Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Đảng bộ huyện Quảng Xương (Thanh Hóa) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.55 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ THU

ĐẢNG BỘ HUYỆN QUẢNG XƢƠNG (THANH HÓA) LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ THU

ĐẢNG BỘ HUYỆN QUẢNG XƢƠNG (THANH HÓA) LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KIM ĐỈNH

HÀ NỘI - 2012

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hội nhập với các nền văn hóa thế giới, việc
đổi mới nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở cơ sở được Nhà nước ta hết
sức quan tâm - Đây là vấn đề mang tính chiến lược của sự nghiệp văn hóa cả
nước nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một trong những chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
(3/1982). Đây là một chủ trương quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự
nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống và con người phù hợp với đòi hỏi của đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ V
của Đảng cũng đã ghi rõ: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là
đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú
trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, bảo đảm mỗi xã, phường ấp đều có
đời sống văn hóa. Tổ chức hơn nữa đời sống văn hóa mới” [23, tr.105].
Xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa, thông tin ở cơ sở là một trong
ba chương trình công tác chính hàng năm của Bộ văn hóa thông tin. Vì cơ sở
là nơi trực tiếp động viên, giáo dục xã hội và phát triển cá nhân, điều này
chứng tỏ việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một chủ trương
mang tính chiến lược lâu dài, thực hiện suốt trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở

nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được coi
là bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng XHCN. Đó là công cuộc xây dựng
kết cấu cơ sở hạ tầng văn hóa với mục tiêu chính là giáo dục hoàn thiện nhân
cách phát triển toàn diện: giáo dục đạo lý “mình vì mọi người, mọi người vì
3


mình”, giáo dục ý thức lao động sáng tạo, giáo dục phẩm chất đạo đức trong
sáng tình cảm lành mạnh, giáo dục cách ứng xử văn hóa trong mỗi cá nhân,
gia đình, xã hội.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà Nghị Quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VIII (16/7/1998) đã
nêu là:
“Phải xây dựng môi trường văn hóa từ trong mỗi gia đình, làng bản, xã
phường, khu tập thể, cơ quan… xây đựng đời sống văn hóa lành mạnh, đáp
ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân
dân. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao
tính tự quản của cộng đồng dân cư trong việc xây dựng nếp sống văn minh”
[21, tr.56].
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở chính là thực hiện một cách cụ thể,
thiết thực và sinh động chủ trương của Đảng là nghiên cứu và giáo dục sâu
rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại, khuyến khích nhân dân
lao động tham gia sự nghiệp văn hóa trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ.
Huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa) là một huyện đồng bằng ven
biển, được xem là “vệ tinh” của toàn tỉnh, do đó mọi hoạt động kinh tế - xã
hội, văn hóa của huyện có tác động rất lớn đến các vùng lân cận. Là huyện có
bề dày truyền thống cách mạng, nhiều phong tục tập quán tốt đẹp được lưu
giữ thông qua lễ hội truyền thống, các gia phả dòng họ, gia đình. Đặc biệt

được thể hiện trong quy ước, hương ước của làng, xã văn hóa. Thấm nhuần
Nghị quyết đại toàn quốc của Đảng khóa VII, khóa VIII, thực hiện chủ trương
của UBND tỉnh Thanh Hóa, trực tiếp là Sở Văn hóa - Thông tin, huyện ủy,
UBND huyện Quảng Xương đã tiến hành công tác xây dựng đời sống văn hóa
ở cơ sở nhằm tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, đời sống kinh tế phát
triển, trật tự an ninh quốc phòng được đảm bảo. Quảng Xương là một trong
những huyện đi đầu trong việc xây dựng làng văn hóa của tỉnh Thanh Hóa.

4


Từ năm 1991 đến nay, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của
huyện Quảng Xương đã có những thành tích to lớn, góp phần tích cực vào
việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chính trị, kinh tế- xã hội của huyện
nhà. Với những thành tựu đạt được, ngành Văn hóa thông tin huyện Quảng
Xương luôn là một trong những đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua toàn tỉnh.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, những đóng góp của công tác xây
dựng đời sống văn hóa đối với đời sống kinh tế xã hội, công tác xây dựng đời
sống văn hóa còn bộc lộ một số khó khăn, đặc biệt là việc nâng cao chất
lượng hoạt động của các phong trào văn hóa trong thời kỳ đổi mới.
Vì vậy, việc tìm hiểu “Đảng bộ huyện Quảng Xương (tỉnh Thanh Hóa)
lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991 đến năm 2010” có ý
nghĩa về mặt khoa học, thực tiễn và giáo dục.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ huyện Quảng
Xương (Thanh Hóa) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 1991
đến năm 2010” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Văn hoá và công tác xây dựng nền văn hoá là một vấn đề được nhiều
tác giả, cơ quan của Đảng và Nhà nước quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công
trình nghiên cứu văn hóa đã ra mắt bạn đọc. Đầu tiên phải kể đến các công

trình như: Văn hóa đổi mới (1994) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu lên
một số luận điểm về mối quan hệ giữa văn hóa và sự nghiệp đổi mới; Cơ sở
văn hóa Việt Nam và Bản sắc văn hóa Việt Nam (1998) của GS Trần Quốc
Vượng và Cơ sở văn hóa Việt Nam và Bản sắc văn hóa Việt Nam của PGS.TS
Trần Ngọc Thêm; Văn hoá và văn minh (1998) của Hồ Sỹ Quý; Văn hoá và
cách tiếp cận mới (1991) của Phan Ngọc; Văn hoá và văn hoá thế kỷ mới cuả
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, đã đưa ra nhiều cách hiểu, nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hoá và các cách tiếp cận nghiên cứu về văn hoá phong phú,

5


đa dạng. Đó là những tài liệu tác giả tham khảo định hình cho mình một quan
niệm đúng về văn hoá được sử dụng trong luận văn.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của văn hoá trong thời kỳ đổi
mới đất nước, đồng thời khắc phục loại bỏ những quan niệm sai lầm về văn hoá
đã có các công trình nghiên cứu như: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
đời sống văn hóa ở nước ta (1999) của GS Hoàng Vinh; Những vấn đề vê xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện nay (1985) của Nguyễn Văn Hy; Văn hóa và
xây dựng đời sống văn hóa của TS Nguyễn Hữu Thức; Xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đã bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm trên Tạp
chí Tư tưởng văn hoá - 2001; Những điểm mới về văn hoá trong văn kiện Đại
hội X của Bùi Đình Phong trên tạp chí Tư tưởng Văn hoá - 2006.
Cùng với công trình nghiên cứu về lĩnh vực văn hoá nói chung, cũng
xuất hiện những công trình nghiên cứu về đời sống văn hoá ở cơ sở, góp phần
làm rõ hơn những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn đối với đời sống văn
hoá tinh thần của mỗi người dân như: Một số giá trị văn hóa truyền thống với
đời sống văn hóa ở cơ sở nông thôn hiện nay (1998) của Phạm Việt Long và
Nguyễn Đạo Toàn; Các vùng văn hóa Việt Nam của Đinh Gia Khánh và Cù
Huy Cận;Văn hóa các vùng truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ của hội văn

nghệ dân gian Nghệ An; Nhiều công trình đã tổng kết thực tiễn cuộc vận động
xây dựng làng văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa cơ sở có giá trị như:
Xây dựng môi trường văn hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2006) do
Ban văn hóa Tư tưởng Trung ương ấn hành; Về xây dựng môi trường văn hoá
cơ sở (2004) của Tiến sĩ Văn Đức Thanh.
Trên cơ sở thực tiễn, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện đề tài khoa học
“Làng văn hóa Thanh Hóa” và trở thành một trong những địa phương đi đầu
trong cả nước về công tác nghiên cứu vấn đề này. Những năm 90 trở lại đây,
có các công trình nghiên cứu về làng văn hóa Thanh Hóa được công bố rộng
rãi như: Văn hóa làng và làng văn hóa Xứ Thanh (1995); Những làng văn hóa

6


tiêu biểu tỉnh Thanh (1998); Xây dựng làng văn hóa Thanh Hóa (2003) do Sở
Văn hóa Thông tin Thanh Hóa xuất bản, đã giới thiệu khái quát về truyền
thống văn hóa tiêu biểu ở một số làng điển hình ở Thanh Hóa. Luận văn Thạc
sĩ khoa học lịch sử của Bùi Thị Oanh với nội dung “Cuộc vận động xây dựng
làng văn hóa ở huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hóa” (2006).
Những công trình nghiên cứu trên bước đầu đưa ra những kết quả, giải
pháp trong việc xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở (làng văn hoá). Tuy
nhiên cho đến nay có rất ít công trình nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện
về sự lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa của Đảng bộ cơ sở, cũng như đánh
giá vai trò của đời sống văn hóa ở cơ sở đối với sự phát triển của kinh tế,
chính trị ở địa phương. Đây cũng là một trong những lý do tôi chọn vấn đề
này làm nội dung nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cho luận
văn của mình.
Tuy nhiên, các công trình trên là những tài liệu quý mà tôi có thể tham
khảo để thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát những vấn đề tư duy lý luận về xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở, luận văn làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh
đạo trong xây dựng đời sống văn hóa của huyện và những tác động của nó đối
với đời sống kinh tế - xã hội của huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, truyền thống lịch sử- văn
hóa, kinh tế - xã hội của huyện Quảng Xương; phác họa diện mạo các mặt của
đời sống văn hóa ở Quảng Xương trước năm 1991.
- Phác họa quá trình lành đạo xây dựng làng văn hóa của Đảng bộ
huyên Quảng Xương trong 20 năm đổi mới (1991-2010).

7


- Tổng kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế khó khăn trong quá
trình xây dựng. Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác lãnh đạo, tổ chức xây dựng các mặt của đời sống văn hóa cơ sở trong
thời gian tiếp theo.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở.
- Những tác động của việc xây dựng đời sống văn hoá cơ sở đối với đời sống
kinh tế, xã hội, chính trị của huyện Quảng Xương từ năm 1991 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn không gian: Địa bàn huyện Quảng Xương gồm 41 xã, 1 thị
trấn, 400 làng.
Giới hạn thời gian: Từ năm 1991 đến năm 2010. Năm 1991 là năm đầu
tiên huyện Quảng Xương thực hiện xây dựng làng văn hóa theo chủ trương

của tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, để có cơ sở so sánh, trong quá trình thực hiện
luận văn tôi có đề cập đến tình hình kinh tế xã hội của huyện trước năm 1991.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến vấn đề văn hóa.
- Kế thừa kết quả nghiên cứu về văn hóa từ trước đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic
và chú trọng phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu

8


Luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp liên ngành
để tìm ra mối liên hệ, tác động qua lại giữa đời sống văn hóa đối với tình hình
kinh tế xã hội trong hoàn cảnh lịch sử nhất định.
6. Đóng góp của luận văn
Từ quá trình lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của Đảng bộ
huyện Quảng Xương, dựa vào nguồn tư liệu phong phú, luận văn khôi phục
lại bức tranh về sự thay đổi diện mạo của đời sống văn hóa trước đổi mới
cũng như sự giao thoa những yếu tố giữa truyền thống và hiện đại trong đời
sống văn hóa từ 1991 đến năm 2010.
Từ thực tiễn nghiên cứu, nêu lên những điểm nổi bật, những điểm
mạnh, những hạn chế, những khó khăn trong quá trình đảng bộ huyện lãnh
đạo xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Trên cơ sở đó, đưa ra một số nhận xét
và bài học kinh nghiệm, mong góp phần nào việc nâng cao chất lượng hoạt
động của các phong trào văn hóa, hoàn thiện những bước đi trong quá trình
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Luận văn cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho công tác tuyên truyền vận

động xây dựng nếp sống mới văn hóa ở cơ sở địa phương, cho việc nghiên
cứu giảng dạy, học tập lịch sử địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo. Luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chƣơng 1: Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở từ năm 1991 đến năm 2000.
Chƣơng 2: Đảng bộ huyện Quảng Xương lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở từ năm 2001 đến năm 2010.
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm.

9


Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN QUẢNG XƢƠNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000

1.1. Cơ sở của việc xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn huyện
Quảng Xƣơng
1.1.1. Khái niệm văn hóa và đời sống văn hóa
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa
Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm người ta sinh ra ăn, mặc, ở trước rồi
mới hát, múa, vẽ, viết và bàn triết lý sau. Kinh tế là nền tảng của một xã hội,
là hạ tầng cơ sở. Chính trị pháp luật, văn hoá là những cái được xây dựng trên
nền tảng đó, là thượng tầng kiến trúc của xã hội.
Mác, Ănghen, Lênin là những người thầy, những lãnh tụ vĩ đại của giai
cấp công nhân đã làm một cuộc cách mạng thực sự trong vũ trụ quan, xây
dựng một học thuyết mới về văn hoá. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng văn hoá

bao gồm mọi sinh hoạt của con người, nó không chỉ hạn chế trong lĩnh vực tư
tưởng, đời sống tinh thần của xã hội. Văn hoá là tất cả những gì con người
xây dựng nên, tất cả những thành tích của loài người về mặt sản xuất, xã hội
và tinh thần.
Lênin đã đưa ra quan điểm được coi như một định nghĩa về văn hoá và
xây dựng nền văn hoá mới: “Nền văn hoá vô sản không phải từ trên trời rơi
xuống, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá
vô sản bịa ra. Tất cả cái đó là hoàn toàn nhảm nhí. Nền văn hoá vô sản phải là
sự phát triển hợp quy luật của cái vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới
ách áp bức của xã hội tư bản, của xã hội địa chủ, của xã hội quan liêu” [42,
tr.17]. Từ đó Lênin khẳng định: “Tất cả những con đường lớn nhỏ đó đã và
đang tiếp tục đưa tới nền văn hoá vô sản, cũng hệt như khoa kinh tế chính trị
10


do mác xây dựng lại đã chỉ ra cho ta thấy xã hội loài người tiến lên đấu tranh
giai cấp, tiến lên bước đầu của cuộc cách vô sản” [42, tr.20].
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là những phác thảo cơ bản
về nền văn hoá mới mang nội dung và đại diện cho giai cấp công nhân. Nền
văn hoá đó có truyền thống từ lâu đời, là tinh hoa của mỗi dân tộc và toàn
nhân loại.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Cùng những tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang chiếu sáng con đường chúng ta đi. Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam,
trong đó có lĩnh vực văn hoá, văn nghệ.
Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận sâu sắc về văn hoá: “… Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, văn
học… những công cụ sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện

sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là
sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với những nhu cầu đời sống,
những đòi hỏi của sự sinh tồn” [44, tr.431].
Người cũng đã nêu: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình cho quần chúng
3. Xây dựng xã hội: Một sự nghiệp có liên quan tới phúc lợi nhân dân
và xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế” [44, tr.431].
Nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá, vì vậy sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào xây
dựng đời sống văn hoá mới (1/1946). Tháng 4/1946, Người ký sắc lệnh thành
11


lập Uỷ ban trung ương vận động đời sống mới. Đến tháng 3/1947, Người viết
cuốn sách “Đời sống mới” để hướng dẫn việc xây dựng đời sống mới trong
các tầng lớp nhân dân, trong toàn bộ xã hội.
Khái niệm “Đời sống mới” được Hồ Chí Minh nêu ra bao gồm cả đạo
đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Trong đạo đức mới “nêu cao và thực
hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới”. Lối sống
mới (lối sống mà Hồ Chí Minh xây dựng cho mọi người được thể hiện ngay ở
bản thân của Người), trước hết là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó còn là
lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tinh hoa văn hoá nhân loại. Quá trình xây dựng lối sống mới cũng là quá
trình làm cho thói quen ở mỗi người thành phong tục tập quán của cả cộng
đồng, trong phạm vi một địa phương hay mở rộng ra cả nước. Nếp sống mới
mà chúng ta xây dựng phải kế thừa những truyền thống tinh thần tốt đẹp,
những thuần phong mỹ tục lâu đời của nhân dân: “Đời sống mới không phải

cái gì cũ cũng phải bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu,
thì phải bỏ. Thí dụ: ta phải bỏ hết tính lười biếng tham lam… Cái gì cũ mà
không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm
cúng, cưới hỏi quá xa xỉ ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt thì ta phát triển
thêm. Thí dụ: ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước tận hiếu với dân
hơn khi trước. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn ở cho hợp vệ
sinh làm việc cho nó ngăn nắp” [45, tr.426].
Như vậy việc xây dựng đời sống mới đã được Hồ Chí Minh nêu ra từ
rất sớm, bao gồm vấn đề lối sống, nếp sống, phong cách sống, chất lượng
sống,... Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm rất độc đáo
của Hồ Chí Minh về văn hoá. Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng
bộ mặt tinh thần ấy không phải cái gì cao siêu, trừu tượng mà lại được thể
hiện ra ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy.

12


1.1.1.2. Quan niệm về đời sống văn hóa
* Khái niệm
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã
hội là một phức hợp những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng nhu
cầu tinh thần và vật chất. Nhu cầu vật chất được đáp ứng làm cho con người
tồn tại như một thực thể sinh học, nhu cầu tinh thần giúp con người tồn tại như
một thực thể xã hội, tức nhân cách văn hóa. Hai nhu cầu cơ bản này xuất hiện
ngay khi con người hình thành về mặt giống loài, tức là từ buổi bình minh của
xã hội loài người. Khi xã hội phát triển đến mức độ cao, đạt tới trình độ khác
nhau của nền văn minh thì những nhu cầu cũng đạt tới trình độ tương ứng. Từ
hai nhu cầu cơ bản trên của con người đã hình thành nhu cầu văn hóa.
Nhu cầu văn hóa là biểu hiện của nhu cầu tinh thần, nhưng nó không
đồng nhất với nhu cầu tinh thần, chỉ có các bộ phận nhu cầu tinh thần hướng

tới giá trị cao cả, và sự đáp ứng nhu cầu này góp phần phát triển con người
theo hướng nhân bản hóa thì mới xem là nhu cầu văn hóa. Nhu cầu văn hóa
không phải là cái nhất thành bất biến, mà nó có tính năng động và phát triển.
Đáp ứng nhu cầu văn hóa cững phải năng động và thường xuyên đổi mới chất
lượng. Các hoạt động nhằm vào sự đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người
được gọi là hoạt động văn hóa.
Đơn vị cơ sở là một hình thức tổ chức cơ bản của xã hội, là địa bàn mà
nơi đó cộng đồng dân cư liên kết với nhau trong sinh hoạt về đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, có địa bàn sống ổn định và tổ chức hành chính ổn
định. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một quá trình bao gồm toàn thể
các hoạt động sống của con người nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần,
hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ, và nhân văn.
* Vai trò của công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
Đơn vị cơ sở là nơi quần chúng lao động hàng ngày, cũng là nơi tổ
chức cho nhân dân thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ công dân, nơi
13


tổ chức đời sống trực tiếp cho nhân dân. Mọi nhiệm vụ do trung ương đề ra
chưa đến cơ sở tổ chức cho nhân dân thì nhiệm vụ đó không thể hoàn thành.
Với phương châm “hướng về cơ sở”, quán triệt và tổ chức để nhân dân thấm
nhuần và thực hiện nghị quyết của Đảng tại cơ sở chính là mục tiêu cuối cùng
của việc đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là xây dựng đời sống văn hóa ngay
trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đó là xây dựng đời sống văn hóa
cho từng cá nhân thành viên của các đơn vị cơ sở và cho chính các đơn vị cơ
sở. Vì vậy hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có hai chiều tác động:
một mặt đưa những giá trị văn hóa cao tới quần chúng nhân dân, làm cho
quần chúng nhân dân tiếp cận được với những giá trị đó. Mặt khác cần phải
động viên, tổ chức phát động quần chúng nhân dân tham gia hoạt động sáng

tạo, trao đổi văn hóa.
Bộ Văn hóa - Thông tin coi xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một
trong những trọng tâm công tác của ngành mình. Đây không chỉ là chủ trương
chiến lược lâu dài mà còn mang tính thời sự và cấp bách. Vì công tác xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở theo định hướng chung, vừa biết khơi dậy những
sáng tạo văn hóa ở cơ sở, phát huy truyền thống văn hóa địa phương, góp
phần làm phong phú nền văn hóa của dân tộc. Cuộc đấu tranh chống tệ nạn xã
hội, các tiêu cực xã hội được tiến hành đồng thời với công tác xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được coi như bước đi ban đầu của sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là công việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa để
tiến hành các hoạt động giáo dục xã hội chủ nghĩa đối với nhân dân lao động,
đồng thời tổ chức sự giao lưu văn hóa giữa họ. Ngoài ra, xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở còn là xây dựng những điều kiện để tổ chức các hoạt động vui
chơi giải trí lành mạnh trong thời gian rãnh rỗi của nhân dân. Góp phần sáng

14


tạo ra lực lượng sản xuất mới, củng cố quan hệ sản xuất mới, xóa bỏ cái cũ,
xây dựng cái mới trong mọi mặt của đời sống vật chất cũng như tinh thần ở
địa phương; là bước đầu xây dựng ở khắp nơi một cuộc sống hạnh phúc, trong
đó mọi người vì mỗi người, mỗi người vì một người.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tạo dựng
một lối sống văn minh lịch sự, những phong tục tập quán tốt đẹp vừa đậm đà
bản sắc dân tộc vừa phù hợp với trào lưu văn hóa tiến bộ của nhân loại. Đồng
thời, đó còn là động lực to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở về một phương diện nào đó còn là

cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng và văn hóa. Đó là cuộc đấu
tranh một mặt nhằm khẳng định các giá trị dân chủ nhân dân và tiến bộ của
văn hóa, giáo dục nếp sống đạo đức và phong cách ứng xử có văn hóa cho
mọi người. Mặt khác, cần kiên quyết chống lại những hành vi thô bạo, lai
căng phản văn hóa, phi đạo đức và nhân tính.
Như vậy, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một công cuộc xây dựng
cơ bản, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh “ai
thắng ai” trên mặt trận văn hóa xã hội chủ nghĩa chỉ bằng cách xây dựng
thành công đời sống văn hóa ở cơ sở.
* Các hoạt động của văn hóa ở cơ sở
Thứ nhất: Hoạt động thông tin, tuyên truyền. Đây là hình thức giáo dục
nhẹ nhàng mà sâu sắc. Các tổ đội thông tin cổ động cũng là một hình thức tổ
chức linh hoạt, có thể truyền đạt chủ trương của Đảng và Nhà nước đến tận
những bản làng xa xôi hẻo lánh. Hoạt động này là công cụ định hướng tư
tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành động của toàn dân. Qua tuyên truyền, cổ
động phát huy vai trò làm chủ tích cực sáng tạo của quần chúng nhân ở cơ sở
trên các lĩnh vực, góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với dân và
tăng cường sự đồng thuận trong toàn xã hội.

15


Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động thông tin, tuyên truyền và cổ động là
tập trung phục vụ nhiệm vụ chính trị và những công tác lớn của địa phương;
thực hiện phổ biến rộng rãi trong công chúng các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước: bao gồm các quyết định của cơ quan lãnh đạo địa phương,
đồng thời nêu gương người tốt việc tốt, phê phán thói hư tật xấu, góp phần tạo
dựng nếp sống văn hóa cơ sở.
Các cơ quan phát thanh, truyền hình và báo chí của địa phương là cơ
quan ngôn luận của Đảng và nhà nước và phản ánh nguyện vọng của nhân

dân. Đài truyền thanh ở cơ sở là tờ báo âm thanh của cơ sở, vừa là cơ quan
nhân bản các giá trị văn hóa từ trên xuống, vừa là cơ quan sản xuất và phân
phối các giá trị văn hóa cho tất cả người dân.
Ngày nay, trong thời đại bùng nổ thông tin con người dễ bị lúng túng
trước nhiều nguồn thông tin phong phú và đa dạng, nhiều chiều. Công tác
thông tin, tuyên truyền, cổ động ở điạ phương có nhiệm vụ sàng lọc và định
hướng giúp mọi người lựa chọn, định hướng tiếp cận thông tin một cách đúng
đắn mà nhanh chóng và thuận lợi nhờ đó mà xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh trong phạm vi ở cơ sở. Đồng thời hoạt động thông tin tuyên truyền,
cổ động còn là một con đường để thực hiện xã hội hóa các phong trào xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Thứ hai: Hoạt động văn nghệ quần chúng. Đây là dạng hoạt động văn
nghệ không chuyên, khá hấp dẫn tại đơn vị ở cơ sở. Có thể nói hoạt động văn
nghệ quần chúng là diện mạo khởi sắc làm nên sức sống của một đơn vị văn
hóa cơ sở.
Nhiệm vụ của hoạt động văn nghệ quần chúng chủ yếu là phản ánh kịp
thời và sinh động cuộc sống đa dạng của nhân dân địa phương bằng thơ văn,
nhạc, kịch. Từ đó đề cao tấm gương tốt, phê phán những thói hư tật xấu. Đáp
ứng kịp thời những đòi hỏi về thưởng thức nghệ thuật của quần chúng nhân
dân, qua đó bồi dưỡng năng lực nhận thức, xây dựng thị hiếu thẫm mỹ theo

16


hướng lành mạnh, tiến bộ. Mặt khác, đáp ứng nhu cầu sáng tác và biểu diễn
của quần chúng, từ đó phát hiện và nhanh chóng bồi dưỡng các tài năng trẻ
trở thành hạt nhân cho phong trào. Có thể xem văn nghệ quần chúng là vườn
ươm nghệ thuật, nhiều nghệ sĩ đã trưởng thành từ phong trào văn nghệ quần
chúng ở cơ sở.
Thứ ba: Hoạt động của thư viện ở cơ sở. Sách báo là nguồn tri thức vô

tận, góp phần trực tiếp vào việc nâng cao hiểu biết cho mọi người. Vì vậy
hoạt động thư viện, phòng đọc chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động
khai trí văn hóa cho nhân dân của cơ quan văn hóa.
Tổ chức thư viện và vận động quần chúng đọc sách báo có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Phong trào đọc sách lấy thư viện làm cơ sở, ngược lại thư viện
phải dựa vào phong trào đọc sách báo của nhân dân mà duy trì và phát triển.
Thứ tư: Hoạt động giáo dục truyền thống và bảo vệ, phát huy giá trị
của các di tích lịch sử, văn hoá, lễ hội.
Để giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng ngành văn hóa
chủ trương xây dựng các nhà bảo tàng, phòng truyền thống ở những nơi có
địa danh văn hóa lịch sử và cách mạng nổi tiếng trong phạm vi cả nước.
Ngoài ra, ở tất cả các đơn vị văn hóa cơ sở có thể xây dựng phòng truyền
thống hoặc trụ sở làm việc của cơ quan. Ngành văn hóa còn chủ trương bảo
tồn những địa điểm danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử, lễ hội quan
trọng dành cho nghiên cứu và tham quan du lịch.
Thứ năm: Hoạt động xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, đơn vị
văn hoá, nếp sống văn hoá.
Cơ sở hạ tầng xã hội của văn hóa là gia đình, dòng họ và làng xã. Trong
truyền thống hàng ngàn năm của dân tộc ta là làng xã có vị trí cực kỳ quan
trọng: làng là tế bào, là bộ phận kết nối hợp thành trong mối quan hệ keo sơn
giữa cá nhân - gia đình - họ hàng - làng - nước. Là nơi bắt nguồn và kết tinh

17


biết bao di sản giá trị tinh thần, đạo đức của văn hóa, góp phần chung đúc
thành những giá trị chung của dân tộc.
Chính vì lẽ đó, làng và văn hóa làng giữ vai trò hết sức quan trọng
trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn. Sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta do vậy cần phải dựa chủ yếu trên nền tảng xây dựng đời sống

văn hóa cơ sở ở đô thị, nông thôn, đặc biệt trên cơ sở làng và văn hóa làng thể
hiện cụ thể trong việc xây dựng làng văn hóa. Xây dựng làng văn hóa cũng
chính là thực hiện một cách cụ thể, thiết thực việc giáo dục sâu rộng những
đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại, khuyến khích nhân dân lao động
tham gia sự nghiệp văn hóa trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ. Xây dựng
làng văn hóa, gia đình văn hóa là một trong những biện pháp nhằm thực hiện
chiến lược con người và chiến lược văn hóa của Đảng và Nhà nước ta. Thực
chất của việc xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng đời sống văn hóa trong
phạm vi mô, đó là gia đình. Đây là yếu tố nền tảng và cốt lõi nhất; bởi lẽ dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa gia đình được xem với tư cách là “là tế bào của xã
hội” và là “cái nôi nuôi dưỡng suốt cả đời người”.
Xây dựng nếp sống văn hóa là một mặt không thể thiếu trong xây dựng
đơn vị văn hóa ở cơ sở. Nếp sống văn hóa là những mô thức ứng xử của con
người trong mối quan hệ với thiên nhiên, xã hội và với chính bản thân con
người, được vận dụng và lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống trở thành
thói quen, thành phong tục - tức là một hệ thống các chuẩn mực xã hội được
cộng đồng chấp nhận và tự nguyện thực hiện xây dựng nếp sống văn hóa tiêu
chuẩn. Đó là điều kiện cần thiết để xây dựng nên làng, khu phố, đơn vị văn
hóa, gia đình văn hóa.
Thứ sáu: Hoạt động thể dục - thể thao, vui chơi giải trí. Là hoạt động
không những nhằm mục đích tăng cường thể chất mà còn rèn luyện nên
những phẩm chất tinh thần như ý chí bền bỉ, lòng dũng cảm, hoạt bát, thông

18


minh và tinh thần tập thể đồng đội và làm tan biến những căng thẳng đầu óc
sau thời gian làm việc liên tục.
Ở những nơi có nhà văn hóa, hội trường, sân vận động thì có thể xây
dựng thành các điểm vui chơi thường xuyên. Nơi chưa có điều kiện nên tổ

chức các hoạt động thể dục - thể thao, vui chơi giải trí theo định kỳ tại cơ sở.
* Thiết chế văn hóa cơ sở
Nhờ sự xuất hiện của các phương tiện thông tin đại chúng, các sản
phẩm văn hoá do xã hội tạo ra có thể đến thẳng tới từng đối tượng, cho nên
sản phẩm của văn hoá phải thông qua các thiết chế văn hoá - xã hội, tức là
phải qua trạm trung chuyển để đến với công chúng. Bao gồm các yếu tố sau:
Một là: Có bộ máy điều hành, bao gồm cán bộ quản lý và một số cán
bộ chuyên môn.
Hai là: Các quy chế, điều lệ cho các hoạt động văn hoá.
Ba là: Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động văn hoá.
Ba yếu tố trên quy tụ vào một cơ quan văn hoá như: nhà văn hoá, trung
tâm văn hoá, thư viện, nhà bảo tàng, các câu lạc bộ…
Do kinh nghiệm thực tiễn vài năm qua, ngày nay chúng ta thấy thay
vào nhà văn hóa cần xây dựng “trung tâm văn hóa”. Là một thiết chế văn hóa
tổng hợp, trung tâm văn hóa bao chứa hầu hết các hoạt động văn hóa cơ sở.
Tại đây có thể xây dựng sana khấu ngoài trời, có một số phòng ốc dành cho
hoạt đông khác như thư viện, phòng truyền thống, phòng họp trụ sở của cơ
quan văn hóa. Ngoài ra, có cả sân vận dộng để tổ chức các hoạt động thể dục,
thể thao và vui chơi giải trí.
1.1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Quảng Xương
1.1.2.1. Đặc điểm tự nhiên
Quảng Xương là huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Thanh Hoá, thuộc
khu vực châu thổ sông Mã, sông Chu. Phía Bắc giáp thành phố Thanh Hoá;

19


phía Đông Bắc giáp thị xã du lịch Sầm Sơn; phía Nam giáp huyện Nông
Cống, Tĩnh Gia; phía Tây giáp Đông Sơn.
Diện tích tích tự nhiên của huyện là 227,63 km2 được phân bố: vùng

biển 15%, vùng trọng điểm lúa 60%, vùng trồng hoa mầu 25%. Trước năm
1945, trung tâm của huyện có tên là Bùi Thôn (ở Quảng Giao). Đến tháng
Tám năm 1945 chuyển về Quảng Ninh và hiện nay đặt tại Lưu Vệ (Quảng
Tân) cách thành phố Thanh Hoá 8 km về phía bắc. Cơ cấu toàn huyện có 41
xã, 1 thị trấn với trên 400 thôn, làng, khu phố. Có trên 30 cơ quan hành chính
sự nghiệp, có 6 trường THPT, 1 trung tâm Giáo dục thường xuyên và dạy
nghề, có 132 trường của 3 cấp học Mầm non, tiểu học và THCS.
Với chiều dài bờ biển gần 18km, chạy dài chênh chếch theo hướng Bắc
- Tây Nam với những bãi cát mịn thoai thoải bằng phẳng, giữa vùng đất ven
biển thuộc thị xã Sầm Sơn hiện nay nổi lên khóm núi Trường Lệ nhô ra biển
tạo thành một thắng cảnh với khu du lịch nghỉ mát và tắm biển nổi tiếng. Hai
đầu của huyện tiếp giáp với hai cửa sông lớn là cửa Ghép (còn gọi là cửa
Hàn), phía Bắc là cửa Chào (còn gọi là cửa Hới) là cửa ngõ giao thông đồng
thời cũng là những điểm chốt hết sức quan trọng để phòng vệ mặt biển.
Huyện có địa hình cao trung bình từ 3 mét đến 5 mét so với mực nước biển,
dạng sống trâu chạy theo hướng Bắc - Nam, chia huyện thành hai tiểu vùng:
- Tiểu vùng đồng bằng gồm 21 xã, thị trấn phía Tây đường quốc lộ 1A,
đất đai khá bằng phẳng với điều kiện kinh tế là sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ.
- Tiểu vùng ven biển gồm 20 xã phía Đông đường quốc lộ 1A, địa hình
phức tạp, có dạng làn sóng. Đặc điểm kinh tế là sản xuất nông nghiệp, biển và
có nhiều khả năng phát triển du lịch.
Về mặt giao thông, Quảng Xương có quốc lộ 1A, quốc lộ 45, quốc lộ
47 và tỉnh lộ 4A, tỉnh lộ số 10 đi qua. Đây là những trục đường chính được
hình thành từ trước Cách mạng Tháng Tám. Ngoài ra còn có một hệ thống

20


đường cái liên xã được xây dựng tạo nên một mạng lưới giao thông thuận tiện

dày đặc.
Huyện Quảng Xương với những đất cát pha bồi tụ cao ráo, cư dân đông
đúc, những vùng đất thấp mầu mỡ nổi lên với từng tụ điểm dân cư trù phú,
những con sông hiền hoà chạy theo hướng Bắc Nam, núi Hoà Trường, núi
Văn Trinh ở phía Tây Nam, núi voi ở Tây Bắc hoà trong tiếng sóng biển rì rào
tạo nên một cảnh trí thiên nhiên phong phú đa dạng có phần thơ mộng nhưng
cũng không kém phần khắc nghiệt.
Với vị trí địa lý như vậy nên khí hậu của Quảng Xương nằm trong vùng
nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu vùng ven biển, nền nhiệt
đới cao với hai mùa chính là mùa Hạ và mùa Đông khô lạnh, xen kẽ hai mùa
chính là khí hậu chuyển tiếp: giữa mùa hạ sang Đông là mùa Thu ngắn có bão
lụt, giữa Đông sang Hạ là mùa Xuân không rõ rệt có mưa phùn, mặt khác còn
chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng về mùa Hạ, sương muối về mùa
Đông độ, nắng, mưa… nhìn chung là thuận lợi cho huyện Quảng Xương phát
triển cây trồng, vật nuôi đánh bắt hải sản và phát triển một nền kinh tế đa
dạng. Tuy nhiên, vẫn có một số thời điểm do tthời tiết không thuận lợi thường
gây thiệt hại cho mùa màng nông nghiệp và tổn thất cho ngư dân.
1.1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Là một huyện đất rộng người đông, có vị trí địa lý, khí hậu tương đối
thuận lợi là những điều kiện để huyện Quảng Xương thu hút được nhiều vốn
đầu tư, phát triển thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
Dân số của huyện năm 2007 là 280.000 người, với 1168 người/km2, vì
vậy huyện có một lực lượng lao động dồi dào. Dân số của huyện tuy đông
nhưng phân bố tương đối hợp lý trên cả ba vùng (biển, mầu, lúa). Do đó thuận
lợi cho việc khai thác các nguồn lực, sử dụng thời gian nhàn rỗi vào việc sáng
tạo nghệ thuật và hưởng thụ nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như văn nghệ
quần chúng. Cư dân Quảng Xương chủ yếu làm nông nghiệp và ngư nghiệp

21



ngoài ra còn có cái nghề như dệt chiếu cói (ở Quảng Phúc, Quảng Vọng);
mây tre đan Quảng Phong; nghề mộc và làm nón, làm muối mắm (Quảng
Nham); trồng thuốc lào, nuôi trồng thuỷ sản (Quảng Định, Quảng Trung).
Phía Bắc huyện có khu công nghiệp Lễ Môn quy mô 200 ha đã đi vào
sản xuất, có cảng sông, biển - một đầu mối giao thông quan trọng với thị
trường bên ngoài, là trung tâm du lịch của tỉnh, phía Đông Bắc giáp thị xã
Sầm Sơn có bãi biển đẹp nổi là trung tiếng trong cả nước. Phía Nam của
huyện giáp với khu công nghiệp Nghi Sơn, là đô thị cấp III, địa bàn thu hút
tương đối hàng hoá thực phẩm nông sản và lao động của Quảng Xương tham
gia phát triển. Phía Tây giáp huyện Đông Sơn, là địa bàn quan trọng trong
giao lưu buôn bán với huyện.
Trong 25 năm đổi mới, dưới đưòng lối lãnh đạo của Đảng bộ huyện,
kinh tế huyện nhà đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng khích lệ, tăng
trưởng kinh tế nhanh, bền vững, đáp ứng cơ bản nhu cầu đời sống vật chất và
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần ổn định tình hình chính
trị - xã hội, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1.1.2.3. Truyền thống văn hoá
Quảng Xương là một huyện có bề dày truyền thống cách mạng, nhiều
di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, di tích kiến trúc nghệ thuật, phong tục
tập quán tốt đẹp được lưu giữ qua các lễ hội truyền thống, các gia phả của gia
đình, dòng họ và được thể hiện rõ nét trong hương ước, quy ước xây dựng
làng xã.
Các công trình kiến trúc văn hoá ở Quảng Xương hiện nay như Chùa
Kênh (Quảng Hùng); Đền thờ An Dương Vương (Quảng Châu); chùa Mậu
Xương (Quảng Lưu); Đền thờ Trần Nhật Duật (Quảng Hợp); Phủ thờ Bùi Sỹ
Lâm (Quảng Tân); Phủ Voi (Quảng Thịnh); Nghè Ngọc Nhị (Quảng Vọng).
Đây là các công trình văn hoá đã được xếp hạng cấp tỉnh và quốc gia. Hay


22


những cảnh trí thiên nhiên có bàn tay gia công của con người như núi Voi
(Quảng Thắng), núi Trường Lệ, núi Văn Trinh, sông Lý, sông Vạn Lịch…
phản ánh phong tục tập quán cư dân nông nghiệp mang mầu sắc “Văn hoá
biển” của Quảng Xương.
Với một bề dày truyền thống lao động, chiến đấu anh dũng kiên cường
nơi đầu sóng ngọn gió, từng bước hoàn chỉnh bộ mặt thiên nhiên, xây dựng và
bảo vệ quê hương xóm láng. Để có một Quảng Xương như ngày hôm nay, nhân
dân có quyền tự hào về đóng góp của cha ông mình trong hành trình lịch sử đầy
quang vinh nhưng cũng không ít khó khăn thử thách, gian khổ của dân tộc.
Truyền thống không thể thay thế được hiện thực nhưng truyền thống sẽ
biến thành sức mạnh vật chất một khi hiểu biết cội nguồn, tự hào về cội nguồn
để vững vàng vươn tới tương lai. Trong dòng chảy không ngừng của thời gian
bất tận, Quảng Xương với bề dày truyền thống và lịch sử đã và sẽ viết nên
những trang sử mới hào hùng, cùng nhân dân cả nước xây dựng một tổ quốc
Việt Nam giàu mạnh, văn minh.
Trong những năm qua, cùng với việc quan tâm xây dựng huyện nhà trở
thành đơn vị phát triển toàn diện. Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan ban ngành
đoàn thể và nhân dân huyện Quảng Xương đã luôn quan tâm đến công tác xây
dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở, vượt qua những khó khăn bước đầu
góp phần tích cực vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới đất nước.
1.1.3. Thực trạng đời sống văn hóa của huyện Quảng Xương trước
năm 1991
Sau năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước bước
vào kỷ nguyên mới thống nhất và quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những năm đầu tiên đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đất nước ta gặp rất
nhiều khó khăn, cơ sở vật chất và kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu. Nhưng Đảng ta
vẫn quan tâm đến xây dựng đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân nhằm


23


từng bước xây dựng kiến trúc thượng tầng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội và giáo
dục nhân dân ta tinh thần yêu lao động, yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ và nhân huyện Quảng Xương đã
trải qua những tháng ngày khó khăn chồng chất do hậu quả của chiến tranh để
lại, do thiên tai khắc nghiệt và nền kinh tế nghèo nàn. Đảng bộ huyện Quảng
Xương tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII (5/1975) đề ra
chỉ tiêu 55.000 tấn lương thực, 6 vạn con lợn, 5.400 tấn cá biển… với sự nỗ
lực quyết tâm chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, vận dụng sáng tạo các chủ
trướng của Đảng và chính sách của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa
phương, vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn huyện Quảng Xương đã đạt được
những kết quả đáng phấn khởi trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, quốc phòng an ninh, cải thiện một bước đời sống của nhân dân
về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập và chữa bệnh: mức ăn bình quân đầu người vụ
chiêm 16kg/tháng, vụ mùa là 13 kg/tháng. Khắc phục tình trạng nghèo nàn
của kinh tế góp phần làm cho công tác xây dựng đời sống văn hóa mới được
chú trọng và tiến hành rộng khắp, nhằm xóa bỏ những tàn dư lạc hậu của chế
độ xã hôi thực dân nửa phong kiến tồn tại trong tư tưởng và nếp sống của
nhân dân, xác lập những nhân tố mới của nền văn hóa XHCN đã đạt được một
số thành tựu bước đầu.
1.1.3.1. Thành tựu
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác văn hóa, văn
nghệ trong giai đoạn mới, ngày 2/1/1976 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa
ra Nghị quyết số 01 - NQ/T4 “Về việc phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ
trong giai đoạn mới”. Huyện ủy, UBND huyện Quảng Xương đã kịp thời lãnh
đọa xây dựng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa cơ sở, phát động
phong trào phá bỏ các tập tục cũ, lạc hậu, xây dựng tập quán mới theo lối đời

sống mới.

24


Quán triệt và thực hiện Nghị Quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1976), nghị quyết của Đại hội Đảng
bộ Quảng Xương lần 14 (10/1976), trong những năm 1977- 1978 công tác xây
dựng đời sống văn hóa cơ sở được mở rộng về quy mô và tiến nhanh về tốc
độ. Tăng cường cơ sở vật chất và phát triển mạnh về mạng lưới hoạt động:
làm mới thêm 75 phòng học kiên cố, 141 phòng học bán kiên cố, 41 xã đều có
trường; 39/41 xã có thư viện, 21/41 xã có đội văn nghệ thông tin, 9/41 xã co
5000 gia đình văn hóa chiếm 1/7 dân số toàn huyện [28, tr.15].
Trên mặt trận thông tin tuyên truyền, huyện chỉ đạo mỗi xã thành lập
một đội thông tin giao cho cán bộ văn hóa chuyên trách. Các cơ sở tập trung
tuyên truyền các Nghị quyết của Đảng, giáo dục tinh thần làm chủ tập thể
XHCN, cổ vũ phong tròa thi đua lao động hoàn thành kế hoạch Nhà nước,
nêu tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng lên đường chiếnđấu bảo vệ Tổ
quốc. Thời điểm này ngành Văn hóa - Thông tin đã xây dựng được 3 phòng:
Phòng văn hóa, phòng thông tin, phòng Thể dục - Thể thao.
Năm 1978, huyện đã hoàn thành việc tu sửa nhà truyền thống, nhà thư
viện và xây dựng xong nghĩa trang liệt sỹ. Phong trào thể dục thể thao ở cơ sở
nhất là trong các trường học có sự chuyển biến nhanh và mạnh. Các đoàn thể
quần chúng nhân dân tiếp tục đẩy manh phong trào “Ba xung kích làm chủ
tập thể”, xây dựng nếp sống mới, giáo dục đạo đức, tác phong sinh hoạt lành
mạnh, đặc biệt là trong thanh niên, ở mỗi làng, xã, trường học, cơ quan, xí
nghiệp đều có phong trào hành động.
Năm 1979, toàn huyện có 17/41 xã có phong trào văn hóa quần chúng
tốt. Các đội chiếu bóng cho 913000 lượt người xem, 9 xã có hệ thống loa
tuyền thanh, đảm bảo phát thanh tuyên truyền thường xuyên, phát hành

115000 bộ sách. Phong trào văn hóa văn nghệ có chuyển biến thể hiện rõ hơn
trong hội diễn văn nghệ quần chúng.

25


×