Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Ý thức trong phạm trù triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.77 KB, 7 trang )

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của
sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con
người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con
người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó
không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành
công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát
triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra
là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong
điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có
thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt
tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chung ta phải làm gì để tránh được
nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho
chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công
nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận
thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công
tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức
năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính
đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa.Còn
cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan
hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và
tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con
người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư
tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp
đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
I. Ý thức và tính chất của ý thức
1. Ý thức
a.Khái niệm


* Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng ý thức có một cuộc sống riêng, tồn tại tách biệt
vật chất thậm chí quy định, sinh ra vật chất.
* Chủ nghĩa duy vật tầm thường cho rằng ý thức cũng là một dạng vật chất.
*Chủ nghĩa duy vật cận đại đã thấy được ý thức phản ánh thế giới khách quan, đã chỉ ra
được kết cấu của ý thức song lại chưa thấy nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức.
* Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa, phát triển, khắc tục những quan niệm trên đưa
ra định nghĩa khoa học về ý thức.
+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não người thông qua lao động
và ngôn ngữ.
+ Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người bao gồm từ cảm giác cho tới tư duy,
lý luận trong đó tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
b. Nguồn gốc ý thức.
* Nguồn gốc tự nhiên.
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, song
do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của
ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lýb học thần kinh, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng
không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ
chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng
của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn
thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy không thể tách
rời ý thức ra khỏi hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc
thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt
“tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như
con người. Máy móc dù có tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được
cho hoạt động trí tuệ của con người. Máy mcó là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra,
còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng

tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới
có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó.
* Nguồn gốc xã hội.
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu
được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn
gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ
và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã
hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp, còn loài
người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn trong tự
nhiên. Con người phải tạo từ những vật phẩm ấy. Chính thông qua hoạt động lao động
nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách
quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có
lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những
thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất
định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. Ý thức được hình thành không phải
chủ yếu là do tác động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ độngu của con người. Như vậy, không
phải ngẫu nihên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có thức, mà trái
lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt
động thực tiễn để cải tạo thế giới. Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói
cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác
động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm
phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau.
Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con
người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và
cùng phát triển với lao động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn
ngữ”.

Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín
hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý
thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư
duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có thể suy
nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được
truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. Ý thức không phải là hiện tượng thuần
tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi
xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, ngôn
ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy và văn hoá con người, xã hội loài
người nói chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của con người, tâm lý
động vật thành ý thức.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những nguyên nhân sau đây:
- Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến đổi của tồn tại xã
hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc
hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội cho nên nó chỉ biến đổi sau khi
tồn tại xã hội đã biến đổi.
- Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể và những tư tưởng
chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ tư tưởng tôn giáo, những quan niệm và chuẩn mục
đạo đức, những tập tục v.v...).
- Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực
lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
b. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển .
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối
với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội.

Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số kiến thức mà loài người
đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của
bọn quan liêu”.
Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải
đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên
thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.
c. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ăngghen viết:” Sự phát triển về chính trị, phát luật, triết học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật
v.v... dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cdả những sự phát triển đó đều tác động lẫn
nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện
lịch sử cụ thể: vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào
vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư
tưởng trong quần chúng. Cũng do đó ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ
và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những đối lập với chủ nghĩa duy tâm trong sự tuyệt đối hoá
vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan điểm của chủ nghĩa duy vật tàm thường
(hay chủ nghĩa duy kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã
hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
II. VAI TRÒ CỦA Ý THỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình thái ý thức xã hội, mà
những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Đặc biệt trong vấn đề
về tư tưởng chính trị pháp quyền - tình cảm - tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự tác động
hay vai trò những tình thái ý thức xã hội này trong đời sống xã hội con người.
1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền.
Tình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó phản ánh các

quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Nó thể hiện
thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ ra cùng tới một con kịch phát chưa từng có
của chủ nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn khắp nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ
XXI đã nhuốm màu bạo lực với sự kiện ngày 11 -9 -2001 và tiếp nối ngay sau đó là cuộc
chiến tranh Atgamixtan cuộc chiến tranh Mỹ sắp giáng xuống đầu nhân dân I rắc không chỉ
và vấn đền quan hệ song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị xếp vào “trục ma quy” với siêu
cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn đề thế giới đang phải đối đầu với chủ nghĩa đơn
thương độc đoán Mỹ.
Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng phập phồng bất an.
Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được hậu quả hay do cố tình không nhận
thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ và các quốc gia đó do áp đặt quân sự và các chính sách
kinh tế khác, trên các quốc gia (như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan).
“135 lịch sử kinh hoàng nước Mỹ 11 / 9 /01 đã làm chấn động địa cầu. Và câu hỏi đặt ra là
nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quả để lại sau thảm hoạ trở thành những nguyên
nhân của những sự biến mới trên trường quốc tế là gì?
Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố nhằm vào nước Mỹ có phải là điều
tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước Mỹ thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹ đã
bất chấp những cái tồn tại khách quan luôn phá vỡ những quy ước chung và hành động theo
ý thức thuộc cái riêng mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽ đương nhiên là lời cảnh
báo buộc Mỹ phải xem xét lại chính mình về mọi mặt chính trị, quân sự ngoại giao. Mỹ nên
tôn trọng những hiệp định chung đã được thoả thuận trong các tổ chức mang tính quốc tế
như Liên hợp quốc và liệu rằng những đòn trả đũa của Mỹ đánh vào Irắc có thêm một lần
phạm phải sai lầm chủ quan nữa chăng.
2. Hình thái ý thức trong đạo đức - phong tục - tập quán
a) Sự tự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v.. phản ánh khả năng tự chủ của
con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản biểu hiện cái thiện trong con
người, và cũng là biểu hiện tố chất nhân văn của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức
là nhân tố quan trọng của tiến bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó, các
quan niệm về thiện và ác, về hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng trở

thành những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức trong đời sống văn hoá tinh thần của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.
b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn
nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ thống đạo đức khác nhau, có tác dụng
điều chỉnh hành vi của mọi người, nhằm giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường
ngày của từng cá nhân và cộng đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia
nào.
c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo đức bị chi phối bởi nội
dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích
của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều
tạo ra những quan điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi
lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp đã rời khỏi vũ đại
lịch sử thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen viết: “Chung quy lại thì mọi
thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc
bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn
luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai
cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi
dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu
cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa những người bị áp bức”.
Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan niệm sai lầm cho rằng
trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã xuất hiện một kiểu đạo đức
mới không có tính giai cấp. Trong đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo
như một thứ đạo đức duy nhất có khả năng chỉ ra cho toàn thể loài người con đường phát
triển đi lên.
d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của nó đã không ngừng được tạo
ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ trong đạo đức cộng sản các giá trị đó mới có khả năng thể
hiện đầy đủ nhất.
Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân,
bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp đó, và kế thừa những giá trị đạo đức của loài
người.

Ý thức có ảnh hưởng to lớn trong quá trình hình thành phát triển cũng như tồn tịa và suy
vong đối với phong tục tập quán. Con người sáng tạo ra lịch sử của mình có vai trò quyết
định đối với sự phát triển xã hội mà trong quá trình đó hình thành ý thức phong tục - tập
quán.

×