Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 85 trang )

VI THỊ LỆ HẰNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
VI THỊ LỆ HẰNG

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆNNGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
VI THỊ LỆ HẰNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vi Thị Lệ Hằng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà
Nội đã tận tình truyền dạy, chỉ bảo cho tôi trong quá trình học tập chương trình
đào tạo sau đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đồng Ngọc Ba đã hướng dẫn tận tình để
tôi hoàn thành luận văn đề tài ““Pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp số liệu, chia sẻ
kinh nghiệm và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện luận văn.


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm và nội dung pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại

1.1.1.

13

Vai trò của pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng trong hoạt động thương mại

1.3.

7

Nội dung của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại


1.2.

7

Khái niệm pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng trong hoạt động thương mại

1.1.2.

7

19

Một số yếu tố ảnh hưởng đến nội dung pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương
mại

1.3.1

Thể chế hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký
biện pháp bảo đảm

1.3.2

23

Quan điểm, đường lối chính sách pháp luật liên quan đến đăng ký
biện pháp bảo đảm

1.3.4.


22

Nhận thức của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình tham mưu ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm

1.3.3.

22

23

Tổ chức của các cơ quan có thẩm quyền, năng lực bộ máy tham mưu
trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp

1.3.5.

bảo đảm

24

Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong xây dựng, ban

26


hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

2.1.

29

Nội dung quy định pháp luật hiện hành về đăng ký biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại

29

2.1.1.

Phạm vi, đối tượng đăng ký biện pháp bảo đảm

30

2.1.2.

Về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

33

2.1.3.

Về cơ chế phát sinh hiệu lực của biện pháp bảo đảm đối với bên thứ
ba và xử lý tài sản đảm bảo

2.1.4.

Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ


2.2.

34
38

Thực trạng thực hiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại

38

2.2.1.

Một số kết quả đạt được và nguyên nhân

39

2.2.2.

Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

50

3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.2.

3.2.1.


3.2.2.

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ HỢP ĐỒNG
TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại
Cần sớm ban hành Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm
Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan
Hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương
mại
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân,
doanh nghiệp và cán bộ làm công tác đăng ký biện pháp bảo đảm
Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản
bảo đảm giữa cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm và cơ quan, tổ
chức liên quan

60
60
61
65
67

68


68

69


3.2.3.
3.2.4.

Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động đăng ký biện
pháp bảo đảm
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70
71
73
75


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội, các hoạt động kinh doanh, thương mại nhằm đáp
ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người chủ yếu được thực hiện
thông qua các giao dịch dân sự, kinh tế trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng.
Khi thiết lập các giao dịch, hợp đồng, vấn đề các bên quan tâm nhất là thực hiện
các cam kết, thỏa thuận, khả năng thực hiện nghĩa vụ - điều kiện đảm bảo quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên. Vì vậy, để đảm bảo cho các bên thực hiện đúng

nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, các bên cần có cam kết về các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ thông qua việc ký kết các giao dịch bảo đảm và đăng ký
với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc ký kết và đăng ký giao dịch bảo đảm
(hiện nay theo Bộ luật Dân sự năm 2015 là đăng ký biện pháp bảo đảm) có vai
trò quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư, lưu thông các nguồn vốn, thúc
đẩy sản xuất - kinh doanh, nhất là đảm bảo tính minh bạch, cạnh tranh và hạn
chế các rủi ro, tranh chấp trong các hoạt động thương mại. Đồng thời, thông qua
việc đăng ký các giao dịch bảo đảm, các cơ quan có thẩm quyền có được những
thông tin cần thiết phục vụ quản lý, hoạch định các chính sách thương mại, tài
chính, tín dụng...
Nhận thức được vai trò của đăng ký giao dịch bảo đảm đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm của nước ta không
ngừng được hoàn thiện; hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm được hình
thành, đáp ứng yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm của cá nhân, tổ chức. Tuy
nhiên, thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và hoạt động của ngân
hàng nói riêng cũng còn những vướng mắc, bất cập cả về thể chế và hiệu quả thi
hành pháp luật. Cụ thể như: việc đăng ký giao dịch bảo đảm hiện nay do nhiều
đầu mối cơ quan thực hiện (Bộ Tư pháp quản lý, tổ chức việc đăng ký giao dịch
bảo đảm đối với động sản; Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức đăng ký giao

1


dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Bộ Giao thông
vận tải tổ chức thực hiện việc đăng ký đối với tàu bay, tàu biển); việc đăng ký
giao dịch bảo đảm chưa có sự liên thông giữa động sản và bất động sản; thủ tục
đăng ký các giao dịch bảo đảm chưa thực sự minh bạch và thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp; pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn có những quy
định mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định pháp luật có liên quan; xử lý tài
sản bảo đảm, xác định thứ tự ưu tiên khi có thế chấp đối với tài sản bảo

đảm...Đặc biệt là với cách tiếp cận mới về hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại
của nhiều nước trên thế giới, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới
về đăng ký biện pháp bảo đảm thay thế cho các quy định về đăng ký giao dịch
bảo đảm theo Bộ luật Dân sự năm 2005 nhưng hiện tại còn nhiều khoảng trống
các quy định hướng dẫn thi hành cũng như định hướng đổi mới mô hình đăng ký
biện pháp bảo đảm trong thời gian tới.
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập của pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm hiện nay, đòi hỏi phải nghiên cứu, đánh giá pháp luật về đăng ký
giao dịch bảo đảm cả về mặt thể chế và hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại” có ý nghĩa cấp thiết cả
về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm nói chung, trong thực hiện hợp đồng
thương mại nói riêng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đăng ký biện pháp bảo đảm nói chung, đăng ký biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại nói riêng đã
có nhiều công trình nghiên cứu được công bố ở các góc độ khác nhau. Có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu sau đây:

2


- “Lý luận và thực tiễn về giao dịch bảo đảm trong pháp luật hàng hải”
của tác giả Vũ Thị Minh Hồng, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội (2006).
- "Thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản tại Việt Nam” của tác giả
Trần Ngọc Tú, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
- “Pháp luật Việt Nam về đăng ký giao dịch bảo đảm" của tác giả Hồ
Quang Huy, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.

- “Một số vấn đề về đăng ký bất động sản trong luật dân sự - Thực trạng và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Đặng Trường Sơn, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học luật Hà Nội, 2009.
- "Pháp luật hiện hành về đăng ký các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực
kinh doanh bất động sản” của tác giả Hoàng Thị Ngọc Phượng, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 2009.
- “Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm”, Nxb Tư pháp, Hà Nội (Cục
Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp (2009).
- "Giới thiệu Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm
và một số kỹ năng cần lưu ý trong quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo
đảm, Nxb Tư pháp, Hà Nội, Vũ Đức Long (Chủ biên, 2010).
- “Khái quát về hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm theo pháp luật Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hiền đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số
chuyên đề tháng 4/2011).
- “Nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm và tác động của nó đối với sự vận
hành của thị trường tín dụng Việt Nam” của TS. Vũ Đức Long đăng trên Tạp chí Dân
chủ pháp luật, Số chuyên đề Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm (2011).
- “Xử lý tài sản thế chấp và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật” của
tác giả Vũ Thị Hồng Yến đăng trên Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề
Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm (2011).

3


- “Pháp luật về Đăng ký giao dịch bảo đảm” (Số chuyên đề), Tạp chí Dân
chủ và pháp luật (2011).
- "Những khía cạnh pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm theo
pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Vinh, Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam (2013).
- "Một số vấn đề về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ

dân sự, thương mại” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn đăng trên Tạp chí Dân chủ
pháp luật, Số chuyên đề pháp luật về giao dịch bảo đảm (5/2017).
- "Hoàn thiện các quy định pháp luật về biện pháp bảo lãnh” của tác giả
Hồ Quang Huy đăng trên Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề pháp luật về
giao dịch bảo đảm (5/2017).
- "Tính vật quyền của thế chấp tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015” của tác giả Nguyễn Quang Hương Trà đăng trên Tạp chí Dân chủ
pháp luật, Số chuyên đề pháp luật về giao dịch bảo đảm (5/2017).
Ngoài ra còn có một số bài viết có liên quan đến đăng ký giao dịch bảo
đảm, đăng ký bất động sản trên các tạp chí, các trang web...Các công trình được
công bố liên quan đến đề tài ở chừng mực nhất định đã làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về đăng ký giao dịch bảo đảm như khái niệm, vai trò, mô
hình hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm, những vướng mắc, bất cập về thể
chế...Tuy nhiên, các công trình khoa học nêu trên chưa nghiên cứu toàn diện
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm dưới góc độ tiếp cận mới là các biện
pháp bảo đảm theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài này sẽ nhận diện, đánh giá tương đối toàn diện quá trình hoàn thiện pháp
luật về đăng ký biện pháp bảo đảm trong thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt
động thương mại với những đặc thù nhất định để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đăng ký biện pháp bảo đảm nói chung, đăng
ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại
ở Việt Nam nói riêng.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt

động thương mại ở góc độ thể chế và thực tiễn, từ đó đề xuất phương hướng, giải
pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm hiệu quả thực hiện các biện pháp đăng ký
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích, khái quát cơ sở lý luận về pháp luật đăng ký biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại, bao gồm các vấn
đề như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
- Xác định các yêu cầu và luận giải một số giải pháp hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về đăng ký biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại và thực tiễn thực
hiện ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng
pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt
động thương mại ở Việt Nam từ năm 2012 đến nay.

5


5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử. Bên cạnh đó, luận văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật về đăng ký biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt
động thương mại ở Việt Nam.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG
KÝ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm và nội dung pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại
1.1.1. Khái niệm pháp luật đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng trong hoạt động thương mại
Trong đời sống xã hội, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại
chủ yếu thông qua việc thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế dưới
hình thức hợp đồng. Theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 (trước đây
là Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005), "Hợp đồng” là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, bởi vậy, hợp đồng

là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ, theo đó bên có nghĩa vụ phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công
việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền.
Đối với hoạt động thương mại - hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Điều 3, Luật Thương mại), thì hợp đồng
thương mại có thể hiểu là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và
với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong thực hiện hoạt động thương mại. Với cách hiểu như trên, có thể
nhận diện một số đặc trưng của hợp đồng thương mại so với các hợp đồng dân
sự khác là: Chủ thể của hợp đồng thương mại chủ yếu là thương nhân (cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh); mục đích của hợp đồng là sinh lợi trong hoạt
động thương mại, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến

7


thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác do thương nhân thực
hiện (Còn hợp đồng dân sự có thể có mục đích sinh lợi hoặc không có mục đích
sinh lợi); nội dung hợp đồng thương mại là các điều khoản do các bên thỏa thuận
về quyền và nghĩa vụ của các bên (đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức
thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng); các hợp đồng thương mại với
tính chất giá trị lớn hơn nhiều so với các hợp đồng dân sự (bởi vì đối tượng của
hợp đồng thương mại là hàng hóa, là các động sản, vật gắn liền với đất đai...);
hợp đồng thương mại thường có tính phức tạp hơn nên thường được giao kết
bằng hợp đồng được công chứng để tăng giá trị pháp lý (còn hợp đồng dân sự do
giá trị thấp hơn nên được giao kết bằng miệng nhiều hơn thông qua sự tín nhiệm
và giao dịch hợp đồng thường đơn giản).
Như vậy, nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại có thể được hiểu
là nghĩa vụ phải chuyển giao hàng hóa, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện

cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại hoặc nghĩa vụ khác vì lợi ích của
bên có quyền. Song vấn đề mà các bên quan tâm khi thiết lập các hợp đồng
thương mại là khả năng thực hiện các nội dung cam kết, thỏa thuận, nghĩa vụ.
Việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng không chỉ có ý nghĩa đối với các bên
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong các giao dịch mà còn
có ý nghĩa bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ dân sự, kinh tế trong
đời sống xã hội. Vì vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên
quan; sự an toàn và minh bạch trong các giao dịch dân sự nói chung, hoạt động
thương mại nói riêng, pháp luật quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảm đảm.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 292 Bộ luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ
ngày 01/01/2017) thì có 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ gồm: Cầm cố
tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo
lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản. Như vậy, Bộ luật Dân sự 2015 quy định thêm
02 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ so với Bộ luật Dân sự năm 2005 là

8


"Bảo lưu quyền sở hữu” và "cầm giữ tài sản”; đồng thời có sự quy định thay đổi
từ "giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm” sang tên gọi "biện pháp
bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm”. Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khi
các bên ký kết hợp đồng trong hoạt động thương mại, các bên có thể thỏa thuận
về việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm thông qua việc lựa chọn biện pháp bảo
đảm phù hợp với tính chất của quan hệ nghĩa vụ và khả năng tài sản của mình
hoặc pháp luật có quy định một số quan hệ nghĩa vụ phải có biện pháp bảo đảm
(Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai
hoặc nghĩa vụ có điều kiện). Như vậy, về bản chất thì biện pháp bảo đảm và
giao dịch bảo đảm là có sự tương đồng, đó là thỏa thuận về việc dùng tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết, "Giao dịch bảo đảm là

giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực
hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” (Điều 323 Bộ luật Dân sự
năm 2005).
Do mục đích của việc thỏa thuận, giao kết về việc lựa chọn biện pháp bảo
đảm không chỉ nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà còn nhằm công khai chủ thể,
nội dung, quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản đảm bảo, quyền ưu tiên
của chủ nợ/bên bảo đảm đối với những chủ nợ khác....Vì vậy, để đảm bảo hiệu lực
của giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm đã thỏa thuận, trong một số trường
hợp giao dịch bảo đảm cần phải thực hiện việc đăng ký và đăng ký giao dịch bảo
đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo
đảm hoặc nhập vào Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài
sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm (Điều 2,
Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ). Đồng thời, theo
quy định của Điều 298 Bộ luật Dân sự 2015, để đảm bảo hiệu lực của các biện
pháp bảo đảm, trong một số trường hợp nhất định việc đăng ký bảo đảm cũng có
tính bắt buộc. Mặc dù hiện nay chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về việc đăng
ký biện pháp bảo đảm theo Bộ luật Dân sự 2015 nhưng xét về bản chất thì đăng

9


ký biện pháp bảo đảm là sự ghi nhận về mặt pháp lý của việc bên bảo đảm dùng
tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm theo các trình tự,
thủ tục pháp luật quy định đối với từng biện pháp bảo đảm được đăng ký. Từ đó,
có thể khái niệm: "Đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong
hoạt động thương mại là việc cơ quan có thẩm quyền ghi nhận việc bên bảo đảm
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm theo thỏa
thuận trong hợp đồng thương mại”.
Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng mục đích của việc đăng ký biện

pháp bảo đảm là công khai hóa sự ràng buộc pháp lý giữa các bên trong quan hệ
giao dịch về tài sản bảo đảm, qua đó tạo cơ sở cho việc thực hiện các nghĩa vụ đã
cam kết cũng như cũng như những bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể liên
quan, nhất là việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi phải xử lý tài sản đảm
bảo. Đồng thời, việc đăng ký biện bảo đảm còn nhằm công khai hoá các thông
tin về tài sản bảo đảm, thông tin về hạn chế các quyền của bên bảo đảm qua đó
giúp cho bên thứ ba quan tâm nhận biết được về sự tồn tại của các quyền đối với
tài sản đang được quan tâm khi có ý định mua tài sản, nhận bảo đảm hoặc thực
hiện các quyền khác đối với tài sản đó.
Dưới góc độ khoa học, pháp luật được quan niệm là hệ thống các quy tắc
xử sự do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội và được bảo đảm thực
hiện thông qua bộ máy nhà nước để mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng, thực hiện
nghiêm chỉnh. Về nguyên tắc, hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại cũng phải tuân thủ các quy định
pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm nói chung, vì vậy pháp luật về đăng ký
biện pháp bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự minh bạch của
các giao dịch, hợp đồng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về đăng ký biện pháp

10


bảo đảm có thể phân chia thành các nhóm sau:
Một là, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung
Nhóm này phản ánh những quan hệ về nội dung thực hiện các quy định
của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm, theo đó mục đích của việc điều
chỉnh các nhóm quan hệ này nhằm xác nhận giá trị pháp lý của các biện pháp
bảo đảm với ý nghĩa là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong giao
dịch, hợp đồng đã được xác lập. Các biện pháp bảo đảm được đăng ký có hiệu

lực pháp lý đối với bên thứ ba và là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên của giao dịch, hợp đồng cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan. Ví dụ như: theo quy định của pháp luật (Điều 297 và Điều
308 Bộ luật Dân sự 2015) thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm
giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm và khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực
đối kháng thì bên bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền
thanh toán theo thứ tự ưu tiên giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm. Ngoài ra,
những quan hệ pháp luật về nội dung nêu trên còn làm phát sinh các mối quan hệ
khác trong quá trình thực hiện các biện pháp bảo đảm nhằm thực hiện nghiêm
chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan; đồng thời, quá trình thực
hiện các biện pháp bảo đảm cũng có thể xảy ra những sự kiện pháp lý tác động
tới nội dung của các giao dịch bảo đảm. Như vậy, với phân tích trên có thể thấy
rằng về bản chất, các mối quan hệ này phản ánh nội dung đăng ký biện pháp bảo
đảm, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong các hợp đồng bảo
đảm khi biện pháp bảo đảm được xác lập và đăng ký.
Hai là, nhóm quan hệ mang tính tổ chức - quản lý
Như đã đề cập ở trên, các biện pháp bảo đảm được thỏa thuận, xác lập
trong các hợp đồng bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba
khi được đăng ký với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Vì vậy, các mối quan
hệ mang tính tổ chức- quản lý là đối tượng điều chỉnh của pháp luật về đăng

11


ký biện pháp bảo đảm chính là mối quan hệ này liên quan đến cơ cấu tổ chức;
thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của cơ quan đăng ký
biện pháp bảo đảm. Cụ thể như: mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về
đăng ký biện pháp bảo đảm với cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm; cơ cấu tổ
chức, hoạt động của hệ thống cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm; mối quan hệ

giữa các cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm theo từng đối tượng đăng ký...
Thực tế cho thấy rằng việc giải quyết các mối quan hệ này thường phát sinh
những khó khăn, vướng mắc nhất định, do đó để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm thì cần quy định rõ thẩm quyền,
cơ chế phối hợp trong tổ chức và quản lý đăng ký biện pháp bảo đảm.
Ba là, nhóm quan hệ về trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm
Hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm chịu sự điều chỉnh của pháp luật
theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Việc thực hiện các nguyên
tắc, trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm cũng làm xuất hiện hàng loạt
các mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan. Cụ thể như các quan hệ phát sinh từ
các thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm, xóa đăng ký, thay đổi nội dung đăng ký
biện pháp bảo đảm; mối quan hệ phát sinh khi xử lý tài sản được dùng để bảo
đảm nghĩa vụ; mối quan hệ phát sinh khi có việc chuyển giao quyền cho thuê,
cho mượn tài sản thế chấp; mối quan hệ phát sinh khi thực hiện các thủ tục trong
hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm ...
Như vậy, để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội được nhận diện nêu trên,
Nhà nước phải ban hành các quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Tổng hợp các quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm tạo thành pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái niệm: Pháp luật về đăng ký biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại là hệ
thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đăng ký biện

12


pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thương mại.
Với khái niệm trên, có thể thấy rằng pháp luật về đăng ký biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại bao gồm một số

nội dung cơ bản là: quy định về quyền, nghĩa vụ của bên bảo đảm, bên nhận bảo
đảm; các tổ chức, cá nhân có liên quan đến đăng ký biện pháp bảo đảm; quy định
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng
ký biện pháp bảo đảm; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người thực hiện
đăng ký biện pháp bảo đảm và trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm.
1.1.2. Nội dung của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ hợp đồng trong hoạt động thương mại
Pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm là cơ sở cho hoạt động quản lý
nhà nước, thực hiện các giao dịch và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia các quan hệ kinh tế trong đời sống xã hội. Bởi vậy, để
đảm bảo hiệu quả đăng ký biện pháp bảo đảm, pháp luật về đăng ký bảo đảm
điều chỉnh một số nội dung cơ bản sau đây:
- Đối tượng đăng ký:
Về bản chất, biện pháp bảo đảm là biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
đã cam kết của các bên khi tham gia các giao dịch, hợp đồng trong đời sống xã
hội. Do hầu hết các giao dịch, hợp đồng liên quan đến bảo đảm các lợi ích về
kinh tế nên để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì các bên thường quan tâm đến các
biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Vì vậy, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể liên quan; sự an toàn và minh bạch trong các giao dịch dân sự nói
chung, hoạt động thương mại nói riêng, pháp luật quy định về các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ là đối tượng đăng ký. Theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 như đã trình bày ở trên thì có 09 biện pháp bảo đảm là đối tượng đăng
ký, nhưng các bên tham gia hợp đồng có thể tùy chọn biện pháp bảo đảm phù
hợp nhằm bảo vệ tối ưu nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực tế
cho thấy, trong hoạt động thương mại, các biện pháp bảo đảm được lựa chọn chủ

13


yếu liên quan đến tài sản là: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh. Tuy

nhiên, việc lựa chọn biện pháp bảo đảm còn tùy thuộc vào tính chất, loại hình tài
sản bảo đảm là động sản hay bất động sản; tài sản hiện hữu hay tài sản hình
thành trong tương lai; tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất, tàu bay, tàu biển, công
trình kiến trúc, rừng sản xuất, phương tiện giao thông đường bộ, dây chuyền sản
xuất, nguyên vật liệu, hàng hóa.....Đồng thời, để đảm bảo tôn trọng quyền thỏa
thuận của các đương sự cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên
quan, pháp luật còn quy định những biện pháp bảo đảm có tính bắt buộc và thỏa
thuận, tự nguyện. Ví dụ như: theo quy định pháp luật hiện hành (Nghị định số
83/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm) thì các biện pháp
bảo đảm phải đăng ký gồm: Thế chấp quyền sử dụng đất; Thế chấp rừng sản
xuất là rừng trồng; Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; Thế chấp tàu biển, còn các
biện pháp bảo đảm khác thì được đăng ký theo thỏa thuận tự nguyện khi cá nhân,
tổ chức yêu cầu.
- Nguyên tắc đăng ký:
Nguyên tắc đăng ký biện pháp bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong việc
định hướng cho việc thực hiện các hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm, xác
định trách nhiệm của cơ quan đăng ký và cá nhân, tổ chức yêu cầu đăng ký biện
pháp bảo đảm; mô hình tổ chức hoạt động đăng ký biện pháp bảo đảm và hậu
quả pháp lý của việc đăng ký biện pháp bảo đảm. Theo quy định pháp luật hiện
hành ở nước ta, việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo hai nguyên
tắc là: “đăng ký thông báo” và “đăng ký xác minh”. Cụ thể là:
+ Nguyên tắc đăng ký thông báo được thực hiện đối với việc đăng ký,
cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản (trừ tàu bay, tàu biển) tại
các Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch
bảo đảm trực thuộc Bộ Tư pháp, theo đó: cán bộ thực hiện đăng ký khi có đơn
yêu cầu đăng ký (bao gồm cả đăng ký thay đổi và xóa đăng ký); người yêu cầu
đăng ký phải chịu trách nhiệm về nội dung trong đơn yêu cầu đăng ký, kể cả tính

14



chính xác của các thông tin ghi trong đơn đăng ký; việc đăng ký không làm phát
sinh hiệu lực của giao dịch bảo đảm mà chỉ có ý nghĩa đối kháng với bên thứ ba
có nghĩa vụ được bảo đảm bằng chính tài sản đó và thông tin đăng ký do đăng ký
viên thực hiện phải được để mở để tham khảo công khai.
+ Nguyên tắc đăng ký xác minh được áp dụng đối với việc đăng ký, cung
cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất (tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất); giao dịch bảo đảm bằng tàu bay
(tại Cục Hàng không Việt Nam); giao dịch bảo đảm bằng tàu biển (tại Chi cục
hàng hải hoặc Cảng vụ hàng hải, Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao
thông vận tải), theo đó cán bộ thực hiện đăng ký kiểm tra tính hợp lệ về hình
thức của hồ sơ, thông tin đăng ký liên quan đến tình trạng thực tế - pháp lý của
tài sản; kiểm tra nội dung thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm; đối chiếu nội
dung trong hợp đồng bảo đảm với thông tin được kê khai trong đơn yêu cầu đăng
ký và thông tin được cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm lưu giữ… Việc đăng ký
là điều kiện bắt buộc và thời điểm đăng ký là thời điểm các giao dịch bảo đảm có
hiệu lực pháp luật.
- Giá trị pháp lý của việc đăng ký biện pháp bảo đảm:
Một trong những vấn đề các bên quan tâm khi đăng ký biện pháp bảo đảm
là giá trị của việc đăng ký biện pháp bảo đảm. Bởi vì, việc đăng ký không chỉ
làm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba mà còn làm phát sinh hiệu lực
pháp lý của biện pháp bảo đảm. Ví dụ như theo Điều 297 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi
đăng ký biện pháp bảo đảm…; việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm
có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định. Ngoài ra, việc đăng ký biện
pháp bảo đảm còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo cho tài sản bảo đảm
đã đăng ký không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm (ví dụ
như nghĩa vụ thi hành án); xác định quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản
trong trường hợp có các chủ nợ cùng nhận bảo đảm bằng tài sản, các chủ nợ


15


không có bảo đảm, người cầm giữ tài sản…
- Về việc xử lý tài sản bảo đảm:
Xử lý tài sản bảo đảm là vấn đề các bên đặc biệt quan tâm do ảnh hưởng
trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia giao dịch về biện pháp
bảo đảm. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tài sản bảo đảm bị xử
lý khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa
vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo
quy định của luật và các trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy
định (Ví dụ như: ngân hàng có quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm trước thời
hạn khi doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết về việc sử dụng vốn vay).
Việc xử lý tài sản bảo đảm có thể được thực hiện thông qua việc giao tài sản bảo
đảm để xử lý (nếu người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo
đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết); nhận lại tài sản bảo đảm; nhận chính
tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; bán
đấu giá tài sản...
- Quản lý nhà nước về đăng ký biện pháp bảo đảm:
Theo quy định pháp luật hiện hành, quản lý nhà nước là nội dung điều
chỉnh quan trọng của pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm. Cụ thể là:
+ Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất
quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm;
+ Bộ Giao thông vận tải trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, tổ chức thực hiện việc đăng ký cầm cố, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển;
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp
trong việc chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện việc đăng ký giao dịch
bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định của

pháp luật;

16


+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản
lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất tại địa phương.
- Mô hình tổ chức đăng ký biện pháp bảo đảm:
Việc xây dựng mô hình tổ chức đăng ký biện pháp bảo đảm có ý nghĩa
quan trọng trong việc đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về đăng ký biện pháp bảo đảm. Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước
trên thế giới cho thấy có ba mô hình tổ chức đăng ký biện pháp bảo đảm là: mô
hình tổ chức cơ quan đăng ký phi tập trung, theo đó, việc đăng ký cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh được thực hiện tại chính các cơ quan đăng ký quyền sở hữu tài
sản; mô hình tổ chức cơ quan đăng ký tập trung đối với biện pháp bảo đảm bằng
động sản tại một cơ quan không phải cơ quan đăng ký quyền sở hữu thực hiện và
đăng ký thế chấp bất động sản ở những cơ quan đăng ký quyền sở hữu bất động
sản và mô hình đăng ký tập trung, theo đó cả động sản và bất động sản sẽ được
đăng ký tại cùng một cơ quan và tách khỏi cơ quan đăng ký quyền sở hữu. Mỗi
mô hình nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, bởi vậy việc lựa
chọn mô hình tổ chức cơ quan đăng ký biện pháp bảo đảm cần phải phù hợp
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của hệ
thống đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế giới.
Theo quy định pháp luật hiện hành ở nước ta, việc tổ chức đăng ký biện
pháp bảo đảm được thực hiện theo mô hình phi tập trung, theo đó việc đăng ký
biện pháp bảo đảm được thực hiện theo đối tượng đăng ký, cụ thể là:
+ Các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, cung
cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản, trừ tàu bay, tàu biển và các

tài sản khác;
+ Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải thực hiện
đăng ký, cung cấp thông tin về cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay;

17


+ Chi cục hàng hải hoặc Cảng vụ hàng hải thuộc Cục Hàng hải, Bộ Giao
thông vận tải thực hiện đăng ký, cung cấp thông tin về thế chấp tàu biển.
+ Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định pháp luật [1,5]
- Trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm:
Việc pháp luật quy định nội dung về trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp
bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm giá trị của việc đăng ký cũng
như tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm, đặc
biệt là đánh giá mức độ hiện đại, minh bạch và thuận lợi của hệ thống đăng ký
biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên, tùy từng biện pháp bảo đảm, pháp luật quy định
cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký biện pháp bảo như: phương thức nộp hồ sơ
đăng ký; việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký; thời hạn giải quyết và trả kết quả đăng ký
(Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm có trách nhiệm giải quyết hồ sơ đăng ký,
đăng ký thay đổi, đăng ký thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm, sửa chữa sai
sót về đăng ký giao dịch bảo đảm, xoá đăng ký giao dịch bảo đảm trong ngày
nhận được hồ sơ đăng ký hợp lệ….). Đồng thời, xuất phát từ một số đặc thù của
từng loại tài sản theo các biện pháp bảo đảm được đăng ký, pháp luật cũng có
những quy định riêng về thủ tục đăng ký (ví dụ như: đăng ký giao dịch bảo đảm
bằng tài sản là tàu bay, tàu biển, quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và
các tài sản khác). Ngoài ra, để tạo thuận lợi, giảm thời gian và chi phí cho cá
nhân, tổ chức khi đăng ký biện pháp bảo đảm cũng như tiếp cận thông tin về

biện pháp bảo đảm, pháp luật cũng quy định về việc đăng ký biện pháp bảo đảm
và cung cấp thông tin bằng hình thức trực tuyến; quy định về thời điểm đăng ký
biện pháp bảo đảm; thời hạn có hiệu lực của đăng ký biện pháp bảo đảm (thời
hạn được tính từ thời điểm đăng ký cho đến thời điểm xóa đăng ký theo đơn của
người yêu cầu xóa đăng ký)…

18


×