Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tiểu luận chính trị học tìm hiểu về quyền lực nhà nước nhật bản tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.78 KB, 20 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU.
*Lí do chọn đề tài.
Chính trị là một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp trong đời sống xã hội,
nó là một hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các
quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà Nước; là sự
tham gia của nhân dân vào các công việc của Nhà nước và xã hội; là hoạt
động thực tiễn của các giai cấp, Đảng phái, Nhà nước nhằm tìm kiếm những
khả năng thực hiện đường lối và những chủ trương, mục tiêu đề ra nhằm thỏa
mãn lợi ích. Trong chính trị thì quyền lực chính trị mang tính hạt nhân, nó là
động lực, mục tiêu và là yếu tố ảnh hưởng sâu sắc nhất tới các hoạt động
chính trị. Quyền lực chính trị lấy quyền lực Nhà Nước làm trọng tâm,lấy nó
làm công cụ thực hiện hoạt động chính trị chủ yếu của mình.
Chính trị có mối quan hệ rất mật thiết đối với các lĩnh vực khác trong
đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa và nhiều lĩnh vực khác.Các quốc gia trên
thế giới luôn có xu hướng xây dựng một hệ thống quyền lực chính trị đặc biệt
là quyền lực Nhà Nước vững mạnh nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội vì
hệ thống chính trị tác động mạnh mẽ tới việc phát triển của mỗi quốc gia.
Trên thế giới hiện nay có các hình thức tổ chức quyền lực chính trị khác nhau
tùy thuộc vào đặc điểm văn hóa, lịch sử, địa lí của các quốc gia như hình thức
quân chủ lập hiến, hình thức cộng hòa dân chủ, ....Để sử dụng những quyền
lực chính trị cho sự phát triển của quốc gia không phải điều dễ dàng, đòi hỏi
những chủ thể quyền lực cần phải biết cách vận dụng các công cụ, phương
pháp quyền lực chính trị một cách khéo léo nhằm đạt được mục tiêu của
mình. Chính điều đó và những tác động của chính trị tới các lĩnh vực đời sống
xã hội ấy mà nhà chính trị học, nhà triết học Platon(482-347 TCN) đã cho
rằng “ Chính trị là nghệ thuật cai trị”.
Việt Nam đang trên đường hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề phát triển
đất nước là nhiệm vụ quan trọng, tất yếu của nước ta. Để làm được điều đó thì
các hệ thống chính trị (Hệ thống quyền lực Nhà Nước) cần phát huy vai trò
1



lãnh đạo, tác động tích cực để thúc đẩy các yếu tố kinh tế- xã hội phát
triển.Việc giao lưu quốc tế cũng tạo điều kiện cho Việt Nam học hỏi những
kinh nghiệm trong nghệ thuật sử dụng hệ thống quyền lực chính trị đặc biệt là
quyền lực Nhà Nước trong vấn đề thúc đẩy kinh tế phát triển và duy trì ổn
định xã hội. Do đó việc tìm hiểu các hình thức quyền lực các quốc gia trên thế
giới là một việc hợp lí và cần thiết.
Ở đây em xin tìm hiểu hình thức quyền lực( Quyền lực Nhà Nước Nhật
Bản) vì Nhật Bản là một trong những quốc gia có hệ thống chính trị tương
đối hoàn thiện, việc sử dụng quyền lực chính trị đã mang lại hiệu quả cao
thông qua hình thức quyền lực Nhà Nước quân chủ lập hiến. Với hình thức
quyền lực này Nhật Bản sử dụng một cách hiệu quả trong việc tác động thúc
đẩy đất nước phát triển, Đưa Nhật từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trở
thành quốc gia phát triển thứ 3 trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, em xin chọn đề tài “ Tìm hiểu về quyền lực Nhà Nước Nhật
Bản” từ đó tìm ra những kinh nghiệm quý cho việc xây dựng hệ thống quyền
lực chính trị ( đặc biệt là quyền lực Nhà Nước Việt Nam) ngày càng vững
mạnh hơn.
* Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
Phương pháp phương pháp và tổng hợp, phương pháp hệ thống…
Phương pháp so sánh…
Từ đó phân tích, tổng quát và đưa ra những kết luận về vấn đề nghiên
cứu.

2


B.NỘI DUNG
I. Tổng quan về hệ thống quyền lực chính trị.

1. Khái niệm quyền lực chính trị.
Cho tới nay có nhiều cách tiếp cận về khái niệm quyền lực chính trị:
-Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp, các nhóm, các lực lượng
xã hội dùng để chi phối, tác động đến quá trình tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước nhằm tối đa hóa lợi ích cho mình.
- Quyền lực chính trị là quyền lực của nhà nước, các Đảng chính trị, các
tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức bầu cử, các cơ quan tự quản địa phương.
-Quyền lực chính trị là quyền của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn
xã hội hay của nhân dân( trong điều kiện chủ nghĩa xã hội); nó nói lên khả
năng của một giai cấp nhằm thực hiện lợi ích khách quan của mình. Quyền
lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là “ bạo lực có tổ chức của một giai cấp
để trấn áp giai cấp khác”
-Quyền lực chính trị là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ
giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình- chủ yếu thông qua đấu tranh giành, giữ
và thực thi chính quyền.
-Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết
định, định đoạt những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và
hoạt động để đảm bảo sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một
chính Đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo;
định đoạt điều khiển bộ máy nhà nước, xây dựng, phát triển kinh tế xã hội
trong một quốc gia và quan hệ chính trị- kinh tế- ngoại giao với các nước
khác và các tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm chiều hướng phát
triển quốc gia phải phù hợp với lí tưởng giai cấp.
Như vậy từ các góc độ trên ta có thể hiểu: Quyền lực chính trị là quyền
được sử dụng sức mạnh chính trị cho mục đích chính trị.
2. Cấu trúc và đặc điểm của quyền lực chính trị (QLCT).
- Cấu trúc QLCT
3



chủ thể QLCT gồm tổ chức và cá nhân

đối tượng gồm nhóm xã hội, giai cấp và tập đoàn người

mục tiêu QLCT

Nội dung của việc thực thi QLCT

Công cụ QLCT

Phương pháp QLCT

-Đặc điểm:
QLCT có bản chất giai cấp.
QLCT có tính xã hội.
QLCT có tính lịch sử.
QLCT có tính tập trung.
QLCT có tính tha hóa.
3. Chức năng của QLCT.
-Một là:Lập ra hệ thống chính trị của xã hội.
-Hai là: Tổ chức đời sống chính trị, thiết lập các quan hệ chính trị.
- Ba là: Quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.
-Bốn là: Lãnh đạo các cơ quan quyền lực, các hoạt động chính trị và phi
chính trị.
-Năm là: Kiểm soát các quan hệ chính trị và các quan hệ xã hội.
-Sáu là: Lập ra một kiểu cầm quyền nhất định đặc trưng cho xã hội, một
chế độ chính trị và chế độ nhà nước nhất định.
4. Quyền lực Nhà Nước(QLNN).
Quyền lực nhà nước là quyền lực trung tâm của QLCT.
4



QLNN tác động tới đông đảo các đối tượng thông qua các công cụ
như thiết chế,đường lối, chủ trương, quân đội, nhà tù cảnh sát, chính
sách pháp luật.…
QLNN có tổ chức và mức độ tập trung cao.
QLNN là một loại QLCT đặc biệt do đó mang đầy đủ các đặc trưng của
QLCT, tuy nhiên QLNN được đảm bảo thực thi thông qua các công cụ do đó
mang tính chất cưỡng chế. QLNN có tính chất đặc quyền mà các loại quyền
lực khác không thể có.
II.Hệ thống chính trị ở Nhật Bản
1.Giới thiệu về đất nước Nhật Bản.
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Nhật Bản là quốc gia có hơn 3000 đảo lớn nhỏ trải dọc bờ biển Thái
Bình Dương của Châu á. Nhưng Nhật Bản được tạo bởi 4 đảo lớn đó là:
Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu theo chiều từ Bắc vào Nam.
Diện tích: Trên đất liền: 377906,97 km² , rộng thứ 60 trên thế giới, lãnh
hải: 3091 km².
Khí hậu Nhật Bản có sự phân hoá đa dạng theo chiều Bắc – Nam: phía
Bắc có khí hậu ôn đới gió mùa, cận nhiệt gió mùa ở phía Nam.
Các đảo Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu ôn hòa. Ở hầu hết các miền
của Nhật Bản đều có 4 mùa rõ rệt. Mùa xuân và mùa thu là những mùa dễ
chịu nhất trong năm. Vào mùa đông tại Tokyo, trời lạnh vừa với độ ẩm thấp
và đôi khi có tuyết, trái với mùa hè có nhiệt độ và độ ẩm cao. Vì có mưa
nhiều và khí hậu ôn hòa nên trên khắp quần đảo Nhật Bản đều có những cánh
rừng màu mỡ và cây cối xanh tốt.
Do quần đảo Nhật Bản nằm phía trên hai vùng địa chất thường xuyên
tương tác là vành đai núi lửa Thái Bình Dương và khu vực địa chấn vành đai
Thái Bình Dương nên lớp vỏ địa chấn phía dưới không bền vững khiến cho
Nhật Bản có nhiều trận động đất hơn bất cứ nước nào trên thế giới. Hiện nay


5


tại Nhật Bản có khoảng 80 núi lửa đang hoạt động. Nhiều ngọn núi lửa đang
được theo dõi sát sao để tránh hiểm hoạ, rủi ro.
Nhật Bản là quốc gia chịu nhiều thiên tai và rất nghèo các tài nguyên
thiên nhiên.

Bản đồ Nhật Bản.

6


1.2. Dân cư và xã hội.
Đường bờ biển dài (khoảng 29750km), nhiều vũng, vịnh, biển có nhiều
ngư trường lớn, các thành phố lớn của Nhật tập trung chủ yếu ở đây, do đó
dân cư Nhật Bản tập trung đông ở các vùng ven biển. Theo thống kê, mật độ
dân số của Nhật Bản lớn thứ 30 trên thế giới: 339 người/km2 năm 2005.
Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ 10 thế giới với ước tính
khoảng 127,96 triệu người tính đến tháng 3 năm 2011. Vùng thủ đô Tokyo và
một vài tỉnh xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu
người sinh sống.
Nhật Bản cũng là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất
thế giới, trung bình là 81,25 tuổi cho năm 2006. Tuy nhiên, dân số Nhật đang
lão hóa do hậu quả của sự bùng nổ dân số sau Thế chiến thứ hai. Năm 2004,
19,5% dân số Nhật trên 65 tuổi.
Hầu hết dân cư Nhật Bản sống ở những vùng đồng bằng nhỏ ven biển.
Mật độ dân cư cao nhất tại các vùng đồng bằng duyên hải phía Thái Bình
Dương. Tất cả những vùng này đều được công nghiệp hoá cao độ và có các

chuỗi đô thị lớn. Năm 1920, khoảng 19% dân số Nhật Bản sống ở thành thị
và trừ giai đoạn cuối của thời kỳ chiến tranh, con số này đã liên tục tăng lên
tới tỷ lệ 78,1% vào năm 1995. Dân số tiếp tục tập trung ở một vài thành phố
chủ yếu, đặc biệt ở các vùng đô thị của Tokyo, Osaka và Nagoya, với 43,6%
dân số toàn quốc.
Có thể nói nền giáo dục của Nhật vào nhóm nước có nền giáo dục phát
triển nhất thế giới, do đó trình độ dân trí rất cao.
Nhật có nền văn hóa phát triển, những văn hóa truyền thống của Nhật
được đất nước này rất quan tâm và giữ gìn và phát triển.
Nền kinh tế của Nhật đứng thứ 3 thế giới sau Hoa kỳ và Trung Quốc.
Trước 2011 Nhật luôn giữ vị trí thứ 2 thế giới.

7


2.Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Nhật Bản.
Cho tới nay khoa học chính trị Nhật vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về
khái niệm “ hệ thống chính trị”. Theo cách trình bày của giáo sư Taniguchi
Masaki thì hệ thống chính trị Nhật bao gồm hệ thống nhà nước Nhật và hệ
thống các Đảng phái, còn theo cách Giáo sư Susumu Takahashi lại xem xét hệ
thống chính trị Nhật như cấu trúc bao gồm các thành tố liên hệ tương tác với
nhau trong quá trình chính trị, bao gồm chính phủ và các thiết chế quyền lực
Trung Ương, các nhóm chính Đảng và các nhóm lợi ích. và tầng cuối cùng là
xã hội công dân. Ở Nhật sử dụng thuật ngữ “politikali sysutemu”.
Những đặc điểm của hệ thống chính trị nhật:
-Thứ nhất: hệ thống chính trị ở Nhật Bản là hệ thống chính trị của một
nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển đến trình độ cao dưới hình thức một chính
thể quân chủ lập hiến.
- Thứ hai: hệ thống chính trị ở Nhật Bản là hệ thống chính trị đa nguyên,
đa Đảng. Có rất nhiều Đảng ở Nhật tuy nhiên chỉ có 5 Đảng luôn giành vị trí

cao trong các lần bầu cử: Đảng Tự Do Dân Chủ( LDP); Đảng Dân chủ; Đảng
Komei( Công Minh), Đảng Cộng Sản Nhật Bản, Đảng Xã Hội Dân Chủ.
- Thứ ba: Mang đậm tính gia trưởng ở Châu Á. Nó được thể hiện sự
tham gia hạn chế của phụ nữ của Nhật vào hoạt động chính trị. Ngoài ra vẫn
còn tồn tại mối quan hệ “ Tôn chủ -Thần thuộc” trong đời sống chính trị của
Nhật. Tính chất gia trưởng còn thể hiện ở tính “ cha truyền con nối” trong lịch
sử hình thành chính khách Nhật bản hiện đại.
-Thứ tư: Hệ thống chính trị Nhật có sự thay đổi cho phù hợp với thời đại
và hoàn cảnh đất nước và quốc tế.Hệ thống chính trị Nhật được tổ chức theo
nguyên tắc đa nguyên, đa đảng, với sự tham gia chủ yếu của 5 chính đảng lớn.
các chính Đảng cùng các nhóm lợi ích đều đóng vai trò quan trọng chính trị
Nhật hiện đại. Tuy nhiên mỗi Đảng lại có những tổ chức,tư tưởng khác nhau
cho nên các chính đảng này được chia thành 2 loại hình cơ bản:

8


Loại thứ nhất là “Đảng thân hào” hay “ Đảng các ông nghị”, hay được
coi là “đảng lợi ích” Đảng tiêu biểu cho loại hình này là Đảng Tự Do Dân
Chủ( LDP);Đảng Xã Hội Dân Chủ, Theo mô hình này các Đảng không có hệ
thống tổ chức phức tạp từ Trung ương tới cơ sở. các đảng viên chủ yếu là
chính khách cao cáp, thuộc tầng lớp thượng lưu được sự hậu thuẫn của các thế
lực quân phiệt hoặc sự ủng hộ của các dòng tộc.
Loại thứ hai là “ Đảng Đại chúng” Đảng tiêu biểu theo mô hình này
là:Đảng Cộng Sản Nhật Bản,Đảng Komei ( Công Minh). Hai Đảng này được
coi là “ chính Đảng ý thức hệ”. Đảng có tổ chức, tư tưởng rõ ràng.
3. Hệ thống quyền lực Nhà Nước của Nhật.
3.1. Trước chiến tranh thế giới II(1868-1945).
Ngay từ thời kì cải cách Minh Trị (1868) Nhật đã xây dựng Nhà Nước
theo mô hình quân chủ lập hiến và tân theo nguyên tắc “ Tam quyền phân

lập”. Tuy nhiên thời kì đầu quyền hành pháp luôn được đề cao., phạm vi
quyền lực hành chính còn lớn, nhân danh Thiên Hoàng, bộ máy hành chính
được trao cho những đại quyền nằm ngoài tầm kiểm soát của tất cả các thiết
chế chính trị khác.
Ưu điểm của tổ chức hành chính này là Nhà Nước có thể huy động tối đa
mọi nguồn lực của đất nước vào các mục tiêu,tiến hành các chính sách cải
cách mạnh mẽ nên nhanh chóng đưa Nhật từ một nước nghèo nàn, lạc hậu
thành một cường quốc trong vòng 30 năm. Tới đầu thế kỉ XX Nhật đã tuyên
bố mình là đế quốc ngang hàng với các đế quốc ở châu âu.
Nhược: Do quyền lực không được kiểm soát nên xu hướng quân phiệt
ngày càng gia tăng . Sau chiến thắng 1905 với quân của Nga Hoàng, Nhật
càng củng cố thêm địa vị của Thiên Hoàng và mô hình nhà nước đại quyền.
dẫn tới đế quốc Nhật trở thành phát xít đi xâm lược, gây chiến tranh trên thế
giới và cuối cùng bị thảm hại ở chiến trường Châu Á-Thái Bình Dương trong
chiến tranh thế giới II.

9


3.2. Sau chiến tranh thế giói thứ II(1945-nay).
Sau chiến tranh Nhật vẫn tiếp tục duy trì hệ thống quyền lực Nhà Nước
theo quân chủ lập hiến. Và duy trì nguyên tắc “ Tam quyền phân lập”.
Sau chiến tranh, có nhiều thay đổi trong cơ cấu QLNN của Nhật, Nếu
trước chiến tranh quyền lực chủ yếu tập trung trong tay của Thiên Hoàng
nhưng sau chiến tranh thì quyền lực tập trung trong tay của thủ tướng.
Tuy nhiên thủ tướng phải chịu sự giám sát của 2 nghị viện trong Quốc
Hội và tòa hiến pháp có thẩm quyền nhằm ngăn chặn các quyết định vi hiến
của Chính Phủ.
Hệ thống quyền lực này của Nhật được xây dựng trên hình mẫu của Anh
và một số nước phương tây.

Thiên Hoàng về danh nghĩa là tối cao nhưng chỉ là tượng trưng, không
được tham gia vào chính trị. Chính trị là việc của các nghị viên được bầu ra ở
các địa phương, thủ tướng lại do các nghị viên bầu ra. Nhật không áp dụng
chế độ tổng thống được trực tiếp bầu ra như hoa kỳ, mà chọn chế độ nội các
nghị viên kiểu Anh.
Tuy nhiên do đặc trưng văn hóa và nếp nghĩ của Nhật nên nền dân chủ
kiểu đầu phiếu và nền tự trị địa phương đã không phát triển thành như các
nước phương tây mà biến thành kiểu tập quyền vào cơ quan ở trung ương.
Chính quyền địa phương đã biến thành cơ quan được chính phủ trung ương
chia sẻ quyền hạn cho, nhận trợ cấp để đại lý quyền hành chính của nhà nước
trung ương. Chính quyền địa phương thực ra chỉ làm cơ quan thầu khoán cho
Chính Phủ.
Nhật bản từ xưa là nước với chế độ Mạc Phủ do đó chính quyền kiểu
phương tây không nảy nở được.
Chủ nghĩa dân chủ kiểu cũng không được như lý tưởng. Nghị viện (Quốc
hội) đã không trưởng thành được về quyền hạn, mà thực chất chỉ là cơ quan
mô giới nguyện vọng điều trần tới chính phủ. Ở Hoa kỳ, mỗi khi tổng thống
hay quan chức trung ương làm điều bất chính, thì lập tức các Nghị Viện mở
10


cuộc điều trần để điều tra.Làm chính trị là việc của Phủ lập pháp (Nghị viện),
còn hành pháp (Chính phủ trung ương) chỉ thi hành cho đúng chính sách đó
thôi. Tuy nhiên, ở Nhật Bản thì tình trạng là ngược lại.
Những điều này được quy định rõ trong bản hiến pháp ban hành ngày 3
tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực ngày 3 tháng 5 năm 1947. Bản hiến pháp
này bao gồm 11 chương, 103 điều khoản.
Bản hiến pháp này có 1 số nội dung cơ bản :
- Hoàng đế là biểu tượng của quốc gia và sự thống nhất của dân tộc. Mọi
hoạt động của Hoàng đế phải diễn ra trong khuôn khổ của hiến pháp.

- Chủ quyền tuyệt đối thuộc về nhân dân.
- Nhật Bản phủ nhận vĩnh viễn chiến tranh như là một quyền tối cao của
đất nước, từ bỏ đe doạ hoặc sử dụng vũ lực làm phương tiện giải quyết tranh
chấp với các quốc gia khác (Nội dung điều 9)
-Các quyền cơ bản của con người được hiến pháp đảm bảo và là những
quyền vĩnh viễn và bất khả xâm phạm.
- Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy
nhất có quyền lập pháp. Quốc hội có 2 viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị
viện, trong đó Hạ nghị viện có thẩm quyền hơn Thượng nghị viện. Nghị sỹ
của cả hai viện đều do dân bầu ra.
-Nội các thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc
hội. Đây là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của chính phủ, lập ra chính sách và
kế hoạch của chính phủ, chỉ đạo các Bộ, quản lý công tác đối nội và đối ngoại,
nộp các đề nghị về lập pháp lên Quốc hội nhân danh tiểu ban thực hiện.
- Quyền tư pháp do Toà án tối cao và các Toà án cấp dưới sử dụng. Toà
án tối cao có quyền quyết định cuối cùng tính hợp hiến của các đạo luật và
các văn bản quy phạm.
- Chế độ tự quản địa phương được thiết lập rộng rãi. Các quan chức địa
phương đều do dân cử và có nhiều quyền hạn hơn trong thuế và pháp luật.

11


3.2.1. Cơ quan Lập pháp: Thượng Viện và Hạ Viện (Quốc Hội).
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan lập
pháp duy nhất ở Nhật Bản.Hiện nay Quốc hội gồm Hạ nghị viện với 480
ghế và Thượng nghị viện với 242 ghế. Các nghị sỹ của Hạ viện được bầu
theo nhiệm kỳ 4 năm song có thể kết thúc trước nhiệm kỳ nếu Hạ viện bị
giải tán. Hạ nghị sỹ được bầu theo hai cách: 300 người được bầu theo 300
đơn vị bầu cử nhỏ, 180 nghị sỹ được lựa chọn theo tỷ lệ phiếu các đảng

giành được ở 11 khu vực bầu cử.
Các thượng nghị sỹ được bầu theo nhiệm kỳ 6 năm và cứ 3 năm thì bầu
lại một nửa. Theo luật bầu cử Thượng nghị viện sửa đổi được thông qua năm
2000 thì 146 ghế được bầu theo khu vực bầu cử lớn tương ứng với 47 tỉnh của
Nhật Bản, mỗi khu vực bầu từ 2 đến 8 đại biểu tỷ lệ với số dân, còn 96 ghế
được bầu theo khu vực bầu cử tỷ lệ toàn quốc, tức là 96 ghế này phân tỷ lệ
cho các đảng chính trị dựa trên kết quả của cuộc tuyển cử toàn quốc.
Các kỳ họp của hai viện gồm các kỳ họp thường xuyên, không thường
xuyên và các kỳ họp đặc biệt. Các kỳ họp thường xuyên của Quốc hội được
triệu tập 1 lần 1 năm vào tháng 12 và kéo dài 150 ngày. Dự thảo quan trọng
nhất được trình ở kỳ họp thường xuyên là ngân sách nhà nước của năm tài
chính tới. Hạ viện có quyền xem xét dự thảo này trước khi nó được trình ra
Quốc hội. Hạ viện còn được quyền ưu tiên hơn so với Thượng viện trong việc
chỉ định Thủ tướng mới và xem xét ký kết các hiệp ước. Hạ viện có quyền
đưa ra đề nghị tín nhiệm hoặc không tín nhiệm Nội các.
Thượng nghị viện không có quyền đưa ra những đề nghị không tín
nhiệm. Thượng viện có thể tạm thời thay Hạ viện đảm nhiệm các chức năng
của Quốc hội nếu và khi Nội các triệu tập một kỳ họp khẩn cấp của Thượng
viện trong lúc Hạ viện đã bị giải tán.
Trong Thượng Viện và Hạ Viện còn có hệ thống bầu cử. Được tổ chức:
Công dân Nhật đến tuổi 20 mới có quyền bầu cử và đến tuổi 25 mới
có quyền ứng cử vào Hạ Nghị viện, Hội đồng địa phương hay Thị trưởng. 30
12


tuổi mới có quyền ứng cử vào Thượng Nghị viện hoặc Tỉnh trưởng. Tháng
4/1998 Quốc hội Nhật Bản thông qua Luật bầu cử sửa đổi, cho phép công dân
Nhật ở ngoài nước được bỏ phiếu trong các cuộc tuyển cử toàn quốc tại các
cơ quan đại diện ngoại giao của Nhật ở nước ngoài, hoặc bỏ phiếu qua thư gửi
bưu điện.

Theo Luật bầu cử sửa đổi năm 2000, Hạ viện Nhật Bản có 480 ghế.
Trong đó 300 ghế được bầu ở các khu bầu cử nhỏ,chỉ bầu 1 ghế. 180 ghế còn
lại được bầu ở 11 khu trên toàn quốc, tại đây kết quả được quyết định theo tỷ
lệ phiếu mà các đảng chính trị giành được.
Tháng 10/2000 Quốc hội lại sửa đổi Luật bầu cử, cho phép cử tri có thể
bỏ phiếu hoặc cho một đảng hoặc cho một cá nhân trong danh sách các ứng
cử viên của các đảng. Hệ thống bầu cử mới này cũng rút bớt số thượng nghị
sỹ từ 252 xuống 242. Trong đó 96 ghế được bầu theo tỷ lệ trên toàn quốc còn
146 ghế được bầu ở các khu vực bầu cử.

Hình ảnh phiên họp nội các Nhật Bản.
3.2.2. Cơ quan hành pháp: Nội các
Quyền hành pháp thuộc về Nội các bao gồm Thủ tướng và các Bộ
trưởng chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Thủ tướng do Quốc hội
chỉ định và phải là thành viên của Quốc hội. Thủ tướng có quyền bổ
13


nhiệm và bãi miễn các Bộ trưởng. Các Bộ trưởng này phải là dân sự và đa
số là thành viên Quốc hội.
Nếu Hạ viện thông qua nghị quyết không tín nhiệm hoặc bác bỏ nghị
quyết tín nhiệm Chính phủ thì Nội các phải từ chức trừ phi Hạ viện bị giải tán
trong vòng 10 ngày.
Hiện nay, sau khi tinh giản, cơ cấu của Nội các bao gồm 1 văn phòng
Thủ tướng, 10 bộ và 2 cơ quan ngang bộ, cụ thể là: Bộ Môi trường, Bộ đất
đai, hạ tầng và giao thông, Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp, Bộ Nông,
lâm, ngư nghiệp, Bộ Y tế, lao động và phúc lợi, Bộ Giáo dục, văn hoá, thể
thao, khoa học và công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ
Quản lý công cộng, Nội vụ, bưu điện và viễn thông, Cục Phòng vệ, Uỷ ban an
toàn quốc gia.

Nhật Bản được chia thành 47 tỉnh, chính quyền địa phương có ở cấp
tỉnh, thành phố, thị xã và làng; mỗi cấp đều có hội đồng tương ứng do dân
bầu ra.
Theo thông tin mới nhất các danh sách những chính khách đã được bầu
cử vào nội các Nhật tại phiên họp mới nhất 26/12/2012.
Thủ tướng: Shinzo Abe
Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính: Taro Aso
Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông: Yoshitaka Shindo
Bộ trưởng Tư pháp: Sadakazu Tanigaki
Bộ trưởng Ngoại giao: Fumio Kishida
Bộ trưởng Giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học và công nghệ: Hakubun
Shimomura.
Bộ trưởng Y tế, lao động và phúc lợi xã hội: Norihisa Tamura
Bộ trưởng Nông lâm ngư nghiệp: Yoshimasa Hayashi
Bộ trưởng Kinh tế, thương mại và công nghiệp: Toshimitsu Motegi
Bộ trưởng Đất đai, hạ tầng, giao thông và du lịch: Akihiro Ota
Bộ trưởng Môi trường: Nobuteru Ishihara
14


Bộ trưởng Quốc phòng: Itsunori Onodera
Chánh văn phòng nội các: Yoshihide Suga
Quốc vụ khanh phụ trách tái thiết kinh tế: Akira Amari
3.2.3. Cơ quan tư pháp: Các hệ thống tòa án.
Bộ máy tư pháp hoàn toàn độc lập với các ngành lập pháp và hành
pháp, bao gồm toà án tối cao, 8 toà án cấp cao, trừ Hokkaido có 4 toà án cấp
tỉnh còn mỗi tỉnh có một toà án cấp tỉnh, một số toà án sơ thẩm. Ngoài ra,
Nhật Bản còn có các Toà án gia đình để xử lý những rắc rối nội bộ.
Toà án tối cao gồm 1 chánh án và 14 thẩm phán. Chánh án do Hoàng
đế bổ nhiệm trên cơ sở Nội các chỉ định, 14 thẩm phán do Nội các bổ nhiệm.

Việc bổ nhiệm các Thẩm phán Toà án tối cao được xem xét lại trong một cuộc
trưng cầu dân ý toàn quốc, được tổ chức trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
bầu các hạ nghị sỹ. Việc tái bổ nhiệm các chức vụ trên sau nhiệm kỳ 10 năm
được xem xét lại. Toà án tối cao có tiếng nói cuối cùng trong việc quyết định
tính hợp hiến của các đạo luật, mệnh lệnh, quy định hoặc quy tắc. Các thẩm
phán toà án cấp dưới do Nội các bổ nhiệm trên cơ sở danh sách những người
do Toà án tối cao đưa ra. Tất cả các thẩm phán đều độc lập trong việc xét xử
và chỉ tuân thủ hiến pháp và những đạo luật dưới đó, các vụ án xét xử công
khai , nhất là các vụ vi phạm chính trị, báo chí và nhân quyền.
3.2.4. Nhật Hoàng và Hoàng gia.
Theo Hiến pháp Nhật Bản, Nhật Hoàng là biểu tượng của quốc gia và sự
thống nhất dân tộc. Nhật Hoàng không có quyền lực đối với Chính phủ.
Hoàng gia Nhật Bản tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Đây là triều đại lâu dài
và liên tục nhất trên thế giới. Đương kim Nhật Hoàng AKIHITO sinh ngày 23
tháng 12 năm 1933 (ngày sinh của Nhật Hoàng được mặc nhiên coi là ngày
Quốc khánh của Nhật Bản) và lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989 sau cái chết
của cha Nhật Hoàng HIROHITO tức Hoàng đế Chiêu Hoà. Niên hiệu của
đương kim Nhật Hoàng là Bình Thành vì vậy năm 1989 theo lịch Nhật Bản là
năm Bình Thành 1.
15


Hoàng gia Nhật Bản.
III. NHỮNG KINH NGHIỆM, BÀI HỌC CHO VIỆT NAM XÂY
DỰNG HỆ THỐNG QUYỀN LỰC.
Việt Nam hiện nay đang tiến hành đi theo con đường chủ nghĩa hội. Do
vậy mô hình quyền lực nhà nước Việt Nam đang xây dựng là mô hình Nhà Nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực tập trung ở nhân dân.
Tuy Nhật và nước ta có hình thức xây dựng quyền lực Nhà Nước
không giống nhau, nhưng từ những tìm hiểu về quyền lực chính trị và quyền

lực Nhà Nước của Nhật ta có thể rút ra một số bài học, kinh nghiệm:
Thứ nhất: Cần củng cố hệ thống lập pháp, xây dựng hiến pháp nhằm
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam.
Nhật Bản được coi là một quốc gia có hệ thống luật pháp phát triển và
hoàn thiện trên thế giới. Việt Nam muốn củng cố hệ thống quyền lực nhà
nước cần phát triển hệ thống pháp luât, xây dựng hoàn chỉnh chương, điều,
khoản của pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ. Vì đối với Nhà Nước,

16


pháp luật cùng nhà tù, quân đội là những công cụ giúp nhà nước thực thi
quyền lực của mình.
Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cũng góp phần trong việc thực hiện
quyền làm chủ và vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai: Cần xây dựng mối liên hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Dù nước ta không tuân theo nguyên tắc “ Tam quyền phân lập” một
cách rõ ràng như Nhật nhưng cũng phân ra thành các cơ quan lập pháp ( Quốc
Hội), hành pháp ( Chính Phủ), tư pháp (tòa án và các cơ quan của viện kiểm
sát). Giữa các cơ quan này cần có sự phối hợp với nhau, lập pháp xây dựng hệ
thống pháp luât, hiến pháp. Hành pháp thực thi pháp luật và tư pháp có những
xét xử minh bạch, đúng pháp luật, Có như vậy mới đảm bảo được sức mạnh
của quyền lực nhà nước và thực hiện công bằng xã hội.
Thứ ba: Thực hiện tốt chế độ bầu cử quốc hội, công dân đủ 18 tuổi có
quyền bầu cử, quyền ứng cử và bãi miễn… nhằm phát huy vai trò làm chủ, là
chủ của nhân dân.
Thứ tư: Cần có sự rõ ràng trong vai trò, nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước.
Thứ năm: Các hoạt động quyền lực Nhà nước đặc biệt là hành pháp và tư pháp
cần minh bạch, tuân thủ đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, đúng quy luật.

Thứ 6: Giữa các cơ quan quyền lực ần có sự khống chế nhau tránh tình
trạng lạm dụng quyền lực hoặc vi hiến giữa các cơ quan.

17


C. KẾT LUẬN.
Nếu kinh tế được coi là cơ sở hạ tầng thì chính trị là kiến trúc thượng
tầng của một xã hội. Nó có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của một
quốc gia nó có thể thúc đẩy quốc gia đó ngày càng tiến bộ nếu nền chính trị
đó tiến bộ nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển của quốc gia đó nếu nó là
lạc hậu, phản động. Do vậy sự phát triển của hệ thống quyền lực chính trị
Nhật bản đã thúc đẩy Nhật bản phát triển, vươn lên nhóm các nước phát triển
hàng đâu trên thế giới.Trong tình hình thế giới đang ngày càng có nhiều diễn
biến phức tạp, chính trị lại càng trở lên nhạy cảm hơn bao giờ hết. Để ổn định
chính trị cần xác lập một quyền lực chính trị đủ mạnh để có thể đương đầu với
những khó khăn, diễn biến đó.
Sự phát triển quyền lực chính trị cũng đồng nghĩa với việc phát triển
quyền lực của Nhà Nước, vì đó là quyền lực trọng tâm của quyền lực chính
trị. Nước ta cần xây dựng quyền lực của Nhà Nước mạnh mẽ hơn nhằm thực
hiện tốt hơn mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Mặt khác sự phát triển về quyền lực còn góp phần trong việc chống lại
sự chống phá của các thế lực thù địch đang hướng vào Đảng và Nhà Nước ta
dưới những chiêu bài khác nhau của âm mưu “ Diễn biến hòa bình”.

18


CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. giáo trình chính trị học- Học Viên Báo Chí và Tuyên Truyền.

2. Một số mô hình hệ thống chính trị của các trên thế giới- Chủ biên Tô
Huy Rứa- Nhà Xuất Bản chính trị.
3. cùng một số tài liệu khác.

19


MỤC LỤC

20



×