Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 82 trang )

ĐINH THỊ THANH HƯƠNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CHO CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

ĐINH THỊ THANH HƯƠNG

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CHO CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
ĐINH THỊ THANH HƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Vũ Thị Lan Anh. Các nội dung nghiên cứu, kết
quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước
đây. Những số liệu sử dụng trong luận văn được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn
gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 6 tháng10 năm 2017
Tác giả luận văn

Đinh Thị Thanh Hương


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt bài luận văn này, cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân,
em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo PGS.TS Vũ Thị Lan Anh, đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau đại học, các thầy
cô giáo phụ trách giảng dạy chuyên ngành Luật Kinh tế, Viện Đại học Mở Hà Nội,
đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình giúp đỡ, chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu, tạo

điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài luận văn này.

Hà Nội, ngày 6 tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn

Đinh Thị Thanh Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ........................................................ 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 4
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài .............................................................. 4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ............................................................. 5
7. Kết cấu của luận văn ....................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CHO DOANH NGHIỆP........................................................................................ 6
1.1 Khái quát về quyền bình đẳng của doanh nghiệp ........................................... 6
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp ................. 6
1.1.2 Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp ............. 15
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc xác lập và bảo đảm quyền bình đẳng
của các doanh nghiệp.................................................................................... 17
1.2. Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp. ........................ 22
1.2.1. Khái niệm, nội dung của pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ................................................................................................ 22
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ................................................................................................ 25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................................................................... 29
2.1. Những quy định mang tính nguyên tắc chung về quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ..................................................................................................... 29
2.2. Những quy định cụ thể về quyền bình đẳng trong hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp ............................................................................................... 31


2.2.1. Những quy định về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trong việc
thành lập, đăng ký, chuyển đổi hình thức ...................................................... 31
2.2.2. Thực trạng những quy định về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thuế .......................................................... 40
2.2.3. Những quy định về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực sử dụng đất ............................................................................................. 46
2.2.4. Những quy định về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực kinh doanh xuất nhập khẩu ..................................................................... 49
2.2.5. Những quy định pháp luật về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
trong việc giải thể, phá sản ........................................................................... 50
2.3. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ..................................................................................................... 53
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................. 57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đăng cho các doanh
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. ...................................................................... 57
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay ....................................................................... 60
3.2.1. Xác định một cách hợp lý về hình thức và cấu trúc văn bản pháp luật về
doanh nghiệp ................................................................................................ 60

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về xác lập và chấm dứt tư cách chủ thể kinh doanh 63
3.3.3. Hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến quá trình hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .......................................................... 66
3.3.4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoat động của doanh
nghiệp theo hướng cắt bỏ những thủ tục gây phiền hà cho doanh nghiêp. ..... 67
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 71


CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DNNN

:

Doanh nghiệp Nhà nước

KTTT

:

Kinh tế thị trường

ĐTNN

:

Đầu tư nước ngoài

XHCN


:

Xã hội chủ nghĩa

ĐKDN

:

Đăng ký doanh nghiệp

ĐKKD

:

Đăng ký kinh doanh

BĐGCDN

:

Bình đẳng giữa các doanh nghiệp


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 30 năm thực hiện chính sách đổi mới kinh tế do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đề ra, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng
kể. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, hệ thống pháp luật và môi trường
kinh doanh ở Việt Nam đã không ngừng được cải thiện theo hướng phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khung pháp luật nói chung và pháp luật kinh
tế nói riêng đã ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt là pháp luật về doanh nghiệp,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc ra đời, hình thành và phát triển của các chủ
thể kinh doanh. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã, đang ngày một
lớn mạnh và không ngừng vươn lên khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế
của đất nước.
Với sự ra đời của Hiến pháp 2013, Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư
2014... có thể nói, sự bình đẳng trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế ở nước ta đã được xác lập. Quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
phải được bảo đảm trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp từ khi gia nhập
thị trường (ĐKDN), đi vào hoạt động và ngay cả khi giải quyết tranh chấp, hoặc giải
thể, phá sản, rút lui khỏi thị trường. Quyền bình đẳng của doanh nghiệp phải mang
tính toàn diện trong các quan hệ.
Yêu cầu của việc phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng
XHCN đòi hỏi cần xác lập các điều kiện pháp lý tạo điều kiện thuận lợi như nhau
cho các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh, nhằm tạo một "sân chơi" bình
đẳng cho tất cả các doanh nghiệp, góp phần phát huy những ưu thế của mỗi loại
hình doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp đóng góp tốt hơn vào sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Đó cũng là mong muốn của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước ở Việt Nam hiện nay.
1


Do vậy, việc xác lập khuôn khổ pháp lý đảm bảo quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết.
Vì những lý do trên, "Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng cho các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam " là một hướng nghiên cứu có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Chính vì thế, tác giả đã chọn đề tài này làm luận văn tốt

nghiệp Cao học với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế ở nước ta phù hợp với yêu cầu phát triển nền
kinh tế ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp là vấn đề mới
được đặt ra khi chúng ta xác định đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số tác giả quan tâm, nghiên cứu về vấn đề này,
song nhìn chung, phần lớn các công trình mới chỉ được đề cập chung về quyền
bình đẳng cho doanh nghiệp và coi đó là một nguyên tắc của kinh tế thị trường. Cụ
thể như:
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2005 về “Đổi mới quản lý nhá nước đối với các
loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng không phân biệt thành phần kinh tế”
do Tiến sỹ Trần Tiến Cường làm chủ nhiệm. Trong công trình khoa học này, các tác
giả đã đề cập đến quyền bình đẳng như là nguyên tắc tất yếu của kinh tế thị trường
và là bảo đảm cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Cũng trong tác phẩm này,
các tác giả cũng phân tích, đánh giá tình trạng bất bình đẳng giữa các loại hình
doanh nghiệp ở nước ta hiện vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Như các doanh nghiệp
Nhà nước vẫn được ưu ái hơn so với khối doanh nghiệp dân doanh về tiếp cận các
nguồn lực trong xã hội.
Năm 2004, Luận án tiến sỹ Luật học "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện
pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam" của tác giả Đồng Ngọc Ba, Trường Đại học
Luật Hà Nội, đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về các loại
hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Tuy không trực tiếp đề cập đến, nhưng các

2


giải pháp mà tác giả đưa ra trong luận án là góp phần để các doanh nghiệp đều được
tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật.
Năm 2004, 2005, để phục vụ cho việc soạn thảo Dự án Luật Doanh nghiệp

(thống nhất) và Luật Đầu tư (chung), với sự chủ trì của Ban nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ, Ban pháp chế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã
tiến hành đề tài: Nghiên cứu, rà soát các văn bản pháp luật về thành lập, tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp. Đề tài cũng đã nêu ra những quy định khác biệt trong
tổ chức, thành lập của doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Thanh Bình có bài: "Bình đẳng và pháp luật" đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 12/2004, trong đó đề cập đến quyền bình đẳng
của con người nói chung, mối quan hệ giữa bình đẳng - công bằng trong pháp luật...
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống về việc bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh
nghiệp dưới góc độ pháp lý và vấn đề hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình
đẳng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta hiện nay. Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về pháp luật
bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp. Đó là một thuận lợi nhưng cũng là một
khó khăn cho tác giả trong quá trình nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của luận văn: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật
về bảo đảm quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở
đó làm rõ những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng của các
doanh nghiệp, từ đó đưa ra nhũng giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
bình đẳng cho các doanh nghiệp ở nước ta.
- Phù hợp với mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
+ Xác định nội dung của quyền bình đẳng của các doanh nghiệp.

3


+ Đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo đảm quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại, bất cập.

+ Đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
bình đẳng của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Quyền bình đẳng của các doanh nghiệp là một vấn đề lớn, phức tạp liên quan
đến nhiều lĩnh vực như chính trị ,kinh tế, xã hội. Có rất nhiều vấn đề về lý luận và
thực tiễn cần được giải quyết liên quan đến việc bảo đảm quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Trong phạm vi nghiên cứu có hạn của mình, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành bảo đảm quyền bình
đẳng của các doanh nghiệp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận chung về Nhà nước
pháp luật, bám sát những chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách phát triển đất nước, phát triển kinh tế, quan điểm về hội nhập quốc tế và
khu vực gắn với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin, theo quan điểm lịch sử - cụ thể, có phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết
những vấn đề mà đề tài tiếp cận.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Là công trình chuyên khảo về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp dưới góc
độ pháp luật, luận văn góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
một lĩnh vực điều chỉnh pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật hiện hành;
- Luận văn đã phân tích một cách có hệ thống và làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận về quyền bình đẳng của doanh nghiệp và pháp luật bảo đảm quyền bình
đẳng của các doanh nghiệp.
- Trình bày và đánh giá một cách cơ bản thực trạng pháp luật bảo đảm quyền
bình đẳng của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay;

4


- Xác định những bước đi đúng hướng trong việc hoàn thiện pháp luật bảo
đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng trong phát triển kinh tế
và tiếp nhận những quy định của cộng đồng quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Thông qua việc làm rõ hiện trạng của pháp luật về bảo đảm quyền bình
đẳng của các doanh nghiệp, luận văn góp phần xác định nhu cầu thục tiễn của việc
hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay.
- Khẳng định, củng cố nhận thức về vai trò của pháp luật về quyền bình đẳng
của các doanh nghiệp trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế khu vực cũng như thế giới.
- Luận văn còn có giá trị phổ biến các quy định bảo đảm quyền bình đẳng
của các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu và quy định pháp luật về
quyền bình đẳng của các doanh nghiệp một cách có hệ thống, góp phần trang bị
những kiến thức cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương,

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN
BÌNH ĐẲNG CHO DOANH NGHIỆP
1.1 Khái quát về quyền bình đẳng của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
Quyền bình đẳng của các doanh nghiệp có liên quan chặt chẽ với quan niệm
về bình đẳng và quyền bình đẳng nói chung. Do vậy, để hiểu rõ về quyền bình đẳng
của các doanh nghiệp, trước hết chúng ta phải tìm hiểu lý thuyết về quyền bình

đẳng của con người nói chung.
1.1.1.1. Lý thuyết về quyền bình đẳng
Lý thuyết về quyền bình đẳng là một phần không tách rời của lý thuyết về
quyền con người. Đó luôn là mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời đại lịch sử,
gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội nhằm giải phóng con
người. Nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý sẽ giúp chúng ta hiểu
rõ vấn đề này.
Ngay từ thời cổ địa, Arixtốt - một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của
thời cổ đại, đã đề cập đến vấn đề "quyền con người" trong đó có quyền bình đẳng.
"Tổng thể pháp luật tạo thành công lý chính trị hay pháp luật chỉ tồn tại trong các
mối quan hệ giữa những người tự do và bình đẳng (theo nghĩa bình đẳng tuyệt đối
với nhau). Song Arixtốt hoàn toàn không đòi hỏi phải có sự bình đẳng về chính trị
của tất cả các công dân" [38, tr.40].
Còn với các tác phẩm "Biên niên thần thánh" của Ephemec và "Nhà nước
mặt trời" của Yambun vào thế kỷ II TCN, các tác giả đã ước mơ xây dựng các quốc
gia lý tưởng tồn tại trong tương lai, ở đó không có tình trạng nô lệ, không có bóc lột
và áp bức, không có sở hữu tư nhân, con người tự do, bình đẳng.

6


Trong các tư tưởng chính trị - pháp lý của thời đại phục hưng, mà người đi
đầu là Nicôlô Machiavelli (1469 - 1527), người Ý. Ông ủng hộ hình thức Nhà nước
cộng hòa xuất phát từ cách nhìn nhận ưu ái của ông đối với những giá trị tự do và
bình đẳng. Ông nói "ở đâu sự bình đẳng ngự trị thì ở đó không thể xí nghiệp nền
quân chủ" và "nhân dân bao giờ cũng cao hơn vị quân vương". Ông đánh giá cao
những giá trị tự do, bình đẳng.
Đến thời kỳ cải cách tôn giáo và phong trào chống chuyên chế, các nhà tư
tưởng không tưởng đã vạch ra con đường đi đến tự do và bình đẳng thực sự bằng
một thiết chế thực sự dân chủ. Campanela muốn xây dựng Nhà nước trên cơ sở của

lý trí, nơi mà người đứng đầu Nhà nước tỏ ra thông thái và am hiểu mọi vấn đề để
trên cơ sở ông ta sẽ mang lại "hơi ấm tự do và bình đẳng" cho tất cả.
Mặc dù được đề cập đến từ rất sớm trong lịch sử các học thuyết chính trị
pháp lý nhưng ở các thời kỳ trước, quyền bình đẳng cũng như quyền tự do của con
người mới được đề cập đến một cách mờ nhạt. Phải đến thời kỳ cách mạng tư sản ở
Tây Âu, với sự ra đời và phát triển của học thuyết "pháp luật tự nhiên", quyền bình
đẳng của con người đã được đề cập đến một cách đầy đủ, rõ ràng và toàn diện hơn.
Theo John Locke (1632 - 1704), trong "trạng thái tự nhiên" con người có các
quyền tự do, bình đẳng và tư hữu. Các quyền này bắt nguồn từ bản chất muôn đời và
bất biến của con người và bởi vậy, không ai có thể làm thay đổi được chúng. Các
quyền tư hữu, tự do và bình đẳng là các quyền tự nhiên không thể bị tước bỏ. Học
thuyết chính trị của Locke có ảnh hưởng đến sự phát triển sau này của hệ chính trị tư
sản, đặc biệt phổ biến là học thuyết về "quyền tự nhiên không thể bị tước bỏ của con
người" đã được Giepphêcxơn và các nhà lý luận cách mạng Mỹ khác sử dụng và sau
đó được đưa vào "tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp năm 1789.
Theo Vontaire (1694 - 1778), một nhà triết học - người đi đầu trong đội tiên
phong các nhà khai sáng, ông đã trở thành sứ giả của những nhà tư tưởng về bình
đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Ông đòi dân chủ nhưng lại cho rằng bất
bình đẳng là một qui luật.

7


Còn theo Jean Jacques Rousseou (Rútxô) (1712 - 1788) - một nhà tư tưởng
vĩ đại, nhà biện chứng lỗi lạc của triết học sai sáng, ông cho rằng: trong trạng thái tự
nhiên, mọi người đều tự do và bình đẳng. Theo ông: "Công ước cơ bản (facte
fondamental) không phá bỏ sự bình đẳng tự nhiên, nó xây dựng sự bình đẳng tinh
thần và hợp pháp để thay thế cái mà thiên nhiên đã làm cho con người không bình
đẳng về thể lực. Trên phương diện khế ước và pháp quyền, con người tuy không
đồng đều nhau về thân thể và trí tuệ vẫn được hoàn toàn bình đẳng ngang nhau"

[21, tr.78].
Xuất phát từ những tư tưởng và nhận thức đó, quyền bình đẳng đã được ghi
nhận trong một loạt các văn bản pháp lý quan trọng của loài người:
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) khẳng định: Mọi người sinh ra đều
bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu
hạnh phúc.
Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 10/12/1948, ngay tại Điều 1 đã nêu: "Mọi người sinh ra đều tự do
và bình đẳng về phẩm giá và các quyền" [35, tr.9].
Điều 7 của Tuyên ngôn nêu rõ về quyền bình đẳng trước pháp luật: "Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ không có bất kỳ sự
phân biệt nào".
Tiếp đó trong các Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, quyền bình đẳng trước pháp
luật không phân biệt đối xử đều được khẳng định.
Tuy được nhiều nhà tư tưởng đề cập tới nhưng một khái niệm đầy đủ, thống
nhất về bình đẳng và quyền bình đẳng chưa được đưa ra:
- Theo Đại từ điển tiếng Việt, Bình đẳng là ngang nhau về nghĩa vụ và quyền
lợi [58, tr.169].

8


- Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Bình đẳng là được đối xử như nhau về
các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa... không phân biệt thành phần và địa vị xã hội,
trong đó trước tiên và cơ bản nhất là bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng đã được
quan niệm và thực hiện một cách khác nhau qua các thời kỳ lịch sử với các chế độ
chính trị xã hội khác nhau. Thủ tiêu các đặc quyền đặt lợi phong kiến, xác lập sự
bình đẳng của mọi người trước pháp luật là một tiến bộ của cuộc cách mạng dân

chủ tư sản. Song sự bình đẳng đó không thể triệt để trong một xã hội có sự cách biệt
lớn giữa người giàu và người nghèo, người áp bức bóc lột và người bị áp bức bóc
lột. Sự bình đẳng toàn diện và triệt để chỉ có thể thực hiện khi nào xóa bỏ được tình
trạng không bình đẳng trong quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, xóa bỏ được
cơ sở của sự bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi trong
xã hội [51, tr.232].
- Trong bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, bằng việc nhắc lại những quyền đã được Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
(1776) khẳng định, một lần nữa bình đẳng được xác định là quyền con người:
"Những sự thật sau đây là hiển nhiên, rằng tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Như vậy, "Bình đẳng giữa mọi người là một thuộc tính tự nhiên của con
người. Bởi vì, tất cả mọi người đều có năng lực hiểu được những quyền và nghĩa vụ
của mình; có năng lực như nhau về khoái cảm và đau khổ; có phẩm giá như nhau vì
họ đều là những thực thế đạo đức, có khả năng sử dụng lý trí của mình để đề ra và
noi theo các chuẩn mực đạo đức và mọi người đều phải được coi như mục đích tự
thân mà không phải như phương tiện, nên mọi người đều bình đẳng" [6, tr.15].
1.1.1.2.Khái niệm, đặc điểm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp
Xuất phát từ quyền bình đẳng của con người chúng ta đi đến một phạm trù
rộng hơn là bình đẳng xã hội. "Quyền bình đẳng không được chỉ có tính chất bề
ngoài, chỉ được áp dụng trong lĩnh vực Nhà nước, mà phải là quyền bình đẳng thực
sự được áp dụng cả trong lĩnh vực kinh tế và xã hội nữa" [36, tr.153].

9


Theo tác giả Nguyễn Thanh Bình: Bình đẳng xã hội là bình đẳng về cơ
may ban đầu (những điều kiện xã hội bình đẳng giống nhau cho mọi người khi
họ bước vào đời sống xã hội) chứ không nên hiểu là phân phối của cải xã hội ở

những mức giống nhau (là "bình đẳng về phân phối" rất gần gũi với chủ nghĩa
bình quân) [6, tr.15].
Với bản chất là tổ chức kinh tế có chức năng kinh doanh, doanh nghiệp luôn
tồn tại trong tổng thể các mối quan hệ. Các quan hệ của doanh nghiệp có thể là giữa
các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước,
giữa doanh nghiệp với các đối tác, với người lao động...Quá trình diễn ra các quan
hệ đó, doanh nghiệp có thể nhận được những ứng xử khác nhau từ phía Nhà nước,
các đối tác. Để doanh nghiệp tồn tại, phát triển, cạnh tranh thì một yêu cầu quan
trọng thiết yếu là phải bảo đảm sự bình đẳng cho các doanh nghiệp. Bình đẳng giữa
các doanh nghiệp được hình thành khách quan từ xã hội mang ý nghĩa tích cực, phù
hợp với những giá trị tiến bộ của xã hội. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính
khổng lồ có thể có nhiều sự lựa chọn về đầu tư, nhưng không thể mua sự thuận lợi
cho mình hơn các doanh nghiệp khác bằng việc dùng tiền để làm quà biếu cho các
cơ quan công quyền để rút ngắn thủ tục hành chính hay để hưởng lợi. Về mặt nội
dung quyền bình đẳng doanh nghiệp không đồng nghĩa với việc mọi doanh đều có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau, bằng nhau trong mọi trường hợp mà doanh nghiệp
sẽ được đối xử như nhau trong những điều kiện giống nhau.
Do đó, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp ở đây được hiểu là bình đẳng
trước pháp luật, là phải thực hiện những nghĩa vụ và được hưởng những quyền lợi
như nhau theo quy định của pháp luật.
Quyền bình đẳng của các doanh nghiệp được hiểu là doanh nghiệp được
hưởng những quyền và phải gánh chịu những nghĩa vụ như nhau trong những điều
kiện như nhau.
Giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật Hà Nội quan niệm: Quyền
bình đẳng trước pháp luật được hiểu là các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành

10


phần kinh tế khi tham gia vào các quan hệ pháp luật đều có quyền và nghĩa vụ như

nhau [54, tr.161].
Cho đến nay, mặc dù quyền bình đẳng của các doanh nghiệp đã được đề cập
khá nhiều trong các bài viết, tài liệu nghiên cứu, trên các phương tiện thông tin đại
chúng và một môi trường kinh doanh bình đẳng đã và đang là mong muốn của các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư và của toàn xã hội. Nhưng trên thực tế, trong giới nghiên
cứu khoa học, các luật gia, luật sư, các nhà quản lý, các nhà kinh doanh còn có những
cách hiểu khác nhau về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trước pháp luật:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khi nói các doanh nghiệp bình đẳng trước
pháp luật có nghĩa là nếu đã là doanh nghiệp, không phân biệt đó là loại hình doanh
nghiệp nào: DNNN, Công ty, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thì đều được hưởng những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ như
nhau, không có sự khác biệt nào.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Trong nền kinh tế thị trường, với sự tồn tại
nhất quán, lâu dài của các thành phần kinh tế, cần thiết phải bảo đảm sự bình đẳng
giữa các doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp có thể cạnh tranh trong một môi
trường thuận lợi, thông thoáng, các doanh nghiệp đều có cơ hội tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, bình đẳng trước pháp luật ở đây phải được hiểu là: Đối với các doanh
nghiệp, nếu có chung một điều kiện, hoàn cảnh như nhau thì sẽ được hưởng những
quyền lợi và phải thực hiện những nghĩa vụ như nhau. Sự bình đẳng ở đây không
phải là thứ bình đẳng tuyệt đối, tất cả đều thống nhất, không có sự khác biệt mà là
một sự bình đẳng tương đối để có thể đạt đến một sự công bằng nhất định.
Theo chúng tôi, bình đẳng là mọi doanh nghiệp được hưởng những khả năng,
điều kiện và cơ hội như nhau, phải ngang quyền với nhau trong quan hệ với nhau.
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam: "Bình
đẳng không có nghĩa là cào bằng. Với những đặc trưng riêng, mỗi loại doanh nghiệp
có thể được điều chỉnh bởi những quy định khác nhau (quy định phân biệt đối xử)"
[5, tr.3].

11



Tóm lại, từ quan niệm về quyền bình đẳng nói chug, cho phép chúng ta
khẳng định: quyền bình đẳng của các doanh nghiệp là phạm trù pháp lý. Dưới góc
độ này, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa chủ quan và
nghĩa khách quan.
+ Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chủ thể: quyền
bình đẳng của các doanh nghiệp được hiểu là khả năng của các doanh nghiệp được
hưởng những điều kiện và cơ hội như nhau, ngang quyền trong quan hệ với nhau,
không có sự phân biệt đối xử nào.
Những khả năng xử sự này là thuộc tính tự nhiên của doanh nghiệp chứ
không phải do Nhà nước ban tặng, song những khả năng xử sự đó muốn trở thành
hiện thực thì phải được Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó mới trở
thành thực quyền.
+ Theo nghĩa khách quan hoặc được xem xét dưới góc độ là một chế định
pháp luật, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp là hệ thống các quy phạm pháp luật
và những bảo đảm pháp lý do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thực hiện quyền chủ thể nói trên. Với quan niệm đó, quyền bình đẳng của các
doanh nghiệp một mặt bao gồm những quyền mà họ được hưởng, mặt khác đó là
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước khi thực hiện chức năng
quản lý của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền này của doanh nghiệp. Hai mặt
này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý về quyền bình đẳng của doanh nghiệp.
Nếu chỉ thừa nhận những quyền chủ thể mà không đảm bảo cho nó những điều kiện
để thực hiện thì quyền bình đẳng chỉ mang tính hình thức mà thôi.
Tóm lại, quan niệm về quyền bình đẳng của các doanh nghiệp phải được
nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện trên những khía cạnh cơ bản sau:
Một là, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp là một phần hợp thành và đóng
vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền bình đẳng của các thực thể trong xã hội.
Như vậy, quyền bình đẳng phải được xem như một giá trị tự thân, của doanh nghiệp
mà Nhà nước phải thừa nhận và bảo vệ chứ không phải là sự ban phát, trao tặng.


12


Hai là, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp có trở thành hiên thực và phát
huy tác dụng trong thực tiễn hay không, tùy thuộc vào việc Nhà nước có đáp ứng
được những đòi hỏi mà quyền bình đẳng của các doanh nghiệp đặt ra để kịp thời thể
chế hóa và bảo vệ bằng pháp luật.
Ba là, quyền bình đẳng của các doanh nghiệp tồn tại như một nhu cầu tất yếu
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng
tới nếu như muốn thực hiện địa vị hợp pháp, tính nhân văn tiến bộ trong quá trình
thực hiện quyền thống trị của mình.
Từ những luận giải về quyền bình đẳng doanh nghiệp như trên, có thể rút ra những
đặc trưng cơ bản về quyền bình đẳng doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, quyền bình đẳng của doanh nghiệp phải được đặt trong một quan
hệ cụ thể .
Như đã phân tích, doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh nó tồn tại và phát
triển trong tổng hòa các quan hệ với nhiều hoạt động khác nhau từ khi gia nhập thị
trường, đến việc ký kết các hợp đồng,hay việc giải quyết tranh chấp hoặc rút lui
khỏi thị trường...Để xác định mức độ bình đẳng cần phải gắn các hoạt động đó vào
một quan hệ cụ thể như: bình đẳng trong đăng ký kinh doanh, bình đẳng trọng việc
ký kết hợp đồng , bình đẳng trong việc giải quyết tranh chấp...Bình đẳng doanh
nghiệp không đồng nghĩa với việc mọi doanh nghiệp đều có quyền và nghĩa vụ
bằng nhau trong mọi trường hợp mà doanh nghiệp chỉ được đối xử như nhau trong
những điều kiện giống nhau nghĩa là phải đặt trong một quan hệ cụ thể. Không thể
có quyền bình đẳng chung chung trừu tượng.
Thứ hai,quyền bình đẳng của doanh nghiệp được pháp luật ghi nhận, bảo đảm.
Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh cũng đồng thời là chủ thể của các quan
hệ pháp luật. Khi tham gia các quan hệ, các chủ thể được pháp luật ghi nhận và đảm
bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Điều đó có nghĩa là quyền bình đẳng không
do doanh nghiệp tạo ra mà phải do Nhà nước thông qua pháp luật để quy định và

bảo đảm thì mới có giá trị thực tiễn và mang tính xã hội.
13


Thứ ba, quyền bình đẳng của doanh nghiệp mang tính toàn diện.
Doanh nghiệp tồn tại như là một thực thể xã hội, quyền bình đẳng doanh
nghiệp vì thế phải được đặt ra trong suốt đời sống của doanh nghiệp từ khi đăng ký
doanh nghiệp đến khi đi vào hoạt động và ngay cả khi rút lui khỏi thị trường ( giải
thể, phá sản). Quyền bình đẳng của doanh nghiệp luôn tồn tại mọi lúc, mọi nơi
trong không gian và thời gian. Điều đó có nghĩa quyền bình đẳng của doanh nghiệp
phải mang tính toàn diện. Không thể nói quyền bình đẳng của doanh nghiệp ở một
số lĩnh vực nào mà phải trong mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi trong mọi quan hệ.
Không thể bình đẳng ở địa phương này còn ở địa phương khác thì không, trong
quan hệ này thì bình đẳng trong quan hệ khác thì không.
Từ góc độ nghiên cứu cũng như từ thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp có thể khái quát nội dung cơ bản của quyền bình đẳng giữa các
doanh nghiệp bao gồm:
- Bình đẳng trong quá trình thành lập, đăng ký doanh nghiệp (gia nhập
thị trường)
- Bình đẳng trong việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản
- Bình đẳng trong quan hệ hợp đồng
- Bình đẳng trong cạnh tranh
- Bình đẳng trong việc thực hiện các nghĩa vụ thuế
- Bình đẳng trong việc giải quyết tranh chấp
- Bình đẳng trong việc giải quyết khi doanh nghiệp giải thể hoặc phá sản ( rút
lui khỏi thị trường)
Các quyền trên có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất tạo thành quyền bình
đẳng doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, ở bất kỳ mối quan hệ nào vấn đề
bình đẳng phải luôn được đảm bảo.


14


1.1.2 Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp
Thực hiện và bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp là điều kiện đẻ
doanh nghiệp tồn tại, phát triển đúng với quy luật của kinh tế thị trường. Ý nghĩa đó
được biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, thực hiện quyền bình đẳng doanh nghiệp là điều kiện quan trọng
hình thành môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các điều kiện khách quan
và chủ quan, bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, có mối quan hệ tương tác lẫn
nhau, ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường bên ngoài là tổng thể
các quan hệ kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội, các nguồn lực ( đất đai, tài
nguyên...) Các yếu tố này ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Thực
hiện quyền bình đẳng cho doanh nghiệp nghĩa là trong những điều kiện giống nhau,
doanh nghiệp sẽ được đối xử như nhau trọng việc tiếp cận các nguồn lực từ phía
Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm quyền
bình đẳng cho doanh nghiệp. Nhà nước vừa là người hoạch định chính sách, ban
hành pháp luật vừa là người tổ chức thực thi chính sách và bảo vệ pháp luật, phân
phối các nguồn lực trong xã hội. Để thực hiện quyền bình đẳng cho doanh nghiệp,
nhà nước phải xác lập và bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp, thiết lập cách
ứng xử khi các chủ thể tác động vào doanh nghiệp. Có như vậy mới hình thành
được môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nếu thiếu sự bình đẳng cũng sẽ không có
môi trường cạnh tranh theo đúng bản chất vốn có của kinh tế thị trường. Các giá trị
của sự bình đẳng được xây dựng trên nền tảng chính trị, kinh tế, pháp luật một cách
minh bạch , khách quan sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển làm cho môi trường
kinh doanh trong sạch, lành mạnh và phát triển. Ở đâu không có sự bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thì ở đó cũng sẽ không có môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Thứ hai, bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp sẽ thúc đẩy nền kinh tế
của đất nước phát triển. Với thuộc tính tự nhiên, bản thân các doanh nghiệp trong

quá trình kinh doanh luôn có xu hướng tạo ra sự bất bình đẳng để chèn ép nhau

15


nhằm tạo lợi thế cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Có rất nhiều hành vi của
doanh nghiệp tạo ra sự bất bình đẳng, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khác như thỏa
thuận, chèn ép, lợi dụng sức mạnh tài chính dể chèn ép, áp đặt các điều kiện khi ký
kết hợp đồng...Chính điều đó đã làm méo mó môi trường kinh doanh, làm sai lệch
những chuẩn mực kinh doanh từ đó kìm hãm cạnh tranh làm cho nền kinh tế nói
chung khó phát triển. Vì vậy thiết lập và bảo đảm quyền bình đẳng cho các doanh
nghiệp chính là tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, cho phép các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, dù quy mô kinh doanh lớn hay nhỏ, kinh
doanh ở nghành nghề nào đều có cơ hội phát triển. Điều đó tạo ra những khả năng
và điều kiện để các doanh nghiệp kinh doanh ổn định, lấu dài, đồng thời cũng tạo ra
động lực để các doanh nghiệp cạnh tranh, phát triển cũng có nghĩa là làm cho nền
kinh tế nói chung của đất nước phát triển.
Thứ ba, bảo đảm quyền bình đẳng cho doanh nghiệp là điều kiện để doanh
nghiệp tồn tại và phát triển. Trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng
khốc liệt. Để tồn tại và phát triển bên cạnh yếu tố chủ quan là doanh nghiệp phải có
chiến lược kinh doanh tốt, có tiềm lực tài chính, có năng lực quản trị kinh doanh
khoa học, hiệu quả... Thì một yếu tố khách quan hết sức quan trọng là phải có một
sân chơi thật sự bình đẳng. Sân chơi đó trước hết phải do Nhà nước thông qua pháp
luật để kiến tạo nhăm bảo đảm sự bình đẳng cho các doanh nghiệp. Nếu thiếu sự
bình đẳng thì các doanh nghiệp dù có nỗ lực đến đâu thì cũng khó tồn tại và phát
triển. Thực tế đã chứng minh rất nhiều doanh nghiệp vì bị phân biệt đối xử trong
việc tiếp cận các nguồn lực như: đất đai, tài chính...đã phải rút lui khỏi thị trường
hoặc phải chuyển hướng kinh doanh. Hoặc một số doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh thua lỗ nhưng được nhà nước bao cấp nên vẫn tồn tại gây tốn kém cho xã hội
và làm sai lệch các chuẩn mực trong kinh doanh.Có thể khẳng định rằng bình đẳng

là điều kiện khách quan để tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh là mảnh đất tốt
đẻ các doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Đồng thời đánh giá đúng năng lực thực sự
trong kinh doanh của doanh nghiệp.

16


1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc xác lập và bảo đảm quyền bình đẳng của
các doanh nghiệp
Qua nghiên cứu ở mức khái quát, chúng tôi nhận thấy, quyền bình đẳng của
con người nói chung và quyền bình đẳng của các doanh nghiệp nói riêng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Dưới đây là những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc xác lập và
bảo đảm quyền bình đẳng của các doanh nghiệp.
Thứ nhất, cơ chế quản lý kinh tế:
Cơ chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ phương thức mà qua đó Nhà
nước tác động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động đến các mục
tiêu đã định [14, tr.29]. Khái niệm trên cho thấy: Cơ chế kinh tế và phương thức vận
động của nền kinh tế, nó mang tính khách quan; Cơ chế quản lý kinh tế là phương
thức tác động của Nhà nước, do đó, nó mang tính chủ quan; Nhà nước tác động vào
nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không trực tiếp tác động vào nền kinh tế.
Quan niệm như vậy đưa đến nhận thức chung là mỗi nền kinh tế đều có một
cơ chế đặc trưng của nó. Dựa vào đó, người ta phân loại các nền kinh tế thành: (i)
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường, (ii) Kinh tế chỉ huy, vận hành
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung; (iii) Kinh tế hỗn hợp vận hành theo cơ chế thị
trường có sự can thiệp của Nhà nước.
Trong nền kinh tế chỉ huy, vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung với
một loại hình doanh nghiệp duy nhất, doanh nghiệp Nhà nước, việc sản xuất cái gì,
sản xuất bao nhiêu, sản xuất cho ai... tất cả đều do Nhà nước quyết định. Tất yếu
vấn đề bình đẳng không hề được đặt ra.
Chỉ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế giữa các nhà

kinh doanh đều thông qua quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Thái
độ cư xử của từng nhà kinh doanh là theo sự dẫn dắt của thị trường hay "Bàn tay vô
hình" (Adam Smith). Vì vậy, cơ chế thị trường luôn gắn liền với tự do, bình đẳng và
bình đẳng là nguyên tắc của cơ chế thị trường.

17


Cơ chế thị trường có những ưu điểm và khuyết tật của nó, cho nên ngày nay
hầu hết các quốc gia đều đề cao vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Sự tác động
của Nhà nước là nhằm hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường, nghĩa là cơ
chế thị trường có sự can thiệp, quản lý của Nhà nước (kinh tế hỗn hợp).
Nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây theo mô hình kinh tế
chỉ huy. Do đó, vấn đề chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa là: kế
hoạch tập trung được coi là công cụ số một có tính pháp lệnh bắt buộc đối với toàn
xã hội. Các công cụ khác đều được xếp sau công cụ kế hoạch. Thông qua công cụ
này, Nhà nước trực tiếp can thiệp và quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, tất yếu
dẫn đến hậu quả là các quyền của công dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh
không được coi trọng và tất nhiêu không có khái niệm "quyền bình đẳng" của các
doanh nghiệp.
Với đường lối đổi mới, mà trước hết là đổi mới kinh tế do Đảng đề ra, đất
nước ta đã có những biến đổi hết sức to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Quyền bình đẳng của các doanh nghiệp, của các thành phần kinh tế đã chính thức
được thừa nhận. Điều 3 Luật Doanh nghiệp tư nhân (1990) quy định: Nhà nước
công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự
bình đẳng trước pháp luật của doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác và
tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh". Tương tự như vậy, Điều 4 Luật Công
ty (1990) quy định: "Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của Công

ty; thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật của Công ty với các doanh nghiệp khác
và tính sinh lợi hợp pháp của việc kinh doanh". Với Hiến pháp (2013), quyền bình
đẳng của các doanh nghiệp đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Điều 51 HIến
pháp (2013) quy định: "Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Điều 5 Luật doanh nghiệp 2014 quy định; “ Nhà

18


×