Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.39 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU
HẠN MỘT THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ LÂM

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM

TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ LÂM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tác giả Luận văn “Pháp luật về Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên ở Việt Nam”, xin cam đoan:
-

Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả

-

Luận văn được thwcjhieenj độc lập dưới sự hướng dẫn của TS.
Nguyễn Am Hiểu.

-

Những thông tin, số liệu được trích dẫn trong luận văn đầy đủ, trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng.

-

Các kết luận khoa học trong luận văn chưa từng được công bố trong
các luận văn khác.

Xác nhận của GVHD

TS. Nguyễn Am Hiểu

Tác giả Luận văn


Nguyễn Thị Lâm


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Đào tạo Sau Đại học Viện đại học Mở Hà Nội
và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Am Hiểu, tôi đã thực hiện đề tài
“Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam”.
Để hoàn thành khóa luận này. Trước hết với tình cảm chân thành và lòng biết
ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Viện Đại học Mở Hà
Nội; các thầy, cô giáo Khoa sau Đại học chuyên ngành Luật kinh tế Viện Đại học
Mở Hà Nội; các thầy, cô giáo các Bộ môn giảng dạy đã tận tình hướng dẫn, giảng
dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài
Luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo hướng dẫn TS.
Nguyễn Am Hiểu đã dành nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hướng dẫn tận tình,
chỉ bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu
đề tài và hoàn chỉnh Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tập thể Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Ninh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình đã tạo mọi điều kiện tốt nhất cho
tôi được tham gia học tập lớp cao học Luật kinh tế do Viện đại học Mở Hà Nội tổ
chức đào tạo.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ, sẻ chia, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong
cuộc sống cũng như trong quá trình học tập, nghiên cứu!
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu và phân tích Luật để thực hiện đề tài
một cách hoàn chỉnh nhất. Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu
khoa học cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên chắc chắn đề tài của
Luận văn này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân tôi chưa
thấy được. Tôi rất mong sự đóng góp của quý Thầy, Cô giáo và các bạn để cho đề

tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Lâm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT
THÀNH VIÊN ........................................................................................................ 7
1.1. Lịch sử hình thành công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam .................... 7
1.2. Khái niệm công ty TNHH một thành viên .................................................... 9
1.2.1. Khái niệm chung về công ty: ................................................................. 9
1.2.2. Khái niệm chung về công ty TNHH: .................................................... 10
1.2.3. Khái niệm công ty TNHH một thành viên:........................................... 13
1.3. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên ............................................. 17
1.3.1. Về thành viên: ..................................................................................... 17
1.3.2. Về tư cách pháp lý: .............................................................................. 17
1.3.3. Về chế độ chịu trách nhiệm:................................................................. 19
1.3.4. Về chuyển nhượng vốn: ....................................................................... 20
1.4. Ưu điểm, hạn chế của loại hình doanh nghiệp này ...................................... 21
1.4.1. Ưu điểm:.............................................................................................. 21
1.4.2. Hạn chế: .............................................................................................. 21
1.5. Vai trò của công ty TNHH một thành viên ................................................. 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................... 24
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM .................................................. 25
2.1. Thành lập công ty TNHH một thành viên .................................................... 25
2.2. Đăng ký kinh doanh: ................................................................................... 29

2.3. Tổ chức lại công ty TNHH một thành viên .................................................. 37
2.4. Giải thể công ty TNHH một thành viên ....................................................... 43
2.5. Tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên .......................................... 48
2.5.1. Tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên là một tổ chức .............. 48
2.6. Tài chính và vốn của công ty TNHH một thành viên .................................. 56
2.6.1. Vốn điều lệ của công ty TNHH một thành viên.................................... 56
2.6.2. Huy động, quản lý, sử dụng vốn .......................................................... 63


2.7. Quyền và nghĩa vụ của công ty, chủ sở hữu công ty TNHH một thành
viên 65
2.7.1. Quyền của công ty TNHH một thành viên ........................................... 65
2.7.2. Quyền của chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên ......................... 66
2.7.3. Thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty trong một số trường hợp đặc
biệt:

............................................................................................................ 68

2.7.4. Nghĩa vụ của công ty TNHH một thành viên ....................................... 69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................... 71
CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ...................................................................................................................... 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật công ty TNHH một thành viên. .............. 72
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên phải phù hợp
với sự phát triển của nền kinh tế ..................................................................... 72
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên phải đảm bảo
mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước phápluật ............................................ 73
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên tôn trên cơ sở
bảo vệ và phát huy quyền tự do kinh doanh.................................................... 73

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên phải phù hợp
với yêu cầu hội nhập kinh tế .......................................................................... 73
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành
viên ................................................................................................................... 74
3.2.1. Một số giải pháp chung :....................................................................... 74
3.2.2. Giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành
viên. ............................................................................................................ 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................... 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 83


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
ĐKKD: Đăng ký kinh doanh
ĐKDN: Đăng ký doanh nghiệp
CSH: Chủ sở hữu
HĐTV: Hội đồng thành viên
GĐ/TGĐ: Giám đôc/ Tổng giám đốc
TTQGVĐKDN: Thông tin Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Công ty TNHH là một loại hình doanh nghiệp được nhiều nhà đầu tư trong
và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Từ khi ra đời đến nay loại hình công ty TNHH đã
chiếm vị trí quan trọng và góp phần rất lớn trong sự phát triển kinh tế đất nước.
Ngày 21/12/1990, Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư
nhân, đã khẳng định sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhận mới được Chỉnh phủ

thừa nhận. Đây là một bước nhảy có vị trí đặc biệt quan trọng mở đầu cho quá trình
đổi mới nền kinh tế quốc dân và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nội dung mới của luật Công ty (1990) là
lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam ghi nhận một loại hình doanh nghiệp
mới: Công ty TNHH. Tuy vậy, theo thời gian nhiều nội dung của hai đạo luật đó đã
tỏ ra bất cập, không còn đáp ứng nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp giai đoạn mới.
Ngày 12/6/1999 Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua. Một trong
những nội dung mới của đạo luật này là lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt
Nam ghi nhận một loại hình doanh nghiệp mới, công ty TNHH một thành viên. Loại
hình doanh nghiệp này ra đời đã đáp ứng lại sự kỳ vọng của các nhà kinh doanh cũng
như các nhà nghiên cứu luật…, đó là yêu cầu cấp thiết trong thực tiễn hoạt động kinh
doanh. Sau nhiều năm triển khai thực hiện công ty TNHH một thành viên cùng với
các loại hình doanh nghiệp khác quy định trong Luật doanh nghiệp (1999) đã góp
phần to lớn trong công cuộc giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy nội lực phục vụ
sự nghiệp phát triển kinh tế Đất nước, đẩy nhanh thời ky đổi mới từ cơ chế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên Luật doanh nghiệp (1999) vẫn còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình
doanh nghiệp trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước tình hình đó, ngày 29/11/2005 Luật doanh nghiệp (2005) đã được Quốc
1


hội ban hành và có hiệu lực ngày 01/7/2006. Luật doanh nghiệp (2005) có nhiều nội
dung đổi mới mà trong đó đáng chú ý nhất là loại hình công ty TNHH một thành viên
là cá nhân đã cải thiện một bước to lớn môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Cải cách
một bước quan trọng thủ tục hành chính, giúp doanh nghiệp yên tâm hơn trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên sau nhiều năm áp dụng, Luật doanh nghiệp
(2005) đã bộc lộ những bất cập, trong đó những quy định về công ty TNHH một số
quy định chưa rõ ràng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế còn nhiều vướng

mắc, có những vấn đề phát sinh trong thực tiễn chưa được pháp luật điều chỉnh cũng
gây khó khăn cho các chủ thể khi điều hành hoạt động công ty TNHH.
Nhằm tiếp tục tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, phù hợp với xu
hướng hội nhập chung của thế giới vào Việt Nam ta. Ngày 26/11/2014 Luật doanh
nghiệp (2014) đã được Quốc hội ban hành có hiệu lực đã cải thiện một bước to lớn
môi trường kinh doanh ở Việt Nam, tạo ra lộ trình thông thoáng thúc đẩy nhiều công
ty, doanh nghiệp được thành lập trong nước, đồng thời giúp doanh nghiệp yên tâm
hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mặc dù quy định của pháp luật về Công ty
TNHH được ghi nhận trong Luật doanh nghiệp (2014) đã có những điểm đổi mới
song những quy định này cũng còn một số hạn chế cần được sửa đổi và hoàn thiện
hơn để phát huy thế mạnh của loại hình công ty TNHH.
Sự xuất hiện của các loại hình doanh nghiệp công ty TNHH nói riêng và tất cả
các loại hình doanh nghiệp nói chung đã mang lại những mục tiêu kinh doanh cao
nhất, góp phần đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế phát
triển trên thế giới và trong khu vực là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa rất lớn đối với
Việt Nam ta trong việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo cho
doanh nghiệp Việt Nam, nhất là loại hình công ty TNHH một thành viên, tạo điều
kiện thúc đẩy nó phát huy được các lợi thế, cạnh tranh lành mạnh với các doanh
nghiệp trong nước, đồng thời tạo ra sự hài hoà giữa pháp luật quốc gia với pháp luật
các nước trên thế giới.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên ở Việt Nam” làm Luận văn thạc sĩ của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Liên quan đến công ty TNHH một thành viên, hiện có một số công trình nghiên
cứu, chẳng hạn như:
+ Luận văn thạc sĩ “Công ty TNHH một thành viên theo quy định của pháp

luật Việt Nam và pháp luật Cộng hòa Pháp” của tác giả Đinh Thị An, năm 2004,
+ Luận văn thạc sĩ: “Công ty TNHH một thành viên Luật doanh nghiệp (2005)
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Lê Thị Tú Hồng (2006);
+ Luận án tiến sĩ “Pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
thành công ty TNHH một thành viên” của tác giả Nguyễn Thị Huế;
+ Luận án tiến sĩ “Chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của các tổ chức chính
trị, chính trị xã hội thành công ty TNHH một thành viên – những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của tác giả Phạm Thị Thúy Hồng,
+ Luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH ở Việt Nam” của
tác giả Hoàng Hải Hà (2012);
+ Luận văn thạc sĩ “ Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga (2014);
+ Luận văn thạc sĩ “Sự phát triển của chế định công ty TNHH ở Việt Nam” của
tác giả Đặng Thị Hoàng Anh (2016);
+ Các bài viết đăng trên tạp chí Luật học như: “Những thay đổi về công ty
TNHH trong Luật doanh nghiệp (2014)” của công ty luật PLF (Website Doanh nhân
Sài Gòn 3/2015);
Các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã ít nhiều đánh giá thực
trạng, kiến nghị quy định của pháp luật về công ty TNHH một thành viên. Tuy
nhiên, mỗi nghiên cứu là một sự khai thác khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới góc
dộ khác nhau. Với công trình nghiên cứu này, Luận văn sẽ kế thừa những thành
tựu của các nghiên cứu trước đó nhưng nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống
những quy định mới nhất về công ty TNHH một thành viên ở nước ta, trên cơ sở
so sánh và học tập kinh nghiệm của nước ngoài, từ đó đưa ra những kiến nghị
3


nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
3.1.


Mục tiêu nghiên cứu tổng quát:
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu về những lý luận về công ty

TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp (2014) và vận dụng những quy định
của pháp luật đó thực tế và từ đó ta có thể phát hiện những điểm tích cực, hạn chế
của những quy định đó để đưa ra hướng hoàn thiện.
3.2.

Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
Để đạt được mục đích trên, Luận văn phải giải quyết được một số nhiệm vụ

sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về công ty TNHH một thành viên: Lịch
sử hình thành, Đặc điểm, ưu điểm, hạn chế và vai trò của công ty TNHH một thành
viên ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu thực trạng pháp luật về doanh nghiệp, đặc biệt là nghiên cứu
nội dung các quy định của Luật Doanh nghiệp (2014) về công ty TNHH một thành
viên ở Việt Nam;
+ Đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH
một thành viên ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về
công ty TNHH một thành viên của Luật công ty (1990), Luật doanh nghiệp (1999),
Luật doanh nghiệp (2005), Luật doanh nghiệp (2014); trong đó trọng tâm là nghiên
cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp (2014) và các văn bản hướng dẫn thi
hành như Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ, quy định chi
tiết về hồ sơ, trình tự, thủ tục ĐKDN; đăng ký hộ kinh doanh; quy định về cơ quan
ĐKKD và quản lý nhà nước về ĐKKD; Nghị định 81/2015/NĐ-CP ngày
18/9/2015 của Chính Phủ về công bố thông tin của Doanh nghiệp Nhà nước; Nghị

định 96/2015/NĐ-CP ngày 08/12/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật doanh nghiệp 2014.
Đưa ra các định hướng và giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
4


về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu:
* Về không gian: Luận văn nghiên cứu trên phạm vi cả nước, phân tích dựa
trên số liệu thông tin công ty TNHH được lấy trên phạm vi cả nước; Ngoài ra,
Luận văn còn nghiên cứu pháp luật về công ty TNHH một thành viên của một số
nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiêm cho Việt Nam trong quá trình
hoàn thiện pháp luật.
* Về thời gian: Nghiên cứu những quy định về công ty TNHH một thành viên
trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến nay vì nó là thời điểm đầu tiên công ty
TNHH một thành viên được nhắc tới trong Luật công ty (1990) và được bổ sung
hoàn thiện trong các quy định của Luật doanh nghiệp (1999), Luật doanh nghiệp
(2005), Luật doanh nghiệp (2014).
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng: Xem xét giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện pháp
luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay một cách toàn diện
trong mối tương quan với một số nước phát triển thế giới và thực tiễn tại Việt Nam.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân chia các vấn đề lớn, phức tạp thành những
vấn đề nhỏ chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích thì tổng hợp lại và khái quát để
đưa tới sự nhận thức tổng thể về pháp luật công ty TNHH một thành viên ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp hoàn thiện.
Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Đề tài đi từ những vấn đề chung
đến những vấn đề riêng, từ những hiện tượng riêng lẻ đến những cái chung.
Phương pháp thống kê: Đề tài tập hợp những số liệu về công ty TNHH một thành
viên ở Việt Nam, trên thế giới và thực tiễn làm cơ sở khoa học.

Phương pháp so sánh: Đề tài đặt thực tiễn về vấn đề cần nghiên cứu trong mối liên
hệ và so sánh với thực tiễn của một số nước phát triển trên thế giới, so sánh giữa
Luật doanh nghiệp (1999) và (2005) với Luật doanh nghiệp (2014) qua đó tìm ra
những ưu nhược điểm của vấn đề và đề xuất phương hướng hoàn thiện để giải quyết
nội dung vấn đề cần nghiên cứu.

5


7. Những đóng góp mới của Luận văn:
Dưới góc độ nghiên cứu như trên, dự kiến Luận văn sẽ có những đóng góp
mới sau đây:
Thứ nhất, Luận văn đã hệ thống hóa, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa
học nhằm làm sáng rõ cơ sở lý luận của công ty TNHH một thành viên (theo Luật
doanh nghiệp (2014)).
Thứ hai, thông qua việc đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật
về công ty TNHH trong thực tiễn, luận văn đã đánh giá những mặt tích cực, ưu
điểm, đồng thời cũng chỉ rõ những tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật
hiện hành về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam.
Thứ ba, Luận văn cũng đã đề xuất phương hướng, một số kiến nghị góp
phần hoàn thiện pháp luật về công ty TNHH một thành viên nhằm giải quyết
những bất cập của pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quan
trọng cho các đề tài và bài viết có liên quan của những người đi sau về lĩnh vực
pháp luật công ty TNHH một thành viên.
8. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài lời nói đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần kết luận,
nội dung chủ yếu của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Chương 2:Thực trạng pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam

6


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
1.1. Lịch sử hình thành công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Vào cuối năm 1870 phần lớn các nước Châu Âu đã bỏ thủ tục gấp giấy phép
thành lập như trước đây mà chỉ ĐKKD theo các điều kiện được quy định trong luật
định. Do những điều kiện mới như vậy, một số lượng lớn các công ty cổ phần được
thành lập. Điều này hạn chế các thương gia nhỏ kinh doanh trên thương trường.
Trước tình hình đó giới làm luật Đức đã quyết định soạn thảo các quy định về một
loại hình công ty mới đó là công ty TNHH. Như vậy, công ty TNHH ra đời sau
hình thức công ty cổ phần và công ty đối nhân [30, tr.13-15]. Các công ty theo mô
hình của công ty TNHH chỉ thực sự xuất hiện ở cuối thế kỷ 19 và phát triển mạnh
ở thế kỷ 20 và công ty TNHH ra đời là sản phẩm hoạt động lập pháp theo sáng
kiến của nhà lập pháp Đức 1892 [31, tr.14]. Sự xuất hiện của mô hình công ty
TNHH có lẽ sẽ thích hợp cho kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ. Mô hình công ty
này vừa có yếu tố quan hệ nhân thân giữa các thành viên như công ty đối nhân, vừa
có tư cách pháp nhân và chế độ TNHH như công ty cổ phần. Vì thế, mô hình này
dường như được ưa chuộng ở tất cả các nước. Tỷ lệ các công ty TNHH trong tổng
số các công ty thường chiếm rất cao, ví dụ ở Anh vào tháng 3 năm 2001 có tới
99% trong tổng số 1,5 triệu công ty ở nước này là công ty TNHH (private
company) [32, tr.92]. Vào cuối tháng 6 năm 2002, ở Úc có tới 98,3% trong tổng số
1,248 triệu các công ty là công ty TNHH (proprietary company limited by shares)
[40, tr.7-8] .

Pháp luật công ty đã được người Pháp đem đến Việt Nam từ cuối thế kỷ 19
và nửa đầu thế kỷ 20, vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi mà pháp luật công ty của
Việt Nam đã bị ảnh hưởng lớn bởi mô hình luật công ty châu Âu. Các hình thức
công ty như trong luật thương mại của Pháp đã xuất hiện trong các Bộ luật thời
Pháp thuộc như Dân luật thi hành tại các tòa án Nam Bắc kỳ 1931 và Bộ luật
thương mại Trung Kỳ 1942. Hai bộ luật này đều có quy định về các mô hình công
7


ty, được gọi là hội hay công ty, mà chúng ta thấy ngày nay trong luật định Việt
Nam. Những quy định của Bộ luật thương mại Trung Kỳ vẫn tiếp tục được áp
dụng tại miền Nam Việt Nam cho đến khi Bộ luật thương mại Việt Nam Cộng hòa
năm 1972 có hiệu lực áp dụng. Trong Bộ luật thương mại nước Việt Nam Cộng
hòa năm 1972, mô hình công ty TNHH (hội TNHH) cũng tiếp tục được ghi nhận
bên cạnh các hình thức công ty khác [15]. Nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên khi
tham gia công ty, từ năm 1986 Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đổi mới các
quy định của pháp luật để đảm bảo một khung pháp lý hiệu quả cho các công ty.
Ngày 21/12/1990 Quốc hội thông qua Luật công ty. Tuy nhiên sau một thời gian đi
vào thực tế áp dụng thì Luật công ty đã bộc lộ những thiếu sót nhất định, chưa theo
kịp sự phát triển của nền kinh tế. Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật
doanh nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp Nhà nước và Luật công ty, quy định
chi tiết và đầy đủ các loại hình doanh nghiệp, trong đó có loại hình công ty TNHH
một thành viên (tại mục 2 Chương 3 Luật doanh nghiệp 1999). Từ khi ra đời loại
hình công ty TNHH đã chiếm vị trí quan trọng và góp phần rất lớn trong sự phát
triển kinh tế đất nước. Luật doanh nghiệp (1999) chỉ cho phép một tổ chức được
quyền thành lập công ty TNHH một thành viên. Ngày 12/12/2005 Quốc hội đã
thông qua Luật doanh nghiệp (2005) thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999, doanh
nghiệp (2005) quy định cá nhân có thể thành lập công ty TNHH một thành viên.
Luật doanh nghiệp (2014) được Quốc hội khoá XIII thông qua tại kỳ họp thứ
8, ngày 26/11/2014, có hiệu lực kể từ 01/7/2015, tiếp tục kế thừa, luật hoá những

quy định còn phù hợp đã và đang đi vào cuộc sống của Luật doanh nghiệp (2005),
nhưng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn
chế, bất cập của Luật cũ, tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi,
phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư được
tự do kinh doanh, đầu tư các lĩnh vực mà pháp luật không cấm theo đúng tinh thần
Hiến pháp 2013. Tỷ lệ các công ty TNHH trong tổng số các công ty ở Việt Nam
chiếm tỷ lệ rất cao và có chiều hướng tăng cao hàng năm.
Ví dụ: Trong 6 tháng đầu năm 2015, số doanh nghiệp thành lập mới theo
loại hình doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở loại hình công ty TNHH một thành
8


viên với 22.953 doanh nghiệp đăng ký, tiếp đến là loại hình công ty TNHH hai
thành viên là 12.358 doanh nghiệp, loại hình công ty cổ phần là 7.286 doanh
nghiệp, loại hình doanh nghiệp tư nhân là 2.809 doanh nghiệp và loại hình công ty
hợp danh không[19].
Trong 6 tháng đầu năm 2016, số doanh nghiệp thành lập mới theo loại hình
doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở loại hình công ty TNHH một thành viên với
29.343 doanh nghiệp đăng ký (tăng 6.390 doanh nghiệp so với cùng kỳ năm 2015),
tiếp đến là loại hình công ty TNHH hai thành viên là 13.882 doanh nghiệp, loại
hình công ty cổ phần là 9.026 doanh nghiệp, loại hình doanh nghiệp tư nhân là
2.242 doanh nghiệp và loại hình công ty hợp danh là 08 doanh nghiệp[19].
Trong 6 tháng đầu năm 2017, số doanh nghiệp thành lập mới theo loại hình
doanh nghiệp tập trung nhiều nhất ở loại hình công ty TNHH một thành viên với
34.493 doanh nghiệp (tăng 5.150 doanh nghiệp so với cùng kỳ năm 2016), tiếp đến
là công ty TNHH hai thành viên 14.749 doanh nghiệp, công ty cổ phần 10.397
doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân 1.627 doanh nghiệp, công ty hợp danh 10
doanh nghiệp [19].
Tóm lại, công ty TNHH rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới. Công ty
TNHH một thành viên là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ,

chúng có ưu điểm là tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh mạnh dạn đầu từ vào
các ngành và lĩnh vực có khả năng rủi ro nhiều, thu hồi vốn chậm. Ngoài ra, loại
hình công ty TNHH một thành viên đã tạo điều kiện cho những người có số vốn
vừa và nhỏ có cơ hội làm chủ doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận từ đồng vốn của
mình, hiện nay mô hình công ty này được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Thực tế
qua ví dụ trên cho thấy, số doanh nghiệp thành lập mới theo loại hình doanh
nghiệp ở mỗi năm đều tập trung nhiều nhất ở loại hình công ty TNHH một thành
viên. Điều đó thể hiện mô hình công ty TNHH một thành viên đang rất phổ biến ở
Việt Nam.
1.2. Khái niệm công ty TNHH một thành viên
1.2.1. Khái niệm chung về công ty:

9


Theo Pháp luật của Pháp “công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay
nhiều người thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một
hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó” [16].
Theo Pháp luật của bang Georgia – Mỹ “một công ty là một pháp nhân được
tạo ra bởi luật định nhằm một mục đích chung nào đó nhưng có thời hạn về thời
gian tồn tại, về quyền hạn, về nghĩa vụ và các hoạt động được ấn định trong điều lệ”
[16].
Theo Pháp luật của bang Lousiana – Mỹ “một công ty là một thực thể được
tạo ra bởi luật định bao gồm một hoặc nhiều cá thể dưới một tên chung. Những
thành viên có thể kế nghiệp lẫn nhau, vì thế công ty là một khối thống nhất. Tuy
nhiên sự thay đổi của những các thể trong công ty cho một mục đích cụ thể nào đó
được xem xét như một con người cụ thể” [16].
Qua một số khái niệm trên ta thấy chúng có những nét tương đồng, bên cạnh
đó cũng có những điểm khác nhau. Nhưng tổng hợp chung lại có khái niệm tổng
quát như sau:“Công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người (cá nhân hay pháp

nhân) bằng một sự kiện pháp lí trong đó các bên thoả thuận với nhau sử dụng tài
sản hay khả năng của họ nhằm tiến hành các hoạt động để đạt mục tiêu chung”
[16].
1.2.2. Khái niệm chung về công ty TNHH:
Theo GS.TS. Friedrich Kubler, công ty TNHH xuất hiện đầu tiên ở Cộng hòa
liên bang Đức năm 1892 sau khi có Luật công ty TNHH, Luật này được sửa đổi
lớn vào năm 1980. Luật công ty cổ phần có trước đó, từ năm 1870. Sau đó công ty
TNHH được công nhận, phát triển ở Pháp, Ý, Tây ban nha, các nước khác ở Châu
âu lục địa và Nam Mỹ [30, tr.13-15].
Công ty TNHH ra đời với lý do là công ty cổ phần chịu các quy định pháp lý
bắt buộc rất phức tạp và chặt chẽ đã tỏ ra kém năng động và không thích hợp với
các doanh nghiệp có quy mô trung bình và nhỏ. Các doanh nghiệp loại này phát
triển ngày càng nhiều, thành viên thường có độ tin cậy lẫn nhau nhất định, nhưng

10


không muốn chịu trách nhiệm vô hạn như công ty đối nhân. Vì vậy họ lập ra công
ty TNHH.
Ở Cộng hòa liên bang Đức, công ty TNHH phát triển rất nhanh chóng về số
lượng và hiện nay luôn là loại hình công ty quan trọng nhất.
Ở Hoa kỳ chỉ có một loại hình công ty đối vốn (Corporation). Pháp luật Hoa
kỳ chỉ phân biệt hai trường hợp: có phát hành cổ phiếu (public corporation), và
không phát hành cổ phiếu (close corporation). Nếu so sánh các công ty có phát
hành cổ phiếu có nhiều điểm tương đồng với công ty cổ phần. Các công ty không
phát hành cổ phiếu có nhiều điểm tương đồng với công ty TNHH [12, tr. 36].
Luật công ty ngày 21 tháng 12 năm 1990 chỉ có 46 điều, là cơ sở pháp lý cho
sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần và công ty TNHH. Ở Việt nam, sau khi
có Luật công ty năm 1990 đến nay, công ty trách nhiệm luôn là lựa chọn nhiều
nhất của các nhà kinh doanh. Số lượng công ty TNHH luôn chiếm tỷ lệ cao nhất và

cũng là loại hình công ty quan trọng nhất đối với nền kinh tế.
Định nghĩa thế nào là một công ty TNHH ít có tranh luận trên phạm vi quốc
tế. Theo thông lệ quốc tế chung nhất, công ty TNHH là một loại công ty đối vốn, là
một pháp nhân, có tài sản độc lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của công ty, có thể kiện và bị kiện. Điều đó có nghĩa là công
ty TNHH có quy chế pháp lý độc lập, nó tách rời khỏi các thành viên.
Ở Cộng hòa liên bang Đức gọi đó là nguyên tắc phân tách. Nguyên tắc này
được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của các công ty đối
vốn, ngay cả trong trường hợp thành viên là người trực tiếp điều hành công ty và
cả khi công ty chỉ có một chủ và là người điều hành duy nhất [13, tr.37]
Về cơ bản, pháp luật Việt nam cũng tiếp cận nguyên tắc TNHH, nhưng
không theo nguyên tắc phân tách tuyệt đối. Quy định về công ty không hoàn toàn
tách rời công ty với các thành viên.
Theo quy định tại Điều 2 Luật công ty năm 1990 thì: Công ty TNHH và
công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh nghiệp trong đó các thành viên
cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp
11


và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của
mình góp vào công ty. Quy định này không quy định về chế độ TNHH của công ty
mà quy định chế độ TNHH của các thành viên [33].
Nội dung quy định này được tiếp tục thể hiện tại các Luật doanh nghiếp năm
1999, 2005, 2011 và 2014. Cụ thể, theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 47 Luật
doanh nghiệp 2014 thì: Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 Ðiều 48 của Luật này.
Điều đó có nghĩa rằng, theo pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức cũng như
hầu hết các quốc gia khác, pháp nhân nói chung và công ty TNHH nói riêng đều
tách bạch hoàn toàn giữa pháp nhân với thành viên kể từ thời điểm hình thành

pháp nhân. Nguyên tắc TNHH cũng chỉ áp dụng khi thanh lý công ty, để các chủ
nợ tính toán rủi ro khi giao dịch với công ty.
Nhìn vào câu chữ trích dẫn trên đây, pháp luật Việt nam vẫn để thành viên
đeo đuổi các khoản nợ của công ty, mặc dù trách nhiệm của thành viên là hữu hạn.
Việc lập sổ đăng ký thành viên cũng cho thấy nguyên tắc tách biệt không hoàn
toàn được tuân thủ [38, Điều 49].
Cũng như hầu hết các nước, ở Việt nam cũng có công ty TNHH có từ hai
thành viên và công ty TNHH một thành viên. Một công ty trách nhiệm hữu hạn
không được có quá 50 thành viên, thành viên có thể là cá nhân, tổ chức [33, Điều
47 khoản 1 điểm a].
Về vấn đề pháp nhân. Đây là một khái niệm pháp lý cơ bản và quan trọng
trong hệ thống luật dân sự. Công ty TNHH là một loại pháp nhân. Vấn đề pháp
nhân có từ thời La mã, và chủ yếu thể hiện trong hệ thống pháp luật dân sự. Hệ
thống luật Anh – Mỹ ít quan tâm đến vấn đề pháp nhân.
Cũng như doanh nghiệp, pháp nhân không phải là sản phẩm của lập pháp.
Sự liên kết đã tạo ra các tổ chức có các thành viên và người ta chia ra thành hai
loại. Một loại là pháp nhân và một loại không phải là pháp nhân. Đặc điểm cơ bản
của pháp nhân là sự phân tách thành viên với pháp nhân và tính chất TNHH của
12


pháp nhân. Pháp nhân chỉ chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình khi thanh lý. Các
chủ nợ không có quyền đòi nợ đối với các thành viên.
Ngược lại, tổ chức không phải là pháp nhân không có sự tách bạch thành
viên với tổ chức. Các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của
của tổ chức. Chủ nợ cớ quyền yêu cầu tất cả các thành viên hay bất kỳ thành viên
nào trả toản bộ khoản nợ cho mình. Các thành viên tự giải quyết quan hệ nội bộ.
Đó cũng có thể coi là quy tắc “chơi” trong quan hệ tư đã được chấp nhận ít
nhất từ thời La mã. Khi trao đổi với các chuyên gia Cộng hòa liên bang Đức và
Nhật bản về việc tại sao trong Bộ luật dân sự của hai quốc gia này không có quy

định về thế nào là pháp nhân, quy tắc “chơi” này, câu trả lời là nó đã quá rõ ràng
nên người ta không định nghĩa trong luật nữa. Trong các đạo luật này cũng không
dùng cụm từ “có tư cách pháp nhân” mà dùng cụm từ “là pháp nhân”, tức là quy
tắc “chơi” chấp nhận nó là pháp nhân chứ không phải pháp luật ban cho [23] [27].
Ở Việt Nam, vấn đề lại không hoàn toàn như vậy. Khi du nhập pháp luật Xô
viết vào Việt nam, pháp nhân được hiểu như việc nhà nước ban cho một tổ chức
những quyền nhất định nên mới có những khái niệm “có tư cách pháp nhân”, “có
tư cách pháp nhân không đầy đủ. Khoản 2 điều 47 Luật doanh nghiệp (2014) quy
định: “Công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân…”. Ý
tưởng này cũng được thể hiện trong một số điều khác về pháp nhân.
Khái niệm thế nào là một công ty TNHH ít có tranh luận trên phạm vi quốc
tế. Theo thông lệ quốc tế chung nhất, công ty TNHH là một loại công ty đối vốn, là
một pháp nhân, có tài sản độc lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của công ty, có thể kiện và bị kiện. Điều đó có nghĩa là công
ty TNHH có quy chế pháp lý độc lập, nó tách rời khỏi các thành viên.
1.2.3. Khái niệm công ty TNHH một thành viên:
Trên thế giới, người ta chia ra hai loại hình công ty phổ biến là: công ty đối
nhân và công ty đối vốn. Công ty TNHH là một loại hình công ty đối vốn - lại hình
mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của thành viên.

13


* Quan niệm về công ty TNHH một thành viên trên thế giới
Quan niệm về công ty TNHH một thành viên ở các nước trên thế giới có sự
khác biệt. Hệ thống pháp luật của Đức, Anh, Hoa Kỳ đều ghi nhận và có những
quy định cụ thể về loại hình công ty TNHH một chủ.
Luật Công ty TNHH của Cộng hòa Liên bang Đức đã định nghĩa: “Công ty
TNHH do một hay nhiều người sáng lập trên cơ sở những quy định của Luật và
theo đó có mục đích hoạt động được pháp luật cho phép” [22].

Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định: “Công ty có thể được thành lập
trong những trường hợp do Luật định bằng hành vi ý chí của một người” [25].
Trong khi đó pháp luật Mỹ không đưa ra quan niệm cụ thể về công ty TNHH
một thành viên mà chỉ quy định trong Luật Thương mại Mỹ: luật pháp cho phép
thành lập công ty TNHH một chủ [26].
Như vậy, tính đặc thù của công ty TNHH một thành viên ở các nước trên thế
giới so với các loại hình công ty nói chung đó là không có sự liên kết giữa hai hay
nhiều cá nhân, tổ chức để thành lập công ty, mà một cá nhân có thể độc lập thành
lập công ty.

* Quan niệm công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật Việt Nam trước đây cũng không ghi nhận công ty TNHH một
thành viên [33]. Bởi vì, ở giai đoạn này công ty vẫn được hiểu theo nghĩa truyền
thống, gồm ba đặc trưng: sự liên kết của nhiều người thể hiện thông qua việc góp
vốn bằng tài sản hoặc bằng giá trị tinh thần; sự liên kết phải thông qua một sự kiện
pháp lý đó là hợp đồng thành lập công ty; mục đích của sự liên kết đó là nhằm
tìm kiếm lợi nhuận. Như vậy, trong ba điều kiện thì công ty TNHH một thành viên
không thỏa mãn hai điều kiện, bởi vì, nếu chỉ có một cá nhân hay một tổ chức thì
không thể thực hiện được hành vi “liên kết”, không thể có sự góp vốn vì vậy không
thể chấp nhận một hợp đồng đơn phương chỉ có một bên tham gia.
Tuy nhiên, về cơ bản pháp luật Việt nam cũng tiếp cận nguyên tắc TNHH,
nhưng không theo nguyên tắc phân tách tuyệt đối. Quy định về công ty không hoàn
14


toàn tách rời công ty với các thành viên. Điều 2 Luật công ty năm 1990 quy định:
“Công ty TNHH và công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh nghiệp trong
đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng
với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm
vi phần vốn của mình góp vào công ty”. Quy định này không quy định về chế độ

TNHH của công ty mà quy định chế độ TNHH của các thành viên [33].
Đến Luật Doanh nghiệp (1999) thì quan niệm về công ty có sự thay đổi.
Luật Doanh nghiệp (1999) quy định: “Công ty TNHH một thành viên là doanh
nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở
hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp” [34].
Theo Luật Doanh nghiệp (1999), số lượng thành viên công ty không nhất
thiết phải từ hai thành viên trở lên như trước mà luật cho phép thành lập công ty
TNHH một thành viên do một tổ chức làm chủ sở hữu (từ Điều 46 đến Điều 50).
Đây là một điểm mới lần đầu tiên về công ty TNHH được pháp luật Việt Nam thừa
nhận.
Trong thực tế thương mại nước ta tồn tại rất nhiều công ty TNHH trong đó có
một số thành viên danh nghĩa vào danh sách thành viên sáng lập công ty để hợp
pháp hóa việc thành lập công ty còn thực chất công ty chỉ có một chủ. Như vậy, dù
pháp luật có thừa nhận hay không thì công ty TNHH một thành viên vẫn tồn tại và
hoạt động trên thực tế. Luật Công ty trước đây không ngăn chặn việc thành lập công
ty thuộc sở hữu của một chủ. Do đó, khi Luật Doanh nghiệp thừa nhận loại hình
công ty này tức là đã đưa ra được giải pháp pháp lý đối với một vấn đề bức xúc trên
thực tế, tạo nên một môi trường kinh doanh rõ ràng, minh bạch hơn.
Để cụ thể hóa khái niệm “tổ chức” làm chủ sở hữu, Điều 14 Nghị Định số
03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ quy định tổ chức là chủ sở hữu của
công ty TNHH một thành viên bao gồm 17 tổ chức khác nhau [3].
Sỡ dĩ pháp luật chỉ thừa nhận công ty TNHH một thành viên là tổ chức mà
không thừa nhận công ty TNHH một thành viên là cá nhân bởi vì theo quan niệm
15


của các nhà làm luật Việt Nam giai đoạn này thì những tổ chức này phải là một
pháp nhân, có cơ cấu chặt chẽ, có tài sản độc lập với tài sản công ty. Sự tách bạch
giữa tài sản công ty và tài sản của thành viên công ty là đặc điểm quan trọng thể

hiện chế độ chịu TNHH.
Trên thực tế, Luật Doanh nghiệp (1999) cũng đã gián tiếp thừa nhận mô hình
công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ. Tại Điều 111, Khoản 3 Luật
Doanh nghiệp (1999) quy định “công ty phải giải thể nếu không còn đủ số lượng
thành viên tối thiểu theo luật định trong thời hạn sáu tháng liên tục” [34]. Điều đó có
nghĩa là, khi một hoặc một số thành viên công ty chết hay mất tích mà không có người
thừa kế hoặc người thừa kế không được chấp nhận, hoặc khi thành viên công ty rút
vốn, công ty vẫn được phép tồn tại trong vòng sáu tháng với một thành viên duy nhất.
Đây là khoảng thời gian khá dài để cho công ty có thể thực hiện rất nhiều hoạt động
kinh doanh, thực hiện các giao dịch làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác nhau
giữa công ty với người lao động, giữa công ty với các chủ nợ hay người có liên quan.
Theo Luật Doanh nghiệp (2005) và Luật doanh nghiệp (2014): “Công ty
TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ
sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của
công ty; Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận ĐKDN. Công ty TNHH một thành viên không được quyền phát
hành cổ phần” [ 36] [38].
Luật Doanh nghiệp (2005) và (2014) đã ghi nhận rõ ràng với đầy đủ về công
ty TNHH một thành viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đời sống, đồng thời hòa
nhập với xu hướng chung của pháp luật về công ty trên thế giới. Luật doanh
nghiệp (2014) tiếp tục thừa nhận Công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm
chủ sở hữu. Còn đối với người nước ngoài tại Việt Nam và người Việt nam ở nước
ngoài thì họ được quyền thành lập công ty TNHH một thành viên theo chính sách
khuyến khích đầu tư trong nước và họ sẽ hoạt động theo luật khuyến khích đầu tư
trong nước và luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

16



1.3. Đặc điểm của công ty TNHH một thành viên
1.3.1. Về thành viên:
Thành viên công ty là một cá nhân hoặc một tổ chức. Thành viên duy nhất này
của công ty cũng chính là chủ sở hữu công ty. Trừ trường hợp tổ chức hoặc cá nhân
không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo khoản 2
Điều 18 của Luật doanh nghiệp (2014) tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tự
do kinh doanh, tự chọn mô hình doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Đặc điểm nổi bật
nhất được thể hiện ở loại hình doanh nghiệp này chính là “Cá nhân có quyền thành
lập công ty TNHH một thành viên” lần đầu tiên được thừa nhận trong Luật doanh
nghiệp (2005) mà trước đó Luật doanh nghiệp (1999) vẫn còn bỏ ngỏ.
1.3.2. Về tư cách pháp lý:
Công ty TNHH một thành viên là pháp nhân, tức là đáp ứng đầy đủ 4 điều
kiện về năng lực chủ thể theo luật định, đó là: được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tài sản đó; họ hoàn toàn có quyền nhân danh mình khi tham gia các quan hệ kinh tế
một cách độc lập [36] [38].
Theo thông lệ quốc tế, công ty TNHH một chủ được thừa nhận là pháp nhân
vì có sự tách bạch về tài sản giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản còn lại của
chủ doanh nghiệp, mặc dù công ty chỉ có một chủ.
Tài sản đem nhập vào công ty nói chung không còn thực quyền sở hữu của
người góp tài sản, cũng không thuộc quyền sở hữu cộng đồng (sở hữu chung) của
các thành viên nhưng cũng không là một vật vô chủ. Vậy ai là chủ của tài sản đó?
Người chủ chính là người được quyền khai thác các tài sản do các thành viên đã
đem góp vào công ty; sự khai thác nhằm đạt tới mục đích của các thành viên được
ghi nhận trong khế ước khi thành lập công ty. Người chủ ấy là một chủ thể vô hình.
Đó là một pháp nhân được tạo ra do khế ước thành lập công ty.
Pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện để có tư cách pháp nhân như vậy
là để tạo lập tư cách pháp lý độc lập và chế độ tự chịu trách nhiệm, nhất là trách
17



nhiệm tài sản của các tổ chức, cá nhân đối với các hành vi pháp lý của mình. Khi
thành lập công ty, chủ sở hữu là thành viên duy nhất của công ty phải cam kết góp
vốn vào công ty với giá trị vốn góp và thời hạn góp vốn cụ thể. Số vốn góp của chủ
sở hữu được thể hiện trong Điều lệ của công ty. Trường hợp chủ sở hữu không góp
đầy đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi như là nợ của
cá nhân, tổ chức đó đối với công ty. Cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu công ty chỉ
phải chịu trách nhiệm trong số vốn đã góp hoặc cam kết góp vào công ty, mọi
nghĩa vụ phát sinh ngoài số vốn này thì không phải chịu trách nhiệm, trừ trường
hợp thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì chủ sở
hữu phải chịu trách nhiệm đối với công ty. Đây cũng chính là đặc điểm xuất phát
từ chế độ chịu TNHH của công ty TNHH một thành viên. Như vậy, công ty TNHH
một thành viên được ghi nhận là một pháp nhân, một chủ thể thực sự, theo đó, tài
sản của công ty hoàn toàn độc lập với tài sản của thành viên công ty.
Thời điểm ghi nhận công ty TNHH một thành viên là pháp nhân cũng là một
vấn đề quan trọng. Theo quan niệm chung của giới học giả nhiều nước thì công ty
được coi là có tư cách pháp nhân ngay sau khi những thể thức thành lập đã hoàn
tất, không cứ là công ty đã được công bố hay chưa. Nói cách khác, pháp nhân của
công ty phát sinh khi nó được thành lập xong mà không cần phải đợi đến lúc nó
được công bố; sự công bố chỉ là giấy khai sinh, báo cho người thứ ba biết là công
ty đã ra đời. Tuy nhiên, cũng không ít các văn bản pháp luật về công ty của các
nước đã quy định rõ thời điểm phát sinh tư cách pháp nhân của công ty. Ví dụ:
Luật doanh nghiệp (2005), Luật Doanh nghiệp (2014) quy định cụ thể thời điểm
phát sinh tư cách pháp nhân của công ty TNHH một thành viên là thời điểm được
cấp giấy chứng nhận ĐKKD. “Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận ĐKKD” [ 36, Điều 63] [38, Điều 73].
Và như vậy, cho đến khi công ty TNHH một thành viên tan rã, pháp nhân
lúc nào cũng là biểu tượng cho công ty, chịu nghĩa vụ và hưởng quyền lợi do pháp
luật và hợp đồng mang lại. Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân,

trước pháp lý, giống thể nhân về nhiều phương diện. Cũng như một thể nhân, công
ty có tên, có chỗ ở (tức là trụ sở), có quốc tịch, có sản nghiệp, có năng lực pháp lý,
18


×