Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thi hành án kinh doanh thương mại từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 92 trang )

VŨ NGỌC PHƯƠNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM

VŨ NGỌC PHƯƠNG

2015 - 2017
HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM

VŨ NGỌC PHƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. VŨ THỊ LAN ANH
HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bẩt kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tẩt cả các môn học và đã thanh toán tẩt cả các nghĩa vụ tài chính
theo qui định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Phương


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà Nội đã
tân tình dạy dỗ em trong thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Thị Lan Anh đã hướng dẫn tân tình để
em hoàn thành luân văn đề tài “Thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn
tỉnh Hà Nam”.
Em xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp đã cung cấp số liệu, giúp đỡ em để em
có thể phản ánh chính xác thực tiễn thi hành án kinh doanh thương mại trên địa bàn
tỉnh Hà Nam.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Phương



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI

6

1.1. Khái niệm thi hành án kinh doanh, thương mại

6

1.2. Đặc điểm của thi hành án kinh doanh, thương mại

11

1.3. Ý nghĩa của thi hành án kinh doanh, thương mại

11

1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động thi hành án kinh doanh, thương mại 13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM


18

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương mại

18

2.2. Thực tiễn thực hiện thi hành án kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Hà
Nam

36

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TỪ THỰC
TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

69

3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương mại 69
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án kinh doanh, thương mại

74

KẾT LUẬN

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CHV

Chấp hành viên

2. CQTHA

Cơ quan thi hành án

3. CQTHADS

Cơ quan thi hành án dân sự

4. TAND

Tòa án nhân dân

5. THA

Thi hành án

6. THADS

Thi hành án dân sự

7. VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân


8. THAKDTM

Thi hành án kinh doanh thương mại

9. UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1: Bảng số liệu tổng số vụ THAKDTM so với tổng số vụ thi hành án
dân sự trong giai đoạn năm 2015-2017 tại Hà Nam

43

Bảng 2: Bảng số liệu tổng số án kinh doanh, thương mại đã thi hành với tổng
số án kinh doanh thương mại phải thi hành giai đoạn năm 2015-2017 tại Hà Nam 44
Bảng 3: Bảng số liệu về tổng số tiền THAKDTM trong tổng số tiền THADS
giai đoạn năm 2015-2017 tại Hà Nam

45

Bảng 4: Bảng số liệu về tổng số tiền án kinh doanh, thương mại đã thi hành so
với tổng số tiền án kinh doanh, thương mại cần THA giai đoạn năm 2015-2017 tại
Hà Nam

45



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động nhằm thực thi các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được
chấp hành nghiêm chỉnh góp phần tạo niềm tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì
vậy, hoạt động THA có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ
cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế.
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối
đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,
pháp luật về THA như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2004) và
nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 25/4/2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Thể chế hoá đường lối của Đảng, từ năm 1993 đến nay, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về THADS (trong
đó có công tác THAKDTM), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hình thành, phát
triển tổ chức, hoạt động của hệ thống CQTHADS.
Mặc dù, công tác THADS trong những năm qua đạt được một số kết quả đáng
khích lệ, tỷ lệ THADS có tăng lên nhưng chưa thực sự bền vững, án dân sự vẫn còn
tồn đọng, hiệu quả công tác THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ và sự quan tâm, mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động THA
chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Đây là
vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác THADS hiện nay. Thực trạng này, có một
phần xuất phát từ nguyên nhân: Trong lĩnh vực THADS ở nước ta đã có sự cắt
khúc, tách rời hầu như hoàn toàn giữa cơ quan xét xử và CQTHA trở thành một

trong những nguyên nhân dẫn đến việc THA bị chậm, tồn đọng, nhiều vụ việc gây


khiếu kiện bức xúc, kéo dài; quá trình tổ chức THA vẫn còn một số khó khăn vướng
mắc do THADS là lĩnh vực có liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác, liên
quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau; chưa có sự
phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa cơ quan pháp luật trong việc xử lý các hành vi
không chấp hành án, chống đối, cản trở THA.
Tồn tại lớn nhất trong công tác THADS những năm qua là tình trạng án "tồn
đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa có biện pháp hữu hiệu
để giải quyết, nhất là đối với án THAKDTM. Bởi lẽ, tính chất của công tác
THAKDTM rất phức tạp (thường có lượng tiền phải thi hành rất lớn); nhận thức về
công tác THAKDTM của các cấp, các ngành còn hạn chế; tại một số địa phương,
các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác này; tổ chức
bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức CQTHADS chưa được kiện toàn, đào tạo và bồi
dưỡng kịp thời, cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc chưa được đầu
tư tương xứng với nhiệm vụ mới được giao.
Chính vì vậy, để giải quyết tình trạng "án tồn đọng", nâng cao hiệu quả
THADS nói chung và THADS trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nói riêng cần
phải nghiên cứu đề ra các giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tế.
Từ những phân tích trên, tác giả lựa chọn đề tài ''Thi hành án kinh doanh,
thương mại từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết
và có ý nghĩa trong thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, đã và đang có những công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài những năm gần đây. Trước những đòi hỏi khách quan của công
tác THADS, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề THADS, cụ
thể là: Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới do TS.Nguyễn Đình Lộc làm chủ
nhiệm; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác THA", mã

số 96-98- 027/ĐT do Cục THADS - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà
nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi
hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành
án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp


chủ trì thực hiện.
Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận án tiến sĩ "Hiệu quả
áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả Đặng Đình
Quyền (năm 2012); Luận án Tiến sỹ luật học "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" (năm 2008) của TS Nguyễn
Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự tại
Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (năm 2008); Luận văn thạc sĩ luật học
"Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng; Luận văn
thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của
tác giả Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn
Công Long; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt
Nam" của tác giả Lê Anh Tuấn.
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
''Pháp lệnh thi hành án sự năm 2004 với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
thi hành án" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
chuyên đề về nghiệp vụ thi hành án dân sự năm 2005; "Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự" của tác giả Trần Phương Thảo, Tạp chí Luật học số 7/2007; "Một
số kiến nghị từ thực tiễn hoạt động kiếm sát thi hành án dân sự ở xã, phường, thị
trấn” của tác giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 19/2006; "Hòa giải biện pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS" của tác giả
Phạm Quốc Toản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7/2006; "Thi
hành án dân sự phải là công việc, nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền đoàn thế nhân
dân" của tác giả Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 8/2005;
"Biện pháp tự nguyện trong thi hành án dân sự" của tác giả Phạm Quang Dũng, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật số 4/2005; "Vai trò của công tác hòa giải trong thi hành
án dân sự” của tác giả Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2005; "Tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự trong cải cách tư pháp" của PGS.TS. Nguyễn
Văn Luyện...
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về THADS ở những góc
độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập đến vấn đề


thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS, nhưng chưa nghiên cứu
vấn đề riêng biệt và chuyên sâu về THADS trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại
ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn thực hiện việc áp dụng các quy định về THADS trong các vụ
án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Nam, luận văn phân tích,
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về THAKDTM nói riêng và
THADS nói chung. Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về THADS nói chung, đặc biệt các

quy định về THAKDTM;
- Đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng các quy định về THADS trong các vụ

án kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam;
- Phân tích những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định

về THADS trong các vụ án kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam, từ đó
đưa ra hướng hoàn thiện và giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật về
THAKDTM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về
THADS; thực trạng thực hiện pháp luật THADS trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Luận văn giới hạn thực tiễn thi hành kể từ khi Luật
THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 cho đến nay (2017).
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn
a. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên phương pháp luận khoa học xã hội ở Việt Nam
mà nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ giữa
pháp luật và đời sống thực tiễn, giữa thực thi pháp luật và xây dựng pháp luât.
b. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử dụng


phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và kết hợp
với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lịch sử được sử dụng ở các chương của
luận án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề
xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về THAKDTM;
- Phương pháp lịch sử, thống kê, so sánh được sử dụng để đánh giá về thực
tiễn thực hiện pháp luật về THAKDTM trên địa bàn tỉnh Hà Nam;
- Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh pháp luật cũng được sử dụng trong
việc xác định quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về THAKDTM.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào lý luận về THADS nói
chung và thi hành án dân sự trong các vụ án kinh doanh thương mại nói riêng nhằm
thống nhất nhận thức về bản chất, nội dung THADS và thấy được tính đặc thù trong
việc THADS đối với các vụ án kinh doanh, thương mại. Trên cơ sở đó có cách nhìn
nhận, đánh giá khoa học, thấy rõ những mặt được, những vướng mắc bất cập của
các quy định về THA trong các vụ án kinh doanh, thương mại cũng như thực trạng

áp dụng các quy định này. Kết quả của việc nghiên cứu luận văn là các luận cứ khoa
học và thực tiễn có giá trị trực tiếp đóng góp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về THADS trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở Việt Nam. Luận văn
có thể là tài liệu tham khảo của các cơ quan quản lý THADS, CQTHADS, các cơ
quan quản lý nhà nước có quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thi hành án kinh doanh, thương mại.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về thi hành án kinh doanh, thương
mại và thực tiễn thi hành án kinh doanh, thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Nam.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án kinh doanh, thương mại
1.1. Khái niệm thi hành án kinh doanh, thương mại
Trong quá trình thực hiện chức năng của Nhà nước, để bảo đảm hiệu lực của
bản án, quyết định về dân sự của Toà án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể,
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nhiều quy phạm pháp luật đã được ra đời để điều chỉnh các mối quan hệ
nêu trên, trong đó có pháp luật THADS.
THA được hiểu là việc đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để
thi hành trên thực tế. Hoạt động THA một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền tư
pháp của Nhà nước, mặt khác là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại các quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức và công dân khi bị xâm hại.
Để làm rõ khái niệm THAKDTM thì trước hết cần phải hiểu rõ khái niệm về

THADS. Liên quan đến vấn đề này, hiện nay đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu
và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về THADS. Cụ thể:
Quan điếm 1: THADS không phải một thủ tục tố tụng dân sự mà là hoạt động
mang tính chất chấp hành và điều hành. Như vậy, theo quan điểm này thì THADS là
thủ tục hành chính.
Tác giả không đồng tình với quan điểm này bởi lẽ bản chất của THADS là
dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với
các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định
trong bản án, quyết định của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Và
mục đích cuối cùng của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được
ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản
áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động
hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động
THADS mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó - chấp
hành các quy định của pháp luật.


Do đó, quan điểm cho rằng THADS là hoạt động mang tính chất chấp hành và
điều hành vẫn chưa phản ánh chính xác và đầy đủ bản chất của hoạt động THADS.
Quan điểm 2: THADS là dạng hoạt động hành chính - tư pháp1.
Theo tác giả, quan điểm này là hợp lý nhất, phản ánh đầy đủ bản chất của
THADS đó là vừa mang tính chất của hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố
của hoạt động tư pháp, bởi lẽ: THADS không phải là một giai đoạn tố tụng, có mục
đích khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ
việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo đúng các quy
định của pháp luật. Với mục đích đó, toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo quy trình
hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ,
tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng... và khi có phán quyết của
Tòa án thì quá trình tố tụng kết thúc. Trong khi đó, THADS là quá trình tiến hành
các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật. Khác với trong thủ tục tố tụng dân sự, mối quan hệ giữa các chủ thể trong
hoạt động THADS là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh liên quan.
Theo đó, quan điểm cho rằng THADS mang tính hành chính - tư pháp là thích hợp
hơn cả.
Tính hành chính thể hiện ở chỗ: THADS là dạng hoạt động chấp hành, quản
lý. Là dạng hoạt động chấp hành vì THA chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn
bộ quá trình THA với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm
thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án
và theo các quy định cụ thể của pháp luật.
THADS là một giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật
thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước đó. Giai đoạn THADS có
thể bắt đầu ngay từ khi việc xét xử vụ án chưa kết thúc như việc thi hành các quyết
định khẩn cấp tạm thời của Tòa án (Điều 130 Luật THADS) hoặc những bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay như bản án, quyết định về
cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất sức lao động

1

Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội. Tr 14


hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người
lao động trở lại làm việc mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị (khoản 2 Điều 2
Luật THADS). Ngay cả khi việc xét xử chấm dứt, bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và CQTHADS vẫn tồn tại như
việc CQTHADS yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định khi phát hiện có sai sót hoặc án
tuyên không khả thi, không thể thi hành được (khoản 2 Điều 179 Luật THADS).

Trong quá trình tổ chức THADS, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện Kiểm sát có
thẩm quyền yêu cầu CQTHADS hoãn THA (khoản 2 Điều 48 Luật THADS); tạm
đình chỉ THADS để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm; tái thẩm hoặc
Tòa án thông báo về việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải
THA (khoản 1, khoản 2 Điều 49 Luật THADS). Những quyết định này mang tính
bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan
đến việc THADS. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của
mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để THADS đạt hiệu quả.
- Là dạng hoạt động quản lý vì THADS là sự tác động của pháp luật, của các
CQTHADS tới đối tượng phải THA để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện
pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định
của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn
trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỷ luật nhà nước.
Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: Căn cứ để THA là các bản án và quyết định của
Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá trình THA. Về mặt hình
thức, bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện Kiểm sát, các chủ thể tham gia vào giai
đoạn THADS đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng tại Tòa án trước
đó. Ví dụ: Tham gia vào THADS còn có tổ dân phố, UBND cấp xã (nơi người phải
THA cư trú), UBND cấp huyện, cấp tỉnh; cơ quan, tổ chức nơi người phải THA làm
việc; ngân hàng, tổ chức tín dụng nơi người phải THA mở tài khoản, giao dịch...
Các chủ thể này có đặc điểm khác với các chủ thể trong giai đoạn tố tụng trước đó
về địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn.
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả đồng tình với quan
điểm coi THA là một hoạt động quản lý hành chính - tư pháp. Do đó, THA được hiểu


là hoạt động hành chính - tư pháp mang tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thi hành theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định, thông qua
đó bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thi hành trên thực tế.
Từ khái niệm về thi hành án dân sự nói chung, phải khẳng định THAKDTM là

một bộ phận của hoạt động THADS. Để có một khái niệm chính xác về
THAKDTM, ta cần hiểu thế nào là kinh doanh thương mại, hoạt động thương mại,
án kinh doanh thương mại từ đó mới có khái niệm về THAKDTM cụ thể.
Trong phạm vi điều chỉnh của Luật THADS số 26/2008/QH12 (được sửa đổi,
bổ sung năm 2014) yếu tố "kinh doanh thương mại" chưa được thể hiện rõ (ngoài
đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật THADS 2014). Tuy nhiên, án
kinh doanh thương mại là loại án có vị trí quan trọng trong lĩnh vực THA, xuất phát
từ tính chất và giá trị cần được THA. Vậy, căn cứ nào để CQTHADS thụ lý, tổ chức
thi hành các bản án, quyết định có yếu tố "kinh doanh thương mại"?
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 "Hoạt động thương mại là hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác". Ngày nay
xã hội ngày càng phát triển thì các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận càng
nhiều, các hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng và phong phú, cũng
vì vậy các tranh chấp, các vụ việc liên quan đến hoạt động kinh doanh thương mại
xảy ra nhiều hơn.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án gồm có:
(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
(iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
(iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên


của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,

hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.
(v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Điều 31 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định những yêu
cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, bao gồm:
(i) Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội
đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
(ii) Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết
tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
(iii) Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng
không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay,
tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
(iv) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận
bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công
nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có
yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
(v) Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài.
(vi) Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Cần hiểu rằng bản án, quyết định dân sự được đề cập trong Luật THADS là
bao hàm cả bản án, quyết định về kinh doanh, thương mại. Do tính chất tương đồng
giữa vụ án và việc dân sự với vụ án và việc kinh doanh, thương mại nên pháp luật
THADS không tách bạch giữa pháp luật THADS với pháp luật THAKDTM. Những
quy định của pháp luật THADS cũng chính là các quy định của pháp luật
THAKDTM. Do đó, không tồn tại một hệ thống pháp luật THAKDTM chuyên biệt,
độc lập so với hệ thống pháp luật THADS nói chung.
Như vậy, THAKDTM là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo



đảm thi hành phần tài sản, lợi ích của các bên trong bản án, quyết định của cơ quan
có thẩm quyền trong vụ án kinh doanh thương mại.
1.2. Đặc điểm của thi hành án kinh doanh, thương mại
Theo quy định của Luật THADS thì THA trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại là một hình thức cụ thể của hoạt động THADS. Đó cũng là hoạt động hành
chính - tư pháp, do các CQTHA có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật THA quy định. THAKDTM mang đầy đủ những đặc điểm của THADS,
tuy nhiên, THAKDTM vẫn có có một số đặc trưng riêng, cụ thể:
Thứ nhất, chủ thể THAKDTM chủ yếu là các doanh nghiệp. Xuất phát từ quy
định của Luật thương mại, Luật tố tụng dân sự, theo đó, đặc điểm để xác định các
vụ án kinh doanh thương mại là tranh chấp giữa các chủ thể kinh doanh với nhau là
vì mục đích lợi nhuận. Hiện nay, chủ yếu là tranh chấp giữa một bên là ngân hàng,
tổ chức tín dụng với một bên là doanh nghiệp. Ví dụ: Ngân hàng với công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc cũng có thể giữa Ngân hàng với các hộ kinh doanh... vấn đề
quan trọng là lý do của tranh chấp xuất phát từ hoạt động kinh doanh, mục đích của
việc vay vốn nhằm kinh doanh.
Thứ hai, tài sản để đưa ra thi hành trong án kinh doanh thương mại thường có
giá trị lớn. Tài sản của các chủ thể kinh doanh thương mại tồn tại dưới nhiều hình
thức khác nhau như: Tài khoản tại ngân hàng, sản phẩm hàng hóa,... và nhiều tài sản
tương đối đặc biệt như: Dây chuyền công nghệ, thương hiệu kinh doanh, nhãn hiệu
hàng hóa...đây đều là những tài sản có giá trị lớn.
Trong quá trình hoạt động, để có được vốn hoạt động thì các doanh nghiệp
phải thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó vay vốn ngân hàng
để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm
bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp là
hình thức được các doanh nghiệp sử dụng khá phổ biến. Do đó, doanh nghiệp
thường sử dụng chính tài sản sẵn có của mình để đảm bảo các khoản vay có giá trị,
các hợp đồng tín dụng trong hoạt động kinh doanh, thương mại, thường có giá trị

lớn. Dẫn tới khi đưa ra THA, các tài sản trong THAKDTM cũng là những tài sản
“khổng lồ” của doanh nghiệp.


1.3. Ý nghĩa của thi hành án kinh doanh, thương mại
Hoạt động THAKDTM là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án, cơ quan
có thẩm quyền liên quan đến các vấn đề về tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại. Với đặc thù là hoạt động hành chính - tư pháp, do các CQTHA có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật thi hành án quy định thì hoạt
động THAKDTM có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bao gồm ý nghĩa của hoạt động
THADS nói chung như:
Thông qua hoạt động THA, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà
nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý và công bằng
xã hội được thực hiện trên thực tế. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi
bản án, quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đầy đủ. Phán quyết của Tòa
án có trở thành hiện thực hay không tuỳ thuộc vào quá trình thực thi nó trong cuộc
sống. Thông qua giai đoạn THA, các bản án, quyết định của Tòa án mới có hiệu lực
trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Với ý nghĩa đó, THADS là một hoạt động
không thể thiếu được của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Thông
qua THA, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định
của Tòa án được bảo đảm thực thi. Khi công tác THADS được thực hiện nhanh
chóng, kịp thời sẽ có tác dụng tích cực đối với hoạt động xét xử, góp phần củng cố,
tăng cường uy tín của cơ quan xét xử trước xã hội. Không tổ chức tốt và kịp thời
công tác THA, thì các phán quyết của Tòa án chỉ là công lý trên giấy.
Mặt khác, THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán
quyết của Tòa án, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử.
Thông qua hoạt động thi hành án, các Thẩm phán TAND có thể rút ra cho mình
những bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử 2.
Ngoài ra, THADS có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật
của nhân dân. Đặc thù của THADS nước ta là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ

động, phát huy trách nhiệm của CHV, CQTHA. Trong THA còn có sự chỉ đạo sát
xao, cụ thể của chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có
liên quan, sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức

2

Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội. Tr 19-20


trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động THADS.
Do vậy, THA không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của CQTHA, CHV mà
còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, đoàn thể xã hội
và mọi thành viên trong cộng đồng. Nói cách khác đó còn là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị.
Thông qua các quy định của pháp luật THADS và áp dụng trong việc xử lý
các hành vi chống đối, cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình THA, mọi
người càng thấy được thái độ cụ thể của pháp luật đối với những người cố ý vi
phạm. Cũng từ đó nhận thức pháp luật được nâng lên, ý thức pháp luật của nhân
dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng cao. Tổ chức tốt công
tác THA còn tạo niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân vào tính nghiêm minh, công
bằng của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càng được củng cố vững chắc.
Bên cạnh những ý nghĩa chung của hoạt động THADS, hoạt động thi hành án
kinh doanh thương mại có ý nghĩa đặc trưng. Cụ thể:
Kinh doanh, thương mại là môi trường hiện đang có nhiều bất cập, nhất là
trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh và đảm bảo khôi phục quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp, thương nhân. Việc doanh nghiệp này chiếm dụng vốn
của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp, được Tòa án ra bản án mà không
thực hiện được sẽ khó thúc đẩy được sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy đòi hỏi
phải thực thi nhanh và hiệu quả bản án, quyết định của Tòa án trong lĩnh vực này. Đó là

một trong những yêu cầu cơ bản của việc phát triển kinh tế thị trường.
Tài sản để đưa ra thi hành trong án kinh doanh, thương mại thường có giá trị
lớn. Chính vì vậy, hoạt động kinh doanh thương mại hiệu quả đem lại khoản lợi
nhuận khổng lồ cho doanh nghiệp, các chủ sở hữu bao giờ cũng cần nguồn vốn lớn
đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế đất nước càng ngày càng phát triển.
Hơn nữa, hầu hết các vụ thi hành án đều tập trung vào lĩnh vực kinh doanh
thương mại, nhất là trong tình hình án tín dụng ngân hàng tồn đọng rất nhiều. Do
đó, hoạt động THAKDTM ngày càng phát triển sẽ giảm bớt phần nào số lượng án
tồn đọng trên tổng số vụ việc THADS.
1.4. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động thi hành án KDTM
Các yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động THAKDTM là những yếu tố, những


điều kiện cần thiết để hoạt động này chắc chắn được thực hiện. Có nhiều yếu tố
khác nhau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thi hành song những yếu tố
dưới đây có thể được coi là những yếu tố chính:
Một là, hoạt động THAKDTM chỉ phát triển được khi có một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh và đồng bộ về THADS, thể chế hóa được các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Pháp luật
THAKDTM phải tạo ra được một hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động thi
hành án, đồng thời là cơ sở để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp và cũng là công cụ để phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, khôi phục và bảo đảm trật tự quản lý Nhà nước. Có thể nói, một hệ
thống pháp luật về THAKDTM hoàn chỉnh là điều kiện cần, bảo đảm cho việc nâng
cao hiệu quả công tác THAKDTM được đúng đắn.
Hai là, bản án, quyết định dân sự phải thật sự rõ ràng, có tính khả thi. Bản án
là cơ sở pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Vì vậy, để
các bản án có thể thi hành trên thực tế thì trước hết bản án, quyết định của Tòa án về
kinh doanh, thương mại phải cụ thể về nội dung. Quyền và nghĩa vụ được ghi nhận
trong bản án, quyết định của Tòa án phải có khả năng thực thi trên thực tế. Ngoài ra,

để tránh hiểu sai, hiểu không đúng thì lời văn của bản án, quyết định phải rõ ràng,
dễ hiểu và chỉ hiểu theo một nghĩa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải đảm bảo tính chung thẩm cao. Có như vậy
mới hạn chế được tình trạng bản án, quyết định kinh doanh thương mại có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành nhưng sau đó lại bị hoãn, tạm đình chỉ, kháng nghị,
huỷ hoặc cải sửa làm ảnh hưởng tới quá trình thực thi bản án của các bên có liên
quan.
Ba là, công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong hoạt động THAKDTM phải
bảo đảm thực sự có hiệu quả. Khi tổ chức thực hiện pháp luật có liên quan đến hình
thức tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Việc đã có hệ
thống pháp luật thống nhất đồng bộ, dễ hiểu nhưng khi áp dụng pháp luật lại không
đúng tinh thần quy định thì việc đó cũng không đảm bảo hiệu quả của hoạt động
THAKDTM đúng. Có thể nói, việc THAKDTM rất khó khăn vì tính chất án kinh
doanh, thương mại thường rất phức tạp. Do đó, việc tuân thủ pháp luật, hiểu và áp


dụng quy định đó là việc rất quan trọng trong quá trình THAKDTM.
Bốn là, công tác giám sát, kiếm tra việc thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm
pháp luật phải thực hiện thật sự có hiệu quả. Giám sát, kiểm tra nhằm mục đích uốn
nắn, chấn chỉnh hoạt động chấp hành và thực thi pháp luật, kịp thời có những biện
pháp để bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, chính xác trong thực tế.
Năm là, nhà nước cần phải tạo ra một hệ thống CQTHA đủ mạnh để đảm bảo
hiệu quả trong hoạt động THAKDTM. Việc tổ chức hệ thống các CQTHA cũng cần
bảo đảm cho CHV có thể chủ động trong việc đưa ra các quyết định nhằm thi hành
theo đúng nội dung bản án, quyết định dân sự của Toà án. Ngoài ra, còn phải đáp
ứng một số yêu cầu đó là: (i) Xây dựng hệ thống CQTHA theo hướng giảm bớt các
khâu trung gian, làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn đi đôi với việc xác định cụ thể trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân trong THA; (ii) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
THA, nâng cao kỷ luật, kỷ cương pháp luật của Nhà nước; (iii) Bảo đảm tập trung,
thống nhất trong quản lý nhà nước đối với hoạt động thi hành án;

Sáu là, đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định. Nếu như nền kinh tế phát triển,
thì các chủ thể trong THAKDTM sẽ có điều kiện để thực hiện nội dung bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Nhưng nếu như điều kiện kinh tế khó khăn,
sẽ dễ dẫn tới tâm lý trốn tránh, chây ỳ trong hoạt động THA. Kinh tế phát triển,
“cục máu đông” của nền kinh tế là nợ xấu ngân hàng ít xảy ra, đồng nghĩa với việc
các tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa doanh nghiệp với ngân hàng cũng hạn
chế. Nền kinh tế xã hội phát triển, doanh nghiệp phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp có điều kiện thực hiện đúng nội dung thi hành án, CQTHA có
cơ sở về mặt tài sản để tiến hành cưỡng chế THA, không để vụ việc THADS rơi vào
tình trạng chờ đợi, kéo dài. Ngược lại, nền kinh tế xã hội chậm phát triển, kém năng
động và kém hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của
các chủ thể pháp luật.
Trong các vụ việc THAKDTM, một trong các bên THA là doanh nhân, doanh
nghiệp. Do vậy, nhận thức của các đối tượng này về việc thực thi pháp luật nói
chung và pháp luật THADS nói riêng thường cao hơn các đối tượng là cá nhân,
công dân. Trong xã hội, nền kinh tế phát triển năng động, hoạt động và trình độ của
các doanh nghiệp có tính chuyên nghiệp cao; khi phát sinh vụ việc về THAKDTM,


nhận thức về việc THA của các đối tượng này đối với vụ việc thường tốt hơn.
Ngược lại, với một xã hội mà nền kinh tế kém phát triển, kém năng động, các doanh
nghiệp hoạt động manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ nhận thức của các
doanh nghiệp đối với pháp luật nói chung hạn chế sẽ dẫn đến việc nhận thức và thực
hiện pháp luật THAKDTM bị hạn chế khi có vụ việc phát sinh.
Bảy là, đề cao vai trò của xã hội, được thể hiện thông qua các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể. Thực tiễn cho thấy, hầu hết mỗi người đều tham gia các cơ quan,
đoàn thể và tổ chức riêng. Ví dụ như có người là công chức nhà nước, có người là
Đảng viên, có người là hội viên Hội phụ nữ... Nhiều đơn vị doanh nghiệp cũng có
mối liên hệ phối hợp trong nhiều hoạt động. Trong khi đó trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức này không chỉ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật mà

còn có nghĩa vụ tuyên truyền, giáo dục cán bộ, nhân viên, hội viên của mình sống
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, trong một số trường hợp hoạt động
THAKDTM có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ phối hợp với các cơ quan, tổ chức,
các doanh nghiệp với nhau. Vì vậy, có thể coi các cơ quan, tổ chức vừa có trách
nhiệm giáo dục, thuyết phục người phải THAKDTM tự nguyện thực hiện bản án,
quyết định của Toà án, vừa thể hiện nghĩa vụ của mình trong việc phối hợp với
CHV để THAKDTM. Yếu tố văn hóa - xã hội có vai trò quan trọng trong việc hình
thành quan điểm ý thức, thái độ của con người đối với các vấn đề của đời sống xã
hội, trong đó có THAKDTM. Yếu tố văn hóa - xã hội có tác động hai chiều đối với
hoạt động THAKDTM. Văn hóa, xã hội có những tác động tích cực đến việc thực
thi pháp luật nếu như các chủ thể có trình độ nhận thức, ý thức tuân thủ, hiểu biết về
pháp luật THA. Khi xảy ra vi phạm và đã có phán quyết của cơ quan có thẩm
quyền, hành vi vi phạm lại chịu sự lên án của cộng đồng, dư luận thì ít nhiều tác
động đến ý thức của các chủ thể kinh doanh thương mại, tác động làm các chủ thể
tự nguyện hơn trong hoạt động THA. Ngược lại, cũng có trường hợp yếu tố văn hóa
- xã hội cũng là yếu tố cản trở việc thực hiện hoạt động THA. Khi trình độ nhận
thức của các chủ thể trong lĩnh vực THAKDTM chưa cao thì các chủ thể còn gây
khó dễ, thiếu hợp tác trong vấn đề THA.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
THADS là giai đoạn có ý nghĩa quyết định trong việc bảo đảm thực thi các


bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Vấn đề bảo đảm hiệu lực bản
án, quyết định của Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động Nhà nước,
là nguyên tắc Hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động THA ở nước ta.
THAKDTM cũng là một khái niệm mới chưa được định nghĩa. Qua nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn THADS ở nước ta hiện nay, tác giả cho rằng
THAKDTM là hoạt động hành chính - tư pháp, do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo đảm thi hành
phần tài sản, lợi ích của các bên trong bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án

kinh doanh, thương mại.
Là một dạng của hoạt động THA, THAKDTM ngoài những dấu hiệu đặc
trưng chung của THA, còn có những nét riêng, đặc thù phân biệt với các loại hình
THA khác như chủ thể có thể là doanh nghiệp, hoặc cá nhân, nhưng phải mang mục
đích lợi nhuận. Trên thực tế, chủ thể của việc THAKDTM chủ yếu là doanh nghiệp,
trách nhiệm về tài sản của các doanh nghiệp này chỉ trong phạm vi vốn góp vào
doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác minh tài sản của doanh nghiệp dựa trên số vốn các
thành viên cam kết góp vào doanh nghiệp và các văn bản, giấy tờ ghi nhận quá trình
góp vốn đó để xác định trách nhiệm của các thành viên công ty đối với các khoản
nợ, tài sản để đưa ra thi hành trong án kinh doanh, thương mại thường có giá trị lớn.
THAKDTM có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án kinh
doanh, thương mại nói riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Bản án, quyết
định của Tòa án chỉ là những phán quyết trên giấy, nếu nó không được thực thi trên
thực tế. Hoạt động THADS nói chung và THAKDTM nói riêng có hiệu quả sẽ góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân, đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật THADS, THAKDTM phải được thực
hiện theo hướng: Xây dựng được bộ máy cơ quan quản lý THADS, CQTHADS
thống nhất, tập trung, tinh gọn, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thiết lập được
cơ chế xã hội hóa từng bước hoạt động THADS, làm giảm những chi phí cho nhà
nước, phát huy tính tự nguyện của công dân trong quá trình tổ chức THA.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về THAKDTM.
2.1.1. Đối tượng thi hành án kinh doanh, thương mại

Theo quy định tại Điều 2 Luật THADS thì đối tượng THAKDTM chính là
Bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền bao gồm Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại.
Tòa án là cơ quan duy nhất được quyền xét xử tranh chấp kinh doanh thương
mại. Thông thường các chủ thể nền kinh tế khi có tranh chấp kinh doanh thương
mại cũng thường lựa chọn Tòa án giải quyết. Số lượng vụ việc Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại xử lý thường ít. Vì vậy, các bản án quyết
định về kinh doanh, thương mại cần đưa ra thi hành chủ yếu do Tòa án ban hành.
Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có quyền xem xét
đưa ra các quyết định, phán quyết khi giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương
mại. Đây có thể nói là nét đặc thù chỉ có trong đối tượng THAKDTM. Thực tế các
loại vụ việc khác không được Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh giải quyết. Ví dụ như án hôn nhân gia đình, án lao động luôn được giải quyết
bằng bản án, quyết định của Tòa án. Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh được ra đời khi nền kinh tế phát triển, hạn chế nảy sinh nhiều tranh chấp
giữa các chủ thể kinh doanh, trong hợp đồng kinh tế giữa các bên thường đã ghi
nhận việc lựa chọn tổ chức trọng tài thương mại nào có thẩm quyền giải quyết. Đối
với Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh chỉ giải quyết khi có hoạt động hạn chế cạnh
tranh, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp vi phạm quy định của
Luật cạnh tranh.
2.1.2. Quyết định thi hành án kinh doanh, thương mại
* Về thẩm quyền ra quyết định THAKDTM:


×