Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 101 trang )

NGUYỄN HOÀNG DŨNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ

ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

NGUYỄN HOÀNG DŨNG

2015- 2017
HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

NGUYỄN HOÀNG DŨNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Đào
tạo sau đại học Viện Đại học mở Hà Nội
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hoàng Dũng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân,
tôi đã nhận được nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của các Thầy giáo, cô giáo,
gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, các Cô, Khoa Đào
tạo sau đại học Viện đại học Mở Hà Nội đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo, hướng
dẫn tôi phương pháp nghiên cứu, phân tích và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
hoàn thành đề tài luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư, Tiến Sỹ: Vũ Thị Hồng Vân đã
tạo điều kiện giúp đỡ tôi nhiệt tình trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề
tài luận văn này.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn toàn thể bạn bè, người thân và đồng nghiệp đã
giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành tốt đề tài luận văn tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Hoàng Dũng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật dân sự

LĐT:

Luật đầu tư

LSHTT:

Luật sở hữu trí tuệ

LTM:

Luật thương mại

LXD:


Luật xây dựng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ
HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA ............................... 8
1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa ................................................ 8
1.1.1. Khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hóa.......................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa ......................................... 12
1.1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa ............................................. 17
1.2. Khái quát về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa ...... 20
1.2.1. Khái niệm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa ..... 20
1.2.2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa ............... 21
1.2.3. Ý nghĩa của việc xác định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa ....................................................................................................... 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 28
Chương 2: ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................ 30
2.1. Điều kiện về chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa ... 32
2.1.1. Năng lực chủ thể của thương nhân là pháp nhân khi tham gia ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa ................................................................................ 37
2.1.2. Năng lực chủ thể của thương nhân là cá nhân khi tham gia ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa ................................................................................ 39
2.2. Nội dung và mục đích của hợp đồng không bị vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội ................................................................... 40
2.3. Các bên tham gia việc giao kết, xác lập hợp đồng hoàn toàn tự nguyện .. 44
2.4. Tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng trong trường hợp pháp luật
quy định ........................................................................................................ 50
2.4.1. Giới hạn tự do về hình thức bằng luật .................................................. 50

2.4.2. Về loại hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa .............................. 51
2.4.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa bị vi phạm về hình
thức ............................................................................................................... 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 59


Chương 3: MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN THI
HÀNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THỰC HIỆN QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA .............................................................................. 61
3.1. Một số bất cập trong pháp luật và thực tiễn thi hành quy định về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa ................................................. 61
3.1.1. Về năng lực của chủ thể khi tham gia giao kết và xác lập hợp đồng ... 62
3.1.2. Về nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội ..................................................................... 62
3.1.3. Vấn đề xác định sự tự nguyện quy định về điều kiện người tham gia xác
lập hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện là chưa đầy đủ và rõ ràng ................ 63
3.1.4. Về hình thức của hợp đồng ................................................................. 64
3.1.5. Bất cập trong quy định về nhầm lẫn là điều kiện yêu cầu Toà án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu ..................................................................................... 65
3.1.6. Về vấn đề xử lý hợp đồng không đảm bảo điều kiện hiệu lực (hợp đồng
vô hiệu) ........................................................................................................ 70
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy định điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.......................................... 72
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật ....................................... 72
3.2.2. Giải pháp về tổ chức, thực hiện ........................................................... 85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................. 87
KẾT LUẬN................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 90



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Từ xa xưa, hợp đồng vốn đã là một phương thức cơ bản để các chủ thể
thực hiện việc lưu thông và trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế
thị trường hiện ngày nay với sự giao lưu kinh tế mở rộng trên phạm vi toàn
thế giới thì mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại phổ biến nhất và có
một vai trò vô cùng quan trọng. Có thể nói mọi hoạt động, công việc kinh
doanh của các thương nhân hay các chủ thể kinh doanh khác đều dựa trên nền
tảng mua bán hàng hóa. Chính vì vậy, mua bán hàng hóa là hoạt động đóng
vai trò trung tâm, có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của nền kinh tế. Đi cùng
với sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa, các hợp đồng mua bán
được ký kết ngày càng nhiều hơn. Để một cuộc giao dịch mua bán được tiến
hành thuận lợi, nhanh chóng, phù hợp với các quy định pháp luật thì việc ký
kết một hợp đồng mua bán hàng hóa là tiền đề cần phải thực hiện. Một hợp
đồng mua bán hàng hóa chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên khi có
hiệu lực pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa để có hiệu lực cần có những
điều kiện nhất định, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những
yêu cầu pháp lí nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích
thực của nó. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng cao ý thức
của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn,
tranh chấp phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên
sự bình đẳng trong giao lưu dân sự. Đây cũng là một yếu tố quan trọng mà
các bên tham gia giao kết hợp đồng phải lưu ý vì nếu hợp đồng mua bán hàng
hóa nào vi phạm vào một trong những nội dung theo quy định của luật về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa thì hợp đồng đó sẽ bị vô

1



hiệu. Việc vô hiệu này có thể là vô hiệu về hình thức, vô hiệu về nội dung, vô
hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần. Tuy nhiên, cho dù thuộc trường hợp vô
hiệu nào đi chăng nữa thì ý chí mong muốn giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
giữa các bên sẽ bị cản trở. Trong những trường hợp này quyền và nghĩa vụ
của các bên phát sinh từ hợp đồng sẽ không được pháp luật công nhận và bảo
vệ.
Pháp luật Việt Nam có nhiều quy định điều chỉnh chung về hợp đồng
và hoạt động mua bán hàng hóa, nhưng có thể nói Bộ luật dân sự số
92/2015/QH13 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 (gọi chung là
BLDS năm 2015) và Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn
thi hành hai đạo luật này được coi là nguồn quan trọng điều chỉnh vấn đề điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa ở nước ta hiện này. Những
quy định này thể hiện sự phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại, mua
bán hàng hóa ở Việt Nam và về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế góp phần
tích cực thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.
Những quy định này về cơ bản giúp cho các thương nhân và các chủ thể khác
tham gia vào hoạt động thương mại nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa
nói riêng xác định được cách thức để xác lập một hợp đồng có hiệu lực pháp
luật, đặc biệt là BLDS năm 2015 có những quy định mới về hợp đồng nói
chung và về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nói riêng. Do vậy, cần được
nghiên cứu và tìm hiểu một cách thấu đáo.
Thực tế cho thấy hiện nay trong đời sống xã hội và trong hoạt động
thương mại vẫn đang diễn ra nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa chưa được
giao kết hợp pháp dẫn đến vô hiệu, nguyên nhân là do các vấn đề về điều kiện
vẫn chưa được tuân thủ chặt chẽ nên có nhiều tranh chấp giữa các bên trong
giao kết hợp đồng mà có liên quan đến điều kiện của hợp đồng. Như vậy, phải
2



chăng giữa cuộc sống và các quy định của pháp luật vẫn còn một khoảng cách
không phải là nhỏ. Vì nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề em quyết định
chọn đề tài: “Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa theo
pháp luật Việt Nam” để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm làm giảm việc giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa vi phạm quy định về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng, dẫn đến vô hiệu hợp đồng trong thực tế; đảm bảo quyền lợi cho
các chủ thể khi tham gia hợp đồng.
2. Tình hình nghiên cứu

Có rất nhiều công trình về khoa học xã hội và công trình luật học
nghiên cứu về các lĩnh vực hợp đồng nói chung, điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự nói riêng và những công trình nghiên cứu
riêng về hợp đồng thương mại, trong đó có hợp đồng mua bán hàng hóa nói
riêng. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau: Giáo trình Luật Thương mại
do Lê Quốc Tài chủ biên; giáo trình Luật Thương mại của Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội năm 1998, 2002 do TS Phạm Duy Nghĩa chủ biên; giáo trình
Luật Thương mại của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011 (tái bản lần thứ
6) do PGS.TS Nguyễn Viết Tý chủ biên. Ngoài ra, nội dung pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa còn được đề cập trong các giáo trình của các cơ sở
đào tạo luật khác như: Đại học Huế, Đại học Vinh, Đại học Kinh tế Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Chế định hợp đồng thương mại cũng được đề cập đến trong các công
trình khoa học, bài viết có liên quan như: “Khái niệm thương mại trong pháp
luật Việt Nam và những bất cập dưới góc dộ thực tiễn áp dụng và chính sách
hội nhập” của TS Lê Hồng Hạnh trên tạp chí Luật học năm 2000, sách tham
khảo “tìm hiểu luật Thương mại Việt Nam” của PGS. TS Phạm Duy Nghĩa
xuất bản năm 2000; cuốn “pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư


3


– Những vấn đề pháp lý cơ bản” năm 2009 do TS Nguyễn Thị Dung chủ
biên… Những công trình nói trên đã đề cập đến chế định hợp đồng thương
mại, hoạt động thương mại, pháp luật thương mại đồng thời cũng đề cập đến
chế định hợp đồng thương mại từng dạng cụ thể như: Hợp đồng mua bán
hàng hóa, hợp đồng đại lý, hợp đồng ủy thác…
Liên quan đến hiệu lực của hợp đồng hiện còn có một số sách chuyên
khảo, công trình nghiên cứu có liên quan tới một số khía cạnh pháp lý của
vấn đề hiệu lực hợp đồng, như cuốn “Việt Nam Dân luật - luợc khảo” của GS.
Vũ Văn Mẫu, “Pháp luật về hợp đồng” của TS. Nguyễn Mạnh Bách, “Chế
định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh,
“Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại điện tử" của GS.TS.
Nguyễn Thị Mơ, “Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án”,
của TS. Đỗ Văn Đại. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo khoa học đăng trên các
tạp chí, như “Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng” của PGS.TS.
Đinh Văn Thanh, “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong
pháp luật hợp đồng Việt Nam'" của PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, “Thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng” của TS. Phạm Công Lạc...
Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sỹ nghiên cứu các đề tài có liên
quan đến hiệu lực hợp đồng, như đề tài “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của TS. Phạm Hữu Nghị;
“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu"
của TS. Lê Thị Bích Thọ; “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" của TS. Nguyễn Văn Cường;
“Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” của TS. Lê
Minh Hùng, năm 2010…
Những công trình khoa học trên là tài liệu vô cùng quí báu giúp tác giả
có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn.


4


Tuy nhiên, đối với những quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện hành mà cụ thể là
theo quy định của BLDS năm 2015 thì chưa có công trình nào đề cập tới. Bởi
vậy, việc lựa chọn đề tài “Hiệu lực của hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt
Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật là không trùng lặp với các công trình khoa

học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu là tìm ra các luận cứ khoa học từ thực tiễn đề từ
đó đề xuất những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Bộ luật dân sự
cũng như các qui định của các luật chuyên ngành liên quan.
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng mua bán hàng hóa
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa; đánh giá ưu điểm, hạn
chế, bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như những khó khăn,
vướng mắc quá trình thực thi pháp luật.
- Tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là những quy định về

điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa của BLDS năm
2015 đặt trong mối tương quan với một số quy định của Luật Thương mại

5


năm 2005, Luật doanh nghiệp… và một số văn bản pháp luật quốc tế điều
chỉnh vấn đề này.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Trên cơ sở những vấn đề lý luận,
luận văn tập trung phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa (có tham khảo pháp luật của
một số nước). Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành được đề tài
nghiên cứu tập trung ở các đạo luật như: BLDS năm 2015; Luật Thương mại
năm 2005.
Cùng với việc nghiên cứu các qui định của pháp luật, luận văn cũng
nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa trong thời gian gần đây, đặc biệt là từ khi BLDS
năm 2015 có hiệu lực đến nay.
Đồng thời, luận văn cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hóa ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn này, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp phân tích nhằm tìm
hiểu các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua
bán hàng hóa, phương pháp tổng hợp để sử dụng các tài liệu, sách, giáo

trình và các thông tin trên website; phương pháp so sánh, đối chiếu, tham
khảo cũng được tác giả sử dụng nhằm giải quyết vấn đề một cách hợp lý và
rõ ràng nhất.
6


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Dưới góc độ khoa học, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ
đề cập một cách có hệ thống, chi tiết về những quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán; đưa ra những
nhận xét, đánh giá về tính hợp lý, logic, sự phù hợp với thực tiễn của những quy
định này đồng thời nêu lên những quan điểm, định hướng về sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện pháp luật cùng với việc đề xuất những giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả
quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Dưới góc độ thực tiễn, trên cơ sở khảo sát, đánh giá việc áp dụng
những quy định này trong thực tiễn, luận văn nêu lên những kết quả đạt được
cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quy định này
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong
việc áp dụng, thực hiện pháp luật. Từ đó, luận văn đề xuất những kiến giải
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện những quy định pháp
luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại ở Việt Nam, nhằm
nâng cao ý thức pháp luật của các thương nhân, đáp ứng yêu cầu của hội nhập
quốc tế hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được kết
cấu 3 chương, với các nội dung sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa.

Chương 2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 3. Một số bất cập trong pháp luật, thực tiễn thi hành và một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy định điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng mua bán hàng hóa.
7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN
CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hóa

Hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình. Tuy vậy,
trong lịch sử lập pháp của nhân loại, để tìm ra được một thuật ngữ chính xác,
như thuật ngữ “hợp đồng” đang được sử dụng trong pháp luật của hầu hết các
quốc gia ngày nay, là việc không dễ dàng. Hợp đồng là một trong những chế
định quan trọng và xuất hiện sớm nhất trong lịch sử của pháp luật dân sự. Cùng
với sự xuất hiện của hợp đồng thì hợp đồng dân sự nói riêng là một trong
những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật
dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Theo nghĩa thông thường, hợp
đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau
nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
nhất định.
Ở Việt Nam, trong thực tế đời sống, có nhiều thuật ngữ khác nhau được
sử dụng để chỉ về hợp đồng: Khế ước, giao kèo, văn tự, văn khế, cam kết, tờ
giao ước, tờ ưng thuận... Trong cổ luật, dựa vào các cứ liệu lịch sử còn lại

cho đến ngày nay, thuật ngữ ‘văn tự' hay ‘văn khế’[26, Điều 363 và 366], hay
mua, bán, cho, cầm đã được sử dụng khá sớm, trong Bộ Quốc triều Hình luật
[57, tr.156; 286, tr.57- 8].
Ngày nay, trước khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời thì cũng đã có nhiều
8


văn bản pháp luật khác đưa ra những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Song đến khi Bộ luật dân sự ra đời năm 1995 và được sửa đổi bổ sung năm
2005 thì hợp đồng dân sự đã được xem xét, quy định một cách đầy đủ và hoàn
thiện hơn. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Cùng với sự phát triển thì các tranh
chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày
càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải
quyết một cách triệt để. BLDS năm 2015 sử dụng thuật ngữ hợp đồng thay vì
khái niệm hợp đồng dân sự trước đây. Như vậy, các văn bản pháp luật của nhà
nước ta không còn sử dụng thuật ngữ ‘khế ước hay ‘hiệp ước như trước đây
mà sử dụng các thuật ngữ như hợp đồng [8, Điều 385], hợp đồng thương mại
[22, khoản 1 Điều 3], pháp luật của nhiều nước chỉ sử dụng chung thuật ngữ
‘hợp đồng’, chứ không sử dụng các thuật ngữ hợp đồng thương mại, hợp
đồng lao động... như luật Việt Nam.
Ngoài việc dùng “hợp đồng” làm thuật ngữ pháp lý chính thức trong
các văn bản pháp luật, các nhà làm luật cũng quan tâm tới việc làm rõ nội
hàm của khái niệm ‘hợp đồng’. Điều 388 BLDS 2015 định nghĩa hợp đồng
như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Điều 385 BLDS năm 2015, quy
định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chất dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, so với BLDS năm 2005 thì
BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự” sau hai từ “hợp đồng”. Việc sửa đổi

này có ý nghĩa rất quan trọng, đây không chỉ là sự sửa đổi về mặt kỹ thuật lập
pháp mà còn thể hiện sự minh bạch trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Việc
quy định như BLDS năm 2005 dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật có nhiều
cách hiểu khác nhau, có trường hợp cho rằng những quy định của BLDS năm
9


2005 chỉ liên quan đến hợp đồng dân sự và do đó toàn bộ những quy định tại
Mục 7 chương XVII của BLDS năm 2005 cũng như những quy định về giao
kết và thực hiện hợp đồng ở mục này chỉ áp dụng đối với hợp đồng dân sự,
còn việc giao kết và thực hiện các loại hợp đồng khác như: Hợp đồng thương
mại, hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng lao động…
không phải là hợp đồng dân sự nên chúng sẽ không chịu sự điều chỉnh của Bộ
luật dân sự hiện hành. Từ thực tiễn áp dụng pháp luật và những bất cập như
đã nêu ở trên cho thấy, việc sử dụng hai từ “dân sự” trong định nghĩa về hợp
đồng nêu tại Điều 388 BLDS năm 2005 sẽ làm hạn chế phạm vi điều chỉnh
của Bộ luật Dân sự đối với tất cả các loại hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng dân
sự, hợp đồng lao động, hợp đồng kinh doanh hay hợp đồng thương mại. Cho
nên, quy định mới về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 của BLDS năm 2015
là hợp lý, phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật.
Chế định hợp đồng là một bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Cần phân biệt
thuật ngữ hợp đồng với thuật ngữ pháp luật về hợp đồng. Đây là hai khái
niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng theo nghĩa chủ quan là quan hệ xã
hội được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên để thỏa mãn nhu cầu trao
đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng (nghĩa khách quan) là
sự thừa nhận và là yêu cầu của Nhà nước đối với các giao lưu dân sự đó.
Qua định nghĩa trên, ta có thể thấy, về bản chất hợp đồng được hình
thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể tham gia

quan hệ hợp đồng đó. Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong
quan hệ hợp đồng là nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
dân sự đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật có qui định là
không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên. Ngoài ra sự
10


thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm
lẫn, đe dọa… Xét về vị trí, vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng
là một loại giao dịch dân sự, là một căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp
lý để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ.
Mua bán hàng hóa là quan hệ chuyển giao quyền sở hữu để đổi lấy tiền,
theo đó “Mua bán hàng hóa bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”
(khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình
thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá có
bản chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hay
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Hợp đồng mua bán
hàng hoá trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
Luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, do
vậy, có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản Điều 430 trong
BLDS năm 2015 để xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa. Một
hợp đồng mua bán có thể là thỏa thuận về việc mua bán hàng hoá ở hiện tại
hoặc mua bán hàng hoá sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Bất cứ
khi nào, một người mua hàng hoá bằng tiền hoặc phương thức thanh toán
khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá thì khi đó hình thành nên quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hoá.

Theo Điều 430 BLDS năm 2015, “Hợp đồng mua bán tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho
bên mua và bên mua có trả tiền cho bên bán”. Tất cả tài sản được quy định

11


tại Điều 105 BLDS năm 2015 đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán.
Trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển
nhượng thì tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán phải phù hợp với các
quy định đó [8, Điều 431]. Như vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản
có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và có thể là quyền tài sản với điều kiện tài
sản đó phải được phép giao dịch. Chẳng hạn: nếu tài sản là vật thì vật đó phải
được xác định rõ (vật gì; trọng lượng; khối lượng; số lượng); nếu là quyền tài
sản, thì phải có giấy tờ hoặc các bằng chứng khác chứng minh. Ngoài ra, đối
tượng của hợp đồng mua bán còn có thể là các tài sản hình thành trong tương
lai. Trong trường hợp này, bên bán phải cung cấp đầy đủ các giấy tờ, tài liệu
chứng cứ để có thể xác định được tài sản đó và chứng minh tài sản sẽ chắc
chắn được hình thành trong tương lai, khi hình thành, chắc chắn tài sản đó
thuộc quyền sở hữu của mình... “Hàng hóa” định nghĩa cũng được coi là một
loại tài sản. Nhưng hàng hóa có phạm vi hẹp hơn tài sản, do vậy, có thể khẳng
định, hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán
tài sản [22, khoản 8 Điều 3].
Từ phân tích trên có thể định nghĩa: “Hợp đồng mua bán hàng hóa là
sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu hàng hóa
cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán”. Điểm phân biệt
giữa hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán tài sản thể hiện ở
những đặc trưng cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa


Nếu nghiên cứu mối quan hệ giữa hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp
đồng theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng có thể nhận
thấy, nhiều vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa được pháp luật điều chỉnh
không có sự khác biệt với hợp đồng vì hợp đồng mua bán hàng hoá có bản

12


chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hay chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Ngoài ra, do yêu cầu của
hoạt động thương mại hàng hóa, một số vấn đề về hợp đồng trong thương mại
được quy định trong pháp luật thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục
những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng như chủ thể của hợp
đồng, hình thức, nội dung hợp đồng. Với tư cách là hình thức pháp lý của
quan hệ thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm nhất
định để phân biệt với hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán tài sản trong
Luật dân sự nói riêng, vì như đã trình bày ở trên, về bản chất, hợp đồng mua
bán hàng hóa là dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản, do vậy, hợp đồng
mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán tài
sản trong dân sự như [58]:
- Hợp đồng mua bán tài sản và mua bán hàng hóa là hợp đồng song vụ
Trong hợp đồng mua bán tài sản thì cả hai bên trong hợp đồng đều có
những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Nói cụ thể hơn, nếu bên bán có nghĩa
vụ giao vật bán cho bên mua thì bên mua có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán,
bên mua có quyền nhận vật thì bên bán có quyền nhận tiền.
- Hợp đồng mua bán tài sản và mua bán hàng hóa là hợp đồng có đền bù
Quy luật trao đổi ngang giá là đặc trưng cơ bản của hợp đồng mua bán
tài sản. Quy luật này làm cho hợp đồng mua bán tài sản luôn mang tính chất
đền bù tương đương. Nghĩa là khi bên mua đã nhận được một lợi ích vật chất
từ bên bán (tài sản mua) thì bên bán cũng nhận được một lợi ích vật chất

tương đương từ bên mua (tiền bán tài sản).
- Hợp đồng mua bán tài sản và mua bán hàng hóa là hợp đồng ưng thuận
Ưng thuận là một đặc điểm pháp lý quan trọng của hợp đồng mua bán.
Trong hợp đồng mua bán kể từ thời điểm các bên đã thoả thuận và thống nhất
13


ý chí với nhau về những nội dung cơ bản của hợp đồng như: Đối tượng mua
bán, giá cả, phương thức thanh toán... thì hợp đồng đó được coi là đã xác lập
và có hiệu lực đối với các bên. Sự thỏa thuận (ưng thuận) của các bên về
những vấn đề nói trên có thể được thể hiện theo các hình thức khác nhau như
bằng lời nói, bằng văn bản thông thường hoặc bằng văn bản có thị thực, song
các hình thức xác lập này không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng mua
bán, trừ các hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật đã quy định phải được
xác lập theo một hình thức bắt buộc. Tóm lại, đặc điểm này cho thấy, khi hợp
đồng mua bán tài sản được coi là đã giao kết thì các bên phải thực hiện quyền
và nghĩa vụ đối với nhau, nghĩa là người bán phải giao tài sản, hàng hóa bán
và nhận tiền, người mua phải trả tiền và nhận tài sản mua, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Ngoài ra, với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng
hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm đặc thù xuất phát từ bản
chất thương mại của hành vi mua bán hàng hóa:
- Về chủ thể của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân, theo đó, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập
hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và
có đăng ký kinh doanh”[22, khoản 1 Điều 6]. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua
bán hàng hóa khi họ có hoạt động liên quan đến thương mại như ký hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân. Như vậy, về cơ bản các quy định của

Luật Thương mại được áp dụng cho các quan hệ mua bán hàng hóa giữa các
thương nhân với nhau và giữa một bên là thương nhân với một bên là (những)
người tiêu dùng, giới hạn trong những tài sản được gọi là hàng hóa theo

14


khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại. Các quy định này mang tính đặc thù so với
quy định về mua bán tài sản của BLDS [45, tr91].
- Về đối tượng của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa
thông thường có thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được
tạo ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với
sự phát triển của xã hội, hàng hóa càng trở nên phong phú.
Hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục
đích trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu cầu của con
người phong phú và biến thiên liên tục như thế nào thì hàng hóa cũng đa dạng
như vậy. Để khái quát chúng, trong ngôn ngữ pháp lý, dựa vào đặc trưng từng
loại mà hang hóa được phân thành bất động sản và động sản. Hàng hóa có thể
là vật, là lao động của con người, là các quyền tài sản mang tính vô hình.
Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia thành nhiều loại khác
nhau như bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các quyền
về tài sản. Tùy vào luật pháp của mỗi nước cũng như ở nước ta trong từng
thời kỳ khái niệm hàng hóa được quy định hiện nay dù có những khác biệt
nhất định song đều có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được
phép lưu thông. Một số cách hiểu về phạm vi hàng hóa là đối tượng của mua
bán thương mại trong pháp luật quốc tế và các nước như sau:
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế quy
định về hàng hóa với tính cách là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng phương pháp loại trừ, liệt kê những đối tượng không được coi là

hàng hóa như: hàng mua đề dùng cho cá nhân, gia đình; hàng bán đấu giá;
giấy tờ chứng khoán, cổ phiếu, giấy đảm bảo chứng từ và tiền lưu thông…
Quan niệm trên đây có phạm vi rất rộng cũng giống như Bộ luật thương mại
15


của Anh quốc và pháp luật thương mại Hoa Kỳ và trong nhiều điều ước quốc
tế như: Hiệp định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung châu
Âu… Song nhìn chung hàng hóa - đối tượng của mua bán thương mại đều có
đặc điểm chung là động sản hữu hình, gồm những tài sản có hai thuộc tính cơ
bản là: có thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại (trừ tiền, chứng
khoán và quyền vô hình).
Theo Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ
mua bán là tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
những vật gắn liền với đất đai (khoản 2 Điều 3). Quy định này về cơ bản là
tương đối hợp lý, ngắn gọn nhưng vẫn đảm bảo bao quát được phạm vi những
đối tượng có khả năng tham gia vào quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa và
cũng loại trừ được bất động sản ra khỏi định nghĩa. Bởi bất động sản là một
loại tài sản đặc biệt, gắn liền với nhiều yếu tố quyền quan trọng và cần phải
có sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật không thể dễ dàng tham gia giao dịch
như các loại hàng hóa khác.
Tóm lại, xây dựng một khái niệm đúng đắn về hàng hóa là một việc
quan trọng tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống quy định pháp luật điều
chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Về mục đích của hợp đồng
Mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa chính là lợi nhuận. Do mục
đích của hoạt động thương mại là nhằm sinh lợi nên khi các thương nhân
tham gia ký kết một hợp đồng mua bán hàng hóa suy cho cùng cũng là vì lợi
nhuận. Tuy nhiên, trên thực tế có một số trường hợp một bên chủ thể của hợp
đồng không phải là thương nhân, hoạt động không nhằm mục đích sinh lời,

trong trường hợp này sẽ áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Thương
mại năm 2005 để xác định pháp luật điều chỉnh, theo đó, “hoạt động không

16


nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực
hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường
hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng
luật này”. Như vậy, việc chọn áp dụng Luật Thương mại để điều chỉnh quan
hệ hợp đồng này do bên không có mục đích lợi nhuận quyết định.
- Về hình thức của hợp đồng
Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập theo cách thức mà hai bên
thỏa thuận, có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định,
pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, ví
dụ: như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - phải được thể hiện dưới hình
thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như:
điện báo, telex, fax hay thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết dưới mọi
hình thức, trừ những hợp đồng có quy định chuyên ngành như: hợp đồng mua
bán quốc tế, hợp đồng mua bán điện,… thì bắt buộc phải bằng văn bản. Nói
cách khác, hình thức của hợp đồng chỉ bắt buộc khi áp dụng cho một số loại
hợp đồng mà pháp luật quy định cụ thể về hình thức chứ không phải áp dụng
cho tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.3. Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa

Xuất phát từ bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa cũng như các
hình thức khác nhau của hợp đồng đã được pháp luật ghi nhận và đã có ý

nghĩa đối với đời sống xã hội. Do đó hợp đồng mua bán hàng hóa có một số
vai trò nhất định trong hoạt động thương mại như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là cơ sở quan trọng để xây dựng và thực
17


hiện kế hoạch kinh doanh thương mại của các thương nhân
Có thể khẳng định rằng trong tất cả mọi vấn đề nếu không xây dựng kế
hoạch cụ thể và chi tiết thì mọi công việc tiến hành đều rơi vào tình trạng
không có phương hướng và để bảo đảm việc xây dựng kế hoạch được bảo
đảm thì một trong những cơ sở quan trọng bắt nguồn của vấn đề chính là hợp
đồng. Hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng là một
phương tiện để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các thương nhân. Trong
quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên, cơ sở để cho sự phân minh
cũng như khẳng định tính đúng sai không thể có nội dung nào khác quan
trọng hơn đó chính là hợp đồng. Bên cạnh những nội dung chính của họp
đồng như: tên của hợp đồng, tên chủ thể, tên mặt hàng, phương thức thanh
toán... nhưng trong đó có nhiều hợp đồng quy định rất cụ thể tiến độ thực hiện
các nội dung được thoả thuận trong hợp đồng và như vậy nội dung hợp đồng
sẽ trở thành tiêu chí để kiểm tra việc thực hiện các thoả thuận của các bên.
Hay nói cách khác, hợp đồng được xem như công cụ để các thương nhân
kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của mình.
Hợp đồng mua bán hàng hóa làm cho lợi ích của các bên ký kết và phù
hợp với lợi ích chung của nhà nước, lợi ích công công, lợi ích của nền kinh tế
Cho dù nội dung của hợp đồng chủ yếu được các bên tự thoả thuận
nhưng sự thoả thuận đó phải trong khuôn khổ pháp luật và việc các bên ký
kết và thực hiện hợp đồng luôn phải tính toán đến các lợi ích của nền kinh
tế quốc dân.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời
của cơ chế quản lý mới

Một trong những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự điều tiết của nền kinh tế được đặt dưới điều tiết
18


×