Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tiểu luận số 1 phân tích quan điểm chỉ đạo phát triển GD đt và phát triển GDPT trước yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.69 KB, 11 trang )

Bài Tiểu luận số 1
Phân tích quan điểm chỉ đạo phát triển GD-ĐT và phát triển GDPT trước yêu
cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
1.

PHẦN MỞ ĐẦU

Hiện nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tiếp tục phát triển với những bước
tiến nhảy vọt, đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên công nghệ
thông tin và kinh tế tri thức. Khoa học công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự
phát triển kinh tế - xã hội, mà nền tảng của sự phát triển này là giáo dục - đào tạo.
Vì vậy, tất cả các quốc gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát
triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục. Đảng ta cũng đã
sớm nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở
tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, trong đường lối quan điểm của Đảng ta về giáo
dục - đào tạo đã có những bước tiến mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (tháng 7-1996) đã xác định: Giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc
sách hàng đầu". Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4-2001) Đảng ta
tiếp tục khẳng định: "Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững". Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa IX), Tổng Bí thư cũng đã chỉ rõ: Trong các nguồn lực để
phát triển đất nước nhanh, hiệu quả, bền vững, đúng định hướng thì nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản. Muốn vậy xây dựng nguồn lực con người, phải đẩy mạnh
đồng bộ giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm không đúng về đầu tư cho giáo dục trước đây
được uốn nắn lại: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính
của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục vụ đắc lực cho



phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, đường lối phát triển giáo dục - đào tạo của
Đảng có tầm quan trọng như là một đường lối chiến lược nhằm chấn hưng nước
nhà.
Thực tế đã minh chứng, một nền giáo dục kém sẽ không thể đào tạo được nguồn
nhân lực chất lượng cao. Và hẳn nhiên, nếu thiếu nhân lực tốt, thì Việt Nam sẽ tụt
hậu, không thể phát triển được trong một thế giới đầy sôi động, đang biến đổi từng
ngày. Vì vậy, quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là sứ mệnh thiêng liêng, đồng thời cũng vô cùng nặng
nề để Việt Nam bước vào hàng ngũ các nước phát triển.
Đánh giá thành quả của giáo dục, đào tạo, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII khẳng định: Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được
mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề
được tổ chức lại một bước. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có bước
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Chất
lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém mà
Nghị quyết cũng đã chỉ rõ: Giáo dục đào tạo chưa thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu. Chất lượng, hiệu quả GD&ĐT còn thấp, hệ thống GD&ĐT thiếu liên thông,
thiếu gắn kết. Phương pháp giáo dục, việc tổ chức thi, kiểm tra, đội ngũ nhà giáo
và CBQL giáo dục còn nhiều hạn chế. Chính sách, cơ chế tài chính, cơ sở vật chất
còn bất cập.
Những hạn chế nêu trên để thấy rằng "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo; phát triển nguồn nhân lực" vừa là yêu cầu bức thiết, vừa là giải pháp giúp đất
nước ta vượt qua khó khăn, thách thức của thời cuộc, đáp ứng được yêu cầu của xã
hội và phát triển bền vững.


Để thực hiện đổi mới văn bản và toàn diện GD-ĐT, Đảng ta đã đưa ra những quan
điểm chỉ đạo phát triển GD-ĐT và phát triển GDPT. Các quan điểm đó được khẳng
định rõ trong Nghị quyết số 29 NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hành Trung

ương về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo.

B. PHẦN NỘI DUNG
1. Quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo và phát triển giáo dục phổ
thông trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện
Gồm các quan điểm sau:
Một là: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
- Giáo dục là quốc sách hàng đầu, điều đó có nghĩa là sự nghiệp giáo dục và chính
sách giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan
có thẩm quyền và mọi người, mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước đều phải coi
trọng. Tất cả mọi người đều được hưởng thụ từ giáo dục - đào tạo và do đó,
đều phải cống hiến cho giáo dục.
- Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta xác định, đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển, phải được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. Theo đó, mức chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo trong
những năm gần đây luôn duy trì ở mức khoảng 20% tổng chi ngân sách nhà nước.
Hai là: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,


phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở
giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân
người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn
chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống,
tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải

đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Những nội dung cần đổi mới theo quan điểm trên là:
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm
tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng
giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm
xã hội.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
Đồng thời, đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội trong phối hợp chặt chẽ với
nhà trường để giáo dục thế hệ trẻ.
- Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục,
đào tạo; đầu tư hợp lý, có hiệu quả vào xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo
đạt trình độ quốc tế.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và chính
sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo.
Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ


người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo vượt khó,
học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó
khăn.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo; thực hiện hợp lý cơ chế
tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính.
- Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định chất lượng
giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục, đào tạo trên cả ba phương
diện: huy động các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của cộng
đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học

tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời
Ba là: Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành;
lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội.
- Quan điểm chỉ đạo này là kết quả của thành tựu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn 30 năm đổi mới lĩnh vực giáo dục vào đào tạo trong công cuộc đổi mới đất
nước. Nội dung quan điểm thể hiện sự nhận thức đúng đắn và nhất quán của Đảng
ta trong quá trình đổi mới về vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo.
Quan điểm này có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho phát triển giáo dục và đào tạo
là lấy phát triển, hoàn thiện con người làm mục tiêu, động lực; xây dựng một nền
giáo dục hiện đại, thực học, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước.


Bốn là: Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách
quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú
trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Ở nước ta nhiều năm qua, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn
một số hạn chế, chưa gắn kết chặt chẽ giữa thu hút và đào tạo, giữa đào tạo và sử
dụng, thiếu sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo với sản xuất,
kinh doanh. Chính vì vậy việc phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu
phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ;
phù hợp quy luật khách quan là quan điểm rất quan trọng, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục: Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; nghiên cứu
khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; đào tạo người học có
phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng
lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình

độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích
nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân.
Năm là: Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại
hóa giáo dục và đào tạo.
Việc đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc
học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo góp phần tăng cường chất
lượng giáo dục – đào tạo. Tức là hướng vào việc hình thành những con người “tự
nó”, tự chủ, có năng lực tư duy độc lập, có thoái quen phản biện, có bản lĩnh bảo
vệ chân lý, luôn chủ động và sáng tạo, có năng lực hành động trong công việc…


Sáu là: Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các
vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các
đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chi phối ảnh hưởng tới toàn bộ các
hoạt động của đất nước ta, trong đó có giáo dục và đào tạo. Thành công của quá
trình đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào sự chủ động,
năng lực của chúng ta trong việc chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường.
Mặt tích cực của cơ chế thị trường: chú trọng giải quyết quan hệ cung/cầu; cạnh
tranh, tạo động lực nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng hiệu quả đầu tư.
Mặt tiêu cực của cơ chế thị trường trong giáo dục: chạy theo lợi nhuận tối đa, bỏ
quên lợi ích lâu dài của người học, gây bức xúc xã hội.
Thiên chức xã hội và vai trò quan trọng của giáo dục không cho phép biến giáo dục
thành thị trường hàng hóa thông thường. Trong bối cảnh kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần vận dụng những yếu tố tích cực của kinh tế thị trường

để phát triển giáo dục ở phạm vi và mức độ phù hợp. Ảnh hưởng của kinh tế thị
trường đến giáo dục là đương nhiên, không nên kì thị, né tránh nhưng phải chủ
động phát huy ưu thế, đồng thời làm tốt công tác quản lí, ngăn ngừa, hạn chế
những mặt trái của kinh tế thị trường; khuyến khích đầu tư giáo dục không vì lợi
nhuận.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo:


Mục tiêu, nội dung giáo dục và đào tạo phải đảm bảo vì sự phát triển tốt đẹp của
con người và xã hội. Nguồn lực nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư ngân
sách cho giáo dục và đào tạo. Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện
công bằng trong tiếp cận giáo dục đối với mọi người dân; hỗ trợ, có chính sách phù
hợp cho giáo dục phổ cập, giáo dục bắt buộc, giáo dục vùng dân tộc thiểu số, vùng
có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Nhà nước
tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật, của các chủ thể trong hoạt động giáo dục, đào tạo.
Bẩy là: Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo,
đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển
đất nước.
Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân
tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp
tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện
đại; phát triển.
Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế để tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm
của những nước có nền giáo dục phát triển để áp dụng cho nền giáo dục tại nước
ta. Việc này sẽ giúp chúng ta giảm bớt khó khăn, tiết kiệm được thời gian, đi đúng
hướng phát triển của thế giới. Khi đó, nguồn nhân lực do nền giáo dục Việt Nam
đào tạo mới đủ trình độ để hợp tác và cạnh tranh bình đẳng trên toàn cầu. Cụ thể là
đổi mới mạnh mẽ nội dung chương trình và phương pháp dạy học theo hướng hội

nhập quốc tế. Nội dung chương trình và giáo trình cần được tổ chức xây dựng và
triển khai theo hướng mở (cho phép cập nhật thường xuyên về kiến thức trong và
ngoài nước, sử dụng giáo trình, học liệu trong nước hoặc ngoài nước một cách linh
hoạt để giảng dạy cho người học), nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù hợp


với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề mà người học đang theo đuổi. Về phương
pháp, cho phép sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy
người học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng trên lớp để người học có thời
gian tự học và tự nghiên cứu. Tất nhiên, các cơ sở đào tạo cần thường xuyên thực
hiện việc kiểm tra, đánh giá khách quan, chặt chẽ để bảo đảm tính hiệu quả của
việc dạy và học. Ngoài ra, việc xây dựng lại các chương trình giáo dục, biên soạn
sách giáo khoa, giáo trình từ cấp tiểu học đến bậc đại học, sau đại học cũng cần
được đầu tư triển khai toàn diện.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng chương trình giáo dục phổ thông
Bên cạnh các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo và phát
triển giáo dục phổ thông trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện, Đảng ta còn
có các quan điểm chỉ đạo xây dựng chương trình giáo dục phổ thông như sau:
- Chương trình giáo dục phổ thông là văn bản chính sách của Nhà nước thể
hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, quy định các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và
năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và phương pháp
đánh giá kết quả giáo dục, làm căn cứ quản lý chất lượng giáo dục phổ thông;
đồng thời là cam kết của Nhà nước bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng
cơ sở giáo dục phổ thông.
- Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng trên cơ sở quan điểm của
Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; gắn với nhu
cầu phát triển của đất nước và những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ
và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hóa Việt Nam, các giá trị truyền
thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và
định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về

quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn


trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát
triển bền vững và phồn vinh.
- Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực
người học thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực,
hiện đại; hài hòa đức, trí, thể, mỹ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức để giải
quyết vấn đề trong học tập và đời sống; tích hợp cao ở các lớp học dưới,
phân hóa dần ở các lớp học trên; thông qua các phương pháp, hình thức tổ chức
giáo dục phát huy tính chủ động và tiềm năng của mỗi học sinh, các phương pháp
kiểm tra, đánh giá phù hợp với mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục để đạt
được mục tiêu đó.
- Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm kế thừa và phát triển những ưu điểm
của các chương trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam, đồng thời tiếp thu
kinh nghiệm xây dựng chương trình của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới;
bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với
chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương
trình giáo dục đại học.
- Chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng theo hướng mở, cụ thể là:
Bảo đảm định hướng thống nhất và những nội dung giáo dục cốt lõi, bắt buộc đối
với học sinh toàn quốc, đồng thời trao quyền chủ động và trách nhiệm cho địa
phương và nhà trường trong việc lựa chọn, bổ sung một số nội dung giáo dục và
triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều kiện của địa
phương, của cơ sở giáo dục, góp phần bảo đảm kết nối hoạt động của nhà trường
với gia đình, chính quyền và xã hội.
Chỉ quy định những nguyên tắc, định hướng chung về yêu cầu cần đạt về phẩm
chất và năng lực của học sinh, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và



phương pháp đánh giá kết quả giáo dục, không quy định quá chi tiết, để tạo điều
kiện cho tác giả sách giáo khoa và giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo trong
thực hiện chương trình.
Bảo đảm tính ổn định và khả năng phát triển trong quá trình thực hiện cho phù hợp
với tiến bộ khoa học - công nghệ và yêu cầu của thực tế.
3.

PHẦN KẾT LUẬN

Với những quan điểm chỉ đạo cụ thể và toàn diện, Đảng và nhà nước ta đã thực sự
coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Những yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp giáo dục
ngày nay là rất cao cả về chất lượng và số lượng. Để thực hiện được triệt để những
quan điểm chỉ đạo trên và xây dựng nền giáo dục Việt Nam thành một nền giáo
dục tiên tiến không phải là nhiệm vụ của riêng nhà nước mà là của toàn xã hội.
Giáo dục đào tạo phải tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và
đi trước một bước đón đầu sự phát triển của xã hội.
Ngày nay, cả nhân loại đang bước vào thế kỷ của trí tuệ, của nền kinh tế tri thức,
vấn đề con người đã được đặt ra ở tầm cao mới, coi con người là vốn quý nhất, coi
sự phát triển nguồn nhân lực con người là cuộc cách mạng trong bối cảnh thế giới
đang biến động mạnh mẽ. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới thì lẽ dĩ nhiên phải quan tâm, chăm lo, chú trọng đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo như là một sự kết hợp biện chứng
không thể tách rời mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng
định, để xây dựng nền giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, hướng tới mụ tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân cchủ văn minh.




×