trong học tập, củng cố và
hoàn thiện các kiến thức đã học trên lớp, góp phần bổ sung, nâng cao kiến
thức và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, giúp cho mỗi cá nhân
và cộng đồng hiểu biết về di sản, biết bảo vệ, tuyên truyền cho cộng đồng, bảo

vệ di sản; có thái độ ứng xử đúng đắn với các di sản.
Dạy – học thông qua di sản chỉ đạt kết quả cao khi được tổ chức có kế
hoạch, có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường với ban quản lý các di tích, ban
giám đốc các bảo tàng ; xác định rõ chủ đề dạy, học tại trường, tham quan và đa
dạng hoá các hình thức thể hiện trong giờ ngoại khoá tại trường, trong mỗi lần
tới di tích, tới bảo tàng. Di sản quanh chúng ta, rất gần gũi với chúng ta, nên
trước hết cần khai thác các di sản có sẵn tại địa phương; sau đó, nếu có điều
kiện mới tiến tới đưa HS tới các di sản ngoài địa phương. Tuy nhiên, cần chú ý
là mọi di sản đều được khai thác nhiều lần trong giảng dạy, cũng như trong học
tập và điều đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu kiến thức ở từng cấp học của HS.
Dạy học thông qua các di sản, hay giáo dục thông qua các di sản là
phương pháp tối ưu không chỉ giúp cho HS củng cố, mở rộng các kiến thức đã
được truyền thụ trên lớp, mà còn bồi dưỡng trực tiếp cho các em năng lực cảm
nhận cái đẹp, cái hay qua các công trình kiến trúc, các mảng chạm khắc lộng
lẫy ở các đình, chùa... qua các làn điệu dân ca, qua các cảnh quan thiên nhiên
vừa gần gũi, vừa say đắm lòng người. Đồng thời, giúp HS tích lũy vốn sống,
kỹ năng lao động, kỹ năng giao tiếp; kỹ năng ứng xử, tôn trọng quá khứ để
vững bước tiến vào tương lai v.v...
Phần II. SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG DẠY HỌC VÀ TỔ
CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG THCS
1. Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học và các hoạt động
giáo dục ở trường phổ thông


Di sản văn hóa có ý nghĩa nhất định đối với quá trình dạy học, giáo dục.
Tuy nhiên muốn sử dụng chúng có hiệu quả, người GV phải chú ý tuân thủ một
số yêu cầu trong chuẩn bị các điều kiện thực hiện dạy học với di sản và triển khai
hoạt động dạy học với di sản. Cụ thể là:
Thứ nhất: Đảm bảo mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông của
môn học và mục tiêu giáo dục di sản :

- Đảm bảo chương trình giáo dục phổ thông môn học theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo (không thêm, bớt thời lượng làm thay đổi chương trình).
- Đảm bảo mục tiêu giáo dục phổ thông gắn với mục tiêu giáo dục di sản.
Mục tiêu từng cấp học nói chung, các môn học trong nhà trường phổ thông đều
có mục tiêu cụ thể cho từng cấp, lớp học. Trên cơ sở của những mục tiêu đó,
mục tiêu từng bài được xây dựng. Vì vậy, chuẩn bị lựa chọn di sản phục vụ cho
việc dạy học một bài học hoặc một nội dung/chuyên đề của môn hoặc nhiều môn
học, GV cần xác định mục tiêu bài học/ chuyên đề và lựa chọn di sản phải hướng
vào thực hiện mục tiêu đã được xác định và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực
hiện mục tiêu được thuận lợi hơn. Bên cạnh đó GV cần xây dựng thêm một số
yêu cầu về di sản đối với HS. Ví dụ: HS có thêm hiểu biết về sự ra đời của di
sản, về cấu trúc hình thức và nguyên nhân của sự tạo thành cấu trúc đó, về ý
nghĩa của di sản đối với đời sống tinh thần, vật chất của người dân ở địa phương
có di sản,… Từ đó có thái độ tôn trọng di sản, có hành vi giữ gìn và chăm sóc di sản.
Tuy nhiên, tùy cách sử dụng di sản để thiết kế mục tiêu giáo dục di sản cho phù hợp.
Nếu đưa HS tới địa điểm có di sản, GV ngoài yêu cầu HS tìm hiểu về hình thức, ý
nghĩa di sản cần kết hợp cho các em tham gia một số hoạt động góp phần gìn giữ di
sản như quét rác, nhặt cỏ, làm sạch quanh khu vực có di sản. Nếu sử dụng các hình ảnh
về di sản trong dạy học trên lớp thì GV nên có biện pháp để học sinh thể hiện sự hiểu
biết và thái độ của mình đối với di sản.
Thứ hai: Xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo
Dù tiến hành dạy học tại địa điểm có di sản hay dạy học trong lớp học có sử
dụng di sản, GV cần chuẩn bị kỹ nội dung và các điều kiện thực hiện. Ở đây
chúng ta tạm coi việc chuẩn bị nội dung chuyên môn đã được tiến hành chu đáo
theo quy định của chuẩn kiến thức, kỹ năng bộ môn và theo gợi ý về phương
pháp dạy học môn học, chúng ta tập trung vào việc xác định nội dung và các
bước chuẩn bị liên quan đến khai thác di sản như một phương tiện dạy học.
- Về nội dung liên quan đến di sản, GV cần cân nhắc những yêu cầu đã
được xác định, ví dụ yêu cầu HS tìm hiểu nguồn gốc của di sản, nguyên nhân tạo
thành cấu trúc của di sản, sự phát triển của di sản qua thời gian, ý nghĩa của di

sản, cảm nhận của HS với di sản, HS có thể làm gì để bảo vệ, tôn tạo di sản,…


Những yêu cầu này càng được nêu chi tiết, trình bày đơn giản càng giúp HS
nhận biết rõ nhiệm vụ cần thực hiện. GV cần lưu ý về thời gian HS có thể làm
việc tại địa điểm có di sản để đưa ra các yêu cầu về nội dung cho phù hợp. GV
có thể hướng dẫn HS tìm hiểu trước các thông tin liên quan tới di sản, khi làm
việc với di sản, HS sẽ trao đổi, quan sát, so sánh những gì thu thập được với thực
tế di sản, từ đó có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ hơn về di sản. GV phải tìm hiểu di sản
trước khi đưa HS tiếp cận chúng để có thể hỗ trợ HS khi cần. Tuy nhiên không
nhất thiết GV phải biết đầy đủ, chi tiết về những gì HS sẽ thu thập, tìm kiếm về
di sản. Việc HS tìm hiểu được những thông tin bổ sung, thông tin “lạ” về di sản
sẽ đem lại niềm vui, sự phấn khởi cho HS, kích thích tình tò mò, ham hiểu biết
của các em, tạo thuận lợi cho những lần nghiên cứu tìm hiểu di sản tiếp theo.
- Hoạt động làm việc với di sản cần tiến hành theo những bước đi cụ thể.
Sau khi xác định được địa điểm, loại di sản được lựa chọn phục vụ cho dạy học,
mục tiêu và các yêu cầu về nội dung dạy học với di sản, GV cần lập kế hoạch chi
tiết các công việc cụ thể, từ chuẩn bị tiến hành dạy học, tiến trình dạy học với di
sản và tổng kết, đánh giá hoạt động dạy học với di sản. GV nên chú ý một số
công việc như sau:
+ Công tác chuẩn bị:
GV nên hướng dẫn để HS cùng tham gia hoạt động chuẩn bị. Ở bước này,
GV có điều kiện để thực hiện đổi mới phương pháp qua thực hiện một số việc
làm cụ thể sau:
* Dự kiến được nội dung công việc, hình dung được tiến trình hoạt động.
* Dự kiến những phương tiện gì cần cho hoạt động.
* Dự kiến sẽ giao những nhiệm vụ gì cho đối tượng nào, thời gian phải
hoàn thành là bao lâu.
* Bản thân GV sẽ phải làm những việc gì để thể hiện sự tương tác tích cực
giữa thầy và trò.

Về phía HS, khi được giao nhiệm vụ các em cần chủ động bàn bạc cách
thực hiện trong tập thể lớp, chỉ ra được những việc phải làm, phân công rõ ràng,
đúng người, đúng việc.
Tuy vậy, GV vẫn phải có sự quan tâm, theo dõi, giúp đỡ, nhắc nhở HS hoàn
thành công việc chuẩn bị.
+ Tiến hành hoạt động với di sản:
Có thể hình dung khi thiết kế bước tiến hành hoạt động như xây dựng một
kịch bản cho HS thể hiện. Do đó, cần sắp xếp một qui trình tiến hành hợp lí, phù
hợp với khả năng của HS. Kịch bản hoạt động cần được thiết kế chi tiết từ lúc


bắt đầu tiếp xúc với di sản, các công việc cụ thể khi HS tìm thông tin về các đối
tượng, sự vật chứa đựng trong di sản liên quan đến nội dung bài học (ghi chép,
lấy mẫu vật, chụp ảnh, vẽ lại,…), trao đổi để phân tích các hiện tượng sự vật,
giải thích, liên hệ,…. nêu nhận xét của cá nhân, nhóm,… đến lựa chọn cách trình
bày thông tin, mẫu vật, viết báo cáo.
Trong bước tiến hành hoạt động, HS hoàn toàn chủ động, tích cực, sáng tạo,
GV chỉ là người điều khiển, hướng dẫn, quan sát các hoạt động của học sinh theo
kịch bản và nhiệm vụ đặt ra.
+ Kết thúc hoạt động:
Bước này cũng do HS hoàn toàn làm chủ. Có nhiều cách kết thúc, tùy theo
kiểu bài: Học sinh phát biểu suy nghĩ/ GV chốt lại ý nghĩa, giá trị đạt được qua
việc sử dụng di sản trong bài học (kiểu bài trên lớp); có thể tập hợp HS, yêu cầu
đại diện nhóm nêu cảm nghĩ về buổi làm việc với di sản, ghi nhật ký hoặc tổ
chức cho HS tham gia làm vệ sinh, chăm sóc di sản (kiểu bài tại nơi có di sản).
Khi thiết kế bước này, GV có thể gợi ý các dự kiến để HS lựa chọn cách kết thúc
sao cho hợp lí, tránh nhàm chán và tẻ nhạt.
+ Đánh giá kết quả hoạt động:
Đánh giá là dịp để HS tự nhìn lại quá trình tổ chức hoạt động của mình từ
chuẩn bị, tiến hành hoạt động đến đánh giá kết quả hoạt động. Có nhiều hình

thức đánh giá như:
* Nhận xét chung về ý thức tham gia mọi thành viên trong tập thể.
* Viết thu hoạch sau hoạt động nhằm tìm hiểu mức độ nhận thức vấn đề của
HS.
* Bằng câu hỏi trắc nghiệm để đánh giá thái độ của HS về một vấn đề nào
đó của hoạt động.
* Thông qua sản phẩm thu hoạch của hoạt động.
Nói chung, nếu GV thực hiện và vận dụng theo quy trình hợp lí thì hoạt
động sẽ đạt được những kết quả cụ thể, sẽ tạo được hứng thú cho HS, giúp các
em có thêm hiểu biết và trải nghiệm với di sản.
Thứ ba: Phát huy tính tích cực, chủ động của HS, tạo điều kiện cho HS trải
nghiệm
Phải luôn đề cao vai trò hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo của HS,
tránh tác động một chiều (Dạy học tích cực). GV luôn tạo điều kiện tối đa để HS
được tham gia vào các hoạt động với di sản, từ các hoạt động trong khâu chuẩn
bị như lập kế hoạch, phân công người thực hiện việc cụ thể,… tới hoạt động với


di sản như quan sát, làm việc trực tiếp với các hiện tượng sự vật chứa đựng trong
di sản để các em tìm tòi, khám phá, liên hệ kiến thức đã có để giải thích các hiện
tượng sự vật đó. GV giao nhiệm vụ rõ ràng, hướng dẫn cụ thể chi tiết để HS biết
cách làm việc với di sản. Được tự chủ trong công việc, tự hoàn thành báo cáo tìm
hiểu di sản, có sản phẩm do cá nhân hoặc nhóm tạo ra các em sẽ phấn khởi càng
cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Điều đó càng khuyến khích HS làm việc tích cực,
nhiệt tình hơn, các em có cơ hội được thể hiện mình. Trong quá trình làm việc
với di sản, các em được áp dụng những kiến thức, sự hiểu biết của cá nhân để
nhận biết các sự vật, hiện tượng gắn bó với di sản, các em được trải nghiệm với
những tình huống đã từng xảy ra tại nơi có di sản, có thể chỉ là tình huống được
dựng lại, được mô tả lại nhưng nó tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của các
em. Khi các em được tự tìm hiểu về di sản, được quan sát, nhận xét, tri giác trực

tiếp mà không chỉ nghe nói về di sản sẽ giúp các em được trải nghiệm qua các
tình huống thực tế. Điều đó thường giúp HS có được thái độ tình cảm chân thực,
đúng đắn với di sản. Mặt khác được trải nghiệm qua các tình huống thực tế khi
tiếp xúc với di sản sẽ giúp các em phát triển tốt hơn một số kỹ năng sống như đã
nêu trên.
Thứ tư: Kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức thực hiện
Trong môi trường sống xung quanh chúng ta tồn tại rất nhiều loại di sản,
bao gồm cả di sản vật thể lẫn di sản phi vật thể. Tùy theo giá trị chứa đựng trong
mỗi di sản chúng được phân loại thành di sản văn hóa, khoa học, di sản tự nhiên,
di sản lịch sử,…. Mỗi loại di sản lại có những đặc điểm riêng về hình thức, giá
trị,…. Vì vậy, khi sử dụng di sản như phương tiện dạy học, có thể tổ chức nhiều
hình thức tiếp cận: Cho HS trực tiếp quan sát di sản, đôi khi có thể dùng các giác
quan để tìm hiểu, dùng máy ảnh, máy quay phim ghi lại hình ảnh di sản. Cũng có
thể cho các em tiếp xúc qua phim, ảnh nếu không có điều kiện đưa HS tới nơi có
di sản. Cách tiếp cận này thường được dùng đối với di sản vật thể. Di sản phi vật
thể cũng có thể chuyển giao được. Ví dụ: Nhã nhạc cung đình Huế, Ca Trù, Dân
ca Nam Bộ, Chèo, hát quan họ; hát Xoan… là một trong những loại di sản phi
vật thể quý báu của các vùng miền Việt Nam.
Bên cạnh việc dạy học các môn học với các di sản, nhà trường phổ thông
cần tổ chức nhiều loại hình hoạt động tạo điều kiện để HS tìm hiểu di sản ngay
trong khuôn viên nhà trường; phòng truyền thống của nhà trường; các buổi ngoại
khóa; tổ chức sinh hoạt chuyên đề tìm hiểu di sản; tổ chức câu lạc bộ những
người yêu thích văn nghệ dân gian; tổ chức triển lãm về di sản ở địa phương,…
và tổ chức thăm quan những địa điểm có di sản ngay tại địa phương trường đóng
hoặc di sản nổi tiếng trong nước, quốc tế khi có điều kiện.


Lưu ý: Để sử dụng di sản văn hóa trong dạy học và các hoạt động giáo
dục của nhà trường có hiệu quả cần phải:
- Giải quyết khâu nhận thức của các cấp quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục, đội

ngũ GV về ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hoá trong dạy học và các hoạt động
giáo dục trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, góp phần bảo vệ và phát
huy những giá trị lịch sử, văn hoá của địa phương, đất nước.
- Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để cán bộ, GV, học sinh, phụ huynh
học sinh, ngành văn hóa và toàn xã hội ủng hộ, đồng thuận tạo động lực cho việc
triển khai sử dụng di sản văn hoá trong dạy học và các hoạt động giáo dục trong nhà
trường phổ thông đạt hiệu quả và có sức lan toả, bền vững.
- Việc sử dụng di sản văn hoá trong dạy học và các hoạt động giáo dục gắn
liền mục tiêu giáo dục toàn diện học sinh về đức, trí, thể, mỹ; đồng thời gắn liền với
việc đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa các hình thức dạy học (không nhất
thiết phải đưa học sinh đến tham quan, học tập tại di sản nếu không có điều kiện),
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc sưu tầm, tìm hiểu,
sử dụng di sản văn hóa trong giờ học và các hoạt động giáo dục (học sinh phải là chủ
thể, chủ động, tích cực tham gia vào quá trình sử dụng di sản trong giờ học và các
hoạt động giáo dục); đổi mới kiểm tra đánh giá trong dạy học, đưa nội dung di sản
văn hóa vào bài kiểm tra sao cho phù hợp với thời lượng bài kiểm tra và khả năng
nhận thức của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong nhà trường gắn với việc sử dụng di sản văn hóa trong nhà trường
qua các sự kiện lịch sử, di tích lịch sử, sự kiện văn hoá, danh lam thắng cảnh của địa
phương, tích cực đổi mới nội dung và hình thức sử dụng di sản văn hóa sao cho an
toàn, hiệu quả, hấp dẫn và mang tính giáo dục cao.
- Khi tiến hành dạy học và các hoạt động giáo dục có sử dụng di sản văn hóa,
GV cần phải có nhận thức đúng về khái niệm “sử dụng di sản” chứ không phải là đưa
di sản vào dạy học. Như vậy, thì không dẫn tới tình trạng nặng nề, quá tải, không tăng
thời lượng chương trình vì ta dùng di sản như một phương tiện, tư liệu, nguồn kiến
thức để hỗ trợ bài học, làm cho bài học sinh động, gây hứng thú hơn cho học sinh.
- Phải hiểu đúng khái niệm di sản văn hóa (theo nghĩa rộng) không phải chỉ
những di sản được thế giới, quốc gia và các cấp địa phương công nhận mới sử dụng
trong nhà trường, mà di sản ở quanh ta, gần gũi với ta (có giá trị lịch sử, văn hóa,

khoa học, nghệ thuật) nên sẽ không khó khi sử dụng. Tuy nhiên, khi sử dụng di sản
trong nhà trường không nên gượng ép, lựa chọn những nội dung phù hợp để sử dụng
di sản (không phải bài nào, nội dung nào, hoạt động giáo dục nào cũng sử dụng di
sản văn hóa), chọn những di sản văn hóa tiêu biểu, không nên đưa tràn lan (nếu
những bài, nội dung có nhiều di sản văn hóa).


×