Sơ lược về 12 cung trong tử vi đẩu số
Tử vi, hay tử vi đẩu số, là một hình thức bói toán vận mệnh con
người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm
dương, ngũ hành, Can Chi… bằng cách lập lá số tử vi với Thiên bàn,
địa bàn và các cung sao; căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh
theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời
người.
Lá số tử vi
Lá số tử vi được trình bày trên Thiên bàn, địa bàn. Thiên Bàn ở giữa,
chung quanh là Địa Bàn với 12 cung.
Tại Thiên bàn, ghi năm, tháng, ngày giờ sinh, giới tính, mệnh và cục.
Địa Bàn gồm 12 cung cố định, được đặt tên theo mười hai địa chi,
mỗi cung phản ảnh một lĩnh vực, một mặt của đời sống một con
người qua những liên hệ công danh, tiền bạc, bạn bè, vợ con, phúc
đức, cha mẹ… Các cung trên địa bàn lần lượt mang các tên là:
Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di,
Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ.
Những phương thức để xác định vị trí của khoảng 110 sao lên trên
địa bàn được gọi là "an sao".
Ý nghĩa 12 cung của Tử Vi như sau:
1. Cung Mệnh và Thân
Cung Mệnh là cung chính trong tử vi dùng để xem vể chính bản
mệnh của người có số. Xem cung Mệnh chúng ta có thể biết được
khái quát về tướng mạo, tính tình, công danh tài lộc, khả năng
chuyên môn, sự thọ yểu, thăng trầm, những bệnh tật hay tai họa
trong cuộc đời. Nếu muốn biết rõ hơn về từng khía cạnh trên thì phải
xem phối hợp với cung liên quan ví dụ nếu muốn biết chính xác về
những bệnh tật hay tai họa trong cuộc đời thì phải xem phối hợp với
cung Tật ách...
Cung Mệnh có ảnh hưởng mạnh và mang tính chủ đạo từ khi mới
sinh đến ngoài 30 tuổi, thời gian này cung Thân cũng đã ảnh hưởng
rồi nhưng thụ động. Sau 30 tuổi người ta bước vào giai đoạn thành
thục,các sao tọa thủ cung Mệnh ảnh hưởng yếu đi trở thành thụ
động, các sao tọa thủ cung Thân ảnh hưởng mạnh lên mang tính chủ
đạo, chi phối mọi hành vi và phát triển của con người từ lúc đó đến
lúc chết.
Tuy nhiên sự ảnh hưởng này mang tính kế thừa của cả quá trình
phát triển liên tục của con người, Các sao cung Thân ảnh hưởng
dựa trên nền những gì đã được tạo ra bởi các sao cung Mệnh trong
giai đoạn trước cũng như ảnh hưởng còn lại nhạt nhoa của Mệnh
trong giai đoạn này. Vì thế cổ nhân vẫn thường dùng cung Thân để
xem về hậu vận ngoài 30 tuổi trở đi của con người. Hai cung Mệnh
và Thân liên quan mật thiết với nhau như một thể thống nhất trong
một quá trình liên tục của một cá nhân nên phải xem phối hợp.
Luận thêm về cung Mệnh Tài – Quan.
Trên lá số Tử vi cung Mệnh là cung quan trọng nhất, "Số hồ thiên
Mệnh", nó thể hiện thọ yểu, sang hèn và cách hành xử của con
người trong cuộc sống. Toàn bộ lá số bị chi phối khá lớn bởi cung
Mệnh, khi luận đoán cần kết hợp cung Mệnh với tất cả các cung
khác và với các đại tiểu vận.
Cung Mệnh thể hiện hình ảnh bên ngoài của con người trong cuộc
sống, khi luận về Mệnh ta không chỉ căn cứ vào các sao trong cung
Mệnh mà phải kết hợp với các sao hội chiếu từ cung Thiên di, cung
Quan, cung Tài. Bởi vì cuộc đời con người bị chi phối bởi môi trường
sống (những người mà cung thiên di bị Tuần hoặc Triệt thường phải
xa quê lập nghiệp), công việc, tài chính. Mệnh Tài Quan Thiên di
bao giờ cũng có sự liên thông với nhau. Một người làm công tác
ngoại giao thì phong cách đi đứng, ăn mặc sẽ khác với một người
làm nghề phu xe. Người cung Tài rất tốt ( tỷ phú) cuộc sống vật chất
đầy đủ thì phong cách cũng đầy đặn, phương phi khác với những
người nghèo, không những khác nhau về cách hành xử mà còn khác
nhau cả về khiếu thẩm mỹ và ẩm thực. Người làm quan cao sẽ có vẻ
bề ngoài cao sang, được trọng vọng hoặc người có danh tiếng trong
xã hội thì thường có vẻ thanh cao ắt cũng được sự kính nể của mọi
người....Một cung Mệnh không thể hiện được địa vị quan chức trong
xã hội hay sự giàu nghèo của một cá nhân mà phải kết hợp với cung
Tài, cung Quan. Người mệnh tốt chính tinh miếu địa vẫn có thể
nghèo hoặc chẳng có quan chức gì nếu cung Tài, cung Quan xấu và
ngược lại, cung Mệnh tuy xấu nhưng cung Tài, cung Quan tốt thì vẫn
phú quý. Mệnh chỉ có tác dụng hỗ trợ hoặc triết giảm tính chất của
các cung khác, điều này thể hiện rất rõ khi có Tuần – Triệt. Ví dụ:
Cung Mệnh có Địa không Địa kiếp thì cuộc đời luôn luôn phải tất
bật lo lắng về tiền bạc cho dù giàu hay nghèo. Nếu đi kèm với một
cung Tài tốt thì người đó vẫn giàu có nhưng trong con mắt của mọi
người thì vẫn là người chặt chẽ, bần tiện. Ngược lại cung Tài cũng
xấu thì nhất định dễ gặp cảnh tha phương cầu thực.
Cung Mệnh tốt nhưng cung Tài gặp Địa Không – Địa Kiếp thì trông
dáng vẻ vẫn phong độ không phải lo lắng nhiều về tiền bạc nhưng
không giàu được (trừ khi vào vận đẹp, nhưng hết vận thì cũng hết
tiền) và để kiếm tiền họ dễ làm chuyện phạm pháp. Nếu có nhiều
thiện tinh và cung Tật tốt, cung Quan có sao tài thì sẽ làm công việc
quản lý tiền bạc, nhiều tiền mà không phải của mình (kế toán, thủ
quỹ…) .
Đối với những trường hợp cung Mệnh bị Tuần hoặc Triệt thì có nghĩa
là Tuần Triệt đã ngăn cản sự chi phối qua lại giữa cung Mệnh với
Quan, Di, Tài. ở những trường hợp này qua dáng vẻ bề ngoài ta khó
mà nhận biết được đối tượng là người giàu, nghèo, quan chức hay là
thường dân. Ví dụ:
nếu cung Mệnh xấu bị Tuần Triệt nhưng cung Tài hoặc cung Quan
rất tốt thì người đó vẫn có địa vị lớn hoặc rất giàu có mặc dù trông
dáng vẻ bề ngoài xấu xí hoặc tướng mạo bần tiện. Thường rơi vào
trường hợp của những người trọc phú hoặc quan chức có dị tướng
nhưng thoáng nhìn có dáng điệu như nông dân. Lúc này muốn biết
rõ hơn về cuộc sống và diện mạo của đối tượng thì chỉ cần xét các
sao trong cung bản cung và các sao hạn (nhưng những trường hợp
này chúng ta sẽ gặp nhiều hạn chế). Nếu các sao trong cung Mệnh
tốt, có nhiều cát tinh thì cuộc sống người đó vẫn thoải mái và hình
dáng vẫn có phong độ phú quý.
trường hợp gặp Tuần, các sao vẫn được xét như bình thường;
trường hợp gặp Triệt, cần chiết giảm 1/2 tính chất của các sao.
Nếu cung Mệnh đẹp, có nhiều cát tinh mà cung Tài, Quan, Di xấu
lại bị Tuần hay Triệt thì người đó cho dù tướng mạo tốt, phong độ
nhưng vẫn không phải là kẻ có quan chức hay giàu có. Mặc dù bị
Tuần Triệt, không được sự hỗ trợ của cát tinh từ cung Mệnh nhưng
các sao trong bản cung Tài, Quan, Di tốt tạo thành cách cục giàu
hoặc sang quý, người đó vẫn giàu hoặc có địa vị cao.
Cung Mệnh phản ánh hình ảnh thể hiện thọ yểu, sang hèn, lành dữ
hay trí thức, thương gia, quan lại, phong độ uy nghi, hình dáng đẹp
đẽ hay dị tật, bệnh tật trên cơ thể. Nếu cả Mệnh – Tài – Quan đều tốt
và có cách cục rõ ràng thì là điều đáng quý, đó là lá số của những
bậc thiên tử hoặc danh nhân, cho dù trong vận trình của cuộc đời có
gặp những hạn rất xấu thì cũng vẫn hơn người bình thường
3. Cung Phúc Đức
Cung Phúc Đức là cung quan trọng nhất trong Tử Vi, có ảnh hưởng
chi phối đến 11 cung số. Một cung Phúc tốt có thể gia tăng ảnh
hưởng tốt và chế giảm những sự xấu của các cung khác. Xem cung
Phúc có thể biết qua về phúc trạch, thọ yểu và sự thịnh suy trong
giòng họ có ảnh hưởng đến chính mình, để từ đó hành thiện tích
đức, gieo nhân tốt để ở trong giòng họ. Cung Phúc Đức cho biết rõ
nhân quả, nghiệp báo của chính mình, là sự biểu hiện của Quả trong
đương kiếp bởi Nhân
Luận thêm về cung phúc đức
Tác dụng của cung Phúc đức trong Đẩu Số, là dùng để luận đoán
hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh thần của một người. Nếu
so với cung Mệnh và cung Thân, có thể nói cung Mệnh và cung Thân
là chủ về hưởng thụ vật chất, vận trình thực tế, còn cung Phúc đức
thì chủ về những thứ trìu tượng hơn.
Có một số người nhìn bề ngoài thì nhận thấy "công thành danh
toại" khiến cho người ta phải ngưỡng mộ, nhưng có thể nội tâm của
người này đang đau khổ mà người ngoài cuộc không biết. Đây là vì
cung Mệnh và cung Thân người này tốt, nhưng cung Phúc đức lại có
những khiếm khuyết đáng tiếc. Hoặc ngược lại, có một số người chỉ
được no ấm mà thôi, nhưng nội tâm của họ lại rất vui vẻ, đây là do
cung Mệnh và cung Thân không tốt mấy, mà cung Phúc đức lại tốt.
Cung Phúc đức và cung Tài bạch đối nhau, có thể thấy sinh hoạt
tinh thần vẫn không thể thoát khỏi sự ràng buộc của tài phú, tam
phương hội chiếu với cung Phu Thê cũng đủ nhận thấy sự hưởng
thụ tinh thần của một người có tương quan mật thiết với sinh hoạt
hôn nhân, tam phương cũng tương hội với cung Thiên Di, là do hoạt
động tư tưởng của con người ta, có thể ảnh hưởng đến động hướng
của người đó. Ở quê nhà hay đi xa để tìm hướng phát triển, thường
chỉ quyết định trong một hoài niệm.
Những điều trình bầy trong "tiết" này sẽ lấy tình trạng tốt xấu của
sự hưởng thụ tinh thần làm điểm chính yếu. Còn về phương diện
hoạt động tư tưởng, do mỗi người được giáo dục ở nhiều mức độ
khác nhau, thì rất khó tiến hành giảng giải một cách cụ thể, chỉ có thể
đưa ra một số điểm chính yếu quan trọng.
Khi luận đoán cung Phúc đức, lấy cung Phúc đức của Thiên bàn
làm chủ, dùng để luận đoán bản chất tư tưởng và xu thế chủ yếu về
phương diện hưởng thụ tinh thần của mệnh tạo. Cung Phúc đức của
đại hạn và lưu niên (Nhân bàn) dùng để xem biến thiên theo từng
năm mà xác định được sự thay đổi về tư tưởng, cách nhìn nhận về
một vấn đề của người đó. Như cung Phúc đức của Thiên bàn là sao
Tử vi, có nghĩa là Tử vi là bản chất, trong một vận trình gặp Thiên cơ
ở cung Phúc đức của đại hạn hay lưu niên, thì tinh thần đôn hậu
vững vàng của Tử vi vẫn không thay đổi, nhưng lại chủ về mệnh tạo
sau khi lớn lên sẽ tăng thêm tính linh động, mưu trí và quyền biến.
Như vậy khi luận đoán nhát thiết không được xem thường tính chất
chủ yếu của cung Phúc đức nguyên cục.
Giai thoại về Tử Vi đời Tống
Vua Tống :
Trẫm có một thắc mắc : Trong cùng một giờ, một ngày, một tháng,
một năm, có hàng vạn vạn người sinh ra, không lẽ cuộc đời họ cũng
giống nhau ư?
Tây Sơn lão nhân :
Bệ hạ hỏi thực phải. Điều này có chép trong Tửvi kinh, nhưng bệ
hạ không ngự lãm mà thôi.
Nhà vua cầm cuốn sách lên:
Trẫm đã đọc kỹ, đọc đến thuộc làu, mà không thấy đoạn ấy. Đạosư
chỉ cho biết vấn đề này chép ở chương nào.
Xin bệ hạ mở trang đầu, bài phú Tửvi cốt tủy, sẽ thấy.
Quả thực trẫm sơ ý. Khi mở sách, trẫm đọc ngay chương nhất, mà
không đọc phần tựa. Thì ra tổ chép ở đó.
Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung.
Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan,
Thị tại vận hành hung cát.
À, hai câu này trẫm có đọc qua, mà không hiểu rõ cho lắm.
Không phải mình bệ hạ, mà hầu như những đệ tử Hoasơn đời sau,
khi xem số đều chỉ chú ý đến những cung Mệnh, Tài, Quan cùng vận
hạn. Ít người chú ý đến cung Phúc cũng như cung Tậtách. Cái chìa
khóa khoa Tửvi là câu này.
Trẫm chờ đạosư chỉ dạy.
Tâu bệ hạ, cung Phúc rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến ba cung
Phuthê, Tàibạch, Thiêndi là lẽ đương nhiên. Nó gần như khống
chế toàn cuộc đời về: Giầunghèo, thọyểu, sanghèn, vinhnhục,
sầuthảm và khổcực. Tùy theo cung Phúc tốt hay xấu mà biết
đương số giầu hay nghèo, sống lâu hay chết yểu; sang hay hèn,
sang cũng có nghĩa làm quan lớn, có danh tiếng hay không? Tức có
vinh không? Rồi cuộc đời biai hay toại chí đắc thế?
Không ngờ cung phúc quan trọng như vậy. Nhưng trẫm vẫn chưa
hiểu rõ hơn về những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm.
Tâu bệ hạ, cung Phúc bao gồm nhiều yếu tố cuộc đời. Mà cung
Phúc lại ứng vào với ngôi mộ mà đương số được hưởng phúc.
Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin đạosư lấy một vài lá số làm tỷ dụ.
Vâng, thần xin lấy số của Chiêuvăn quan đại học sĩ Vương Tăng
cùng với số của Kinhlược sứ QuảngTây lộ Vương DuyChính. Cả
hai cùng sinh vào giờ Tỵ, ngày hai mươi tháng sáu năm BínhTý.
Thế nhưng cuộc đời hai vị hoàn toàn khác nhau về chi tiết, nhưng đại
thể thì giống nhau.
Ừ nhỉ, khi bổ nhiệm hai người, trẫm đều xem qua số trước, nhưng
trẫm sơ tâm không chú ý đến hai người cùng một số. Cả hai người
cùng đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần. Đồng,
Lương thủ mệnh, thêm Mã, Lộc, Tang, Hình, Tamthai. Đồng, Lương
là cách làm quan, nhưng đắc cách cực tốt Lộc, Mã giao trì. Tửvi kinh
nói Lộc, Mã giao trì, kinh nhân giáp đệ. Nên hai người tuy thi hai
khóa khác nhau, mà cùng đỗ cao cả. Thời thơ ấu của Tăng thì yên
ổn, nhung lụa. Còn thời thơ ấu của Chính thì khổ cực đến phải đi làm
nô bộc. Cả hai cùng bị người anh ngu si, dốt nát, lêu lổng ghen tỵ,
đánh đập. Cả hai năm trước đây vợ đều chết. Tăng tục huyền với
con nhà danh gia. Chính tục huyền với con nhà bần hàn. Tăng làm
quan tại triều, Chính trấn ngự Namthùy.
Thần xin giải cái khác nhau đó. Cả hai vị cung Phúcđức do
Tháidương thủ, ngộ Triệt, gặp Kiếp, Đà. Tháidương chỉ vào ngôi
mộ ông nội. Ngôi mộ ông nội của Tăng để vào đầu mỏm núi, hướng
ra vòm sông, cảnh trí rất dẹp, giống như ngồi trong cái nghiên bút.
Thế đất đó trong khoa Địalý gọi là Bút mặc, văn giai. Còn mộ ông
nội Chính để vào khu ruộng trũng, phía trước có cồn dâu, trên cồn có
tượng thờ hổ đá. Thế đất đó gọi là Bạchhổ tọa trấn. Vì vậy Tăng thi
đậu sớm, làm quan tại triều, chức tới tể thần, ngoài ra còn lĩnh
Khumậtviện sứ. Còn Chính thi đậu trễ hơn mấy năm, gốc là quan
văn, sang làm quan võ, hay Tửvi kinh gọi là Xuất võ do văn .
TâySơn lão nhân tiếp:
Cả hai người, đều đắc cách Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương
đến hai lần. Vì vậy Chính lĩnh kinh lược sứ QuảngTây, trấn
Namthùy. Còn Tăng tuy ở triều, nhưng trong Khumật viện, y lĩnh
trọng trách Namphòng cũng giống như trấn ngự biên cương.
Trẫm tưởng chỉ một lần thôi chứ. Hai người cùng có cách
Kìnhdương cư quan tại Ngọ, là Mã đầu đới kiếm.
Tâu bệ hạ, Thiênhình, Thiênmã thủ mệnh tại Dần cũng là cách
Mãđầu đới kiếm. Nhưng vì ngôi mộ ông nội của Tăng thiên về văn,
nên tiến trình của Tăng văn nhiều hơn võ. Còn ngôi mộ ông nội
Chính thiên về võ nhiều hơn văn, nên ngôi sao võ có dịp nổi dậy.
Lão nhân ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
Hồi thơ ấu, đức TháiTổ có người bạn tên Chu Năng. Hai người
cùng số TửVi. Cung Phúcđức có Thamlang tại Tuất. Ngôi mộ ứng
với Thamlang của đức TháiTổ kết phát nên người lập được nghiệp
rồng. Còn ngôi mộ ứng với cung Phúc của Chu Năng ở vào chỗ cùng
cực xấu, nên Chu cũng sáng nghiệp bằng cách qui dân lập được
mấy ấp, được tôn làm hương trưởng, rồi sau khi chết được tôn làm
thần Thànhhoàng. Đó bàn về phúc. Cung Phúcđức bao gồm phần
phúc và đức. Hai người cùng một số, nhưng tổtiên, ôngbà, bốmẹ,
và bảnthân xây dựng cái thiệnđức, thì đương số được hưởng phú,
thọ, quý, vinh nhiều hơn. Phần yểu, bần, ai, khổ giảm. Còn như tiền
nhân gây nhiều ácđức, thì phú, thọ, quý, vinh giảm; mà yểu, bần, ai,
khổ tăng.
Nhà vua hiểu ra:
Như vậy những người cùng số, có cuộc đời hao hao giống nhau.
Nhưng tùy theo ngôi mộ ứng với cung Phúcđức táng ở thế đất kết
hay bại, mà phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ khác nhau. Bây giờ
tới vấn đề khác. Như số những người chết một lúc như chiếntranh,
đắm thuyền. Không lẽ số những người đó đều đến ngày ly thế cả hay
sao?
Tâu bệ hạ, trong Tửvi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:
Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.
Nhà vua suýt xoa:
Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây
giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ
nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu
sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được
ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực.
Đó là vận con phải thua vận cha.
Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở
trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả
làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng
giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu
so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.
Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng
làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm.
Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết,
nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều
người chết.
4. Cung Điền Trạch
Xem Cung Điền để biết qua về điền sản cơ nghiệp, nhà cửa cùng với
sự thủ đắc thừa hưởng hay tự tạo và mức độ thụ hưởng hay phá
tán của mình.
Luận thêm về cung điền trạch
Trong Đẩu Số, cung Điền trạch có hai ý nghĩa:
Một là, quan sát các sao ở cung Điền trạch của nguyên cục, có
thể biết được vận thế địa sản của cuộc đời mệnh tạo, như cha mẹ có
để lại di sản không, sau khi thừa kế di sản có phá tán, thất bại không,
và vận thế mua thêm nhà cửa đất đai của mệnh tạo như thế nào?
Hai là, quan sát các sao cua cung Điền trạch của lưu niên hoặc
đại hạn, có thể biết được năm (hoặc đại hạn) nào có thể mua thêm
nhà cửa đất đai không, có dời chỗ ở không.
Hai điểm vừa thuật ở trên, là ý nghĩa phổ biến của cung Điền
trạch. Ngoài ra, cung Điền trạch còn có thể dùng để trợ giúp luận
đoán vận gia trạch của lưu niên. Lúc này liên quan đến tính chất của
tổ hợp các sao ở cung Điền trạch.
5.Cung Quan Lộc
Cung Quan Lộc là một trong tam hợp ba cung chính của Tử Vi để
biết về công danh, sự nghiệp, những triển vọng của nghề nghiệp
(đắc thời hay thất bại) và những khả năng chuyên môn của chính
mình.
Luận thêm về cung quan lộc
Cung Sự nghiệp cổ nhân gọi là cung Quan lộc, đó là vì ở thời cổ
đại địa vị xã hội của những người trong giới "công", "thương",
"nông", đều rất thấp, chỉ có học hành để ra làm quan mới là con
đường tốt nhất.
Cho nên trong tinh bàn Tử vi Đẩu Số, cung Quan lộc và cung
Phu thê phải đối nhau. Đó là vì Quan lộc sự nghiệp của một người có
thể ảnhhưởng đến địa vị của vợ con.
Ngày nay xã hội đã hoàn toàn khác, địa vị của giới doanh nhân
rất cao, tất cả đều coi trọng tiền bạc, có thể nói mọi con đường đều
quy tụ về tiền. Học hành để ra làm quan không còn là con đường lý
tưởng duy nhất. Người đàn ông thường lấy sự nghiệp làm trọng, vì
vậy "cung Quan lộc" được các nhà Đẩu Số hiện đại đổi lại cách gọi
tên, được gọi là cung Sự nghiệp. Mà cung Sự nghiệp và cung Phu
thê xung chiếu nhau, cũng có nghĩa là xem sự nghiệp và gia đình
mâu thuẫn nhau. Vì vậy cần quan sát các sao của hai cung này xem
có điều hòa hay không.
Trong bối cảnh như vậy, cổ nhân đã định ra một số nguyên tắc
luận đoán "cung Quan lộc" có thể nói là không còn hợp thời. Ví như
"Thái dương nhập miếu được Cát tinh vây chiếu là quan nhất phẩm
đương triều" (Thái dương nhập miếu đắc cát củng, nhất phẩm
đương triều), "Thiên đồng nhập miếu, chức quan văn võ tam phẩm"
(Thiên đồng nhập miếu, văn vũ tam phẩm chi chức), "Phá quân ở
cung nhàn nên làm nghề thủ công, gặp Cát tinh thì có thể mua chức
quan" (Phá quân nhàn cung nghi thủ nghệ, kiến cát tắc khả quyên
ban). Tất cả những luận đoán này, ít nhiều đã lỗi thời ở thời hiện
đại.
Nói một cách thẳng thắn, chúng ta có thể biết tính chất tổ hợp
các sao phù hợp với nghề gì, nhưng lại không thể dựa vào các sao
mà nói ra nghề nghiệp cụ thể của nó. Ngoài ra, khi phán đoán nghề
nghiệp của một người, còn phải tham khảo các sao của cung Mệnh
và cung Phúc đức, điểm này cần chú ý.
Liên quan đến vận thế sự nghiệp cuộc đời của một người, cũng
không nên chỉ căn cứ ở cung Sự nghiệp nguyên cục để luận đoán,
mà còn cần phải quan sát sự di chuyển của đại hạn và lưu niên, căn
cứ vào cung Sự nghiệp của hành hạn, để nghiên cứu một cách tỷ mỉ,
thêm vào đó là phối hợp "Lưu diệu", xem vận thế nghề nghiệp thuận
hay nghịch như thế nào, tự nhiên có thể đưa ra phán đoán chính xác
hơn.
6. Cung Nô Bộc
Cung Nô Bộc cho biết về bè bạn, người cộng sự, cấp trên hay người
giúp việc, đối với mình tốt hay xấu, có lợi hay không về mặt tài lộc
hay công việc. Ngoài ra, Cung Nô Bộc cũng là một điều kiện cần thiết
để tìm hiểu thêm về cung Phu Thê.
Luận thêm về cung nô bộc
Cung Giao hữu cổ nhân gọi là cung Nô bộc. Trong xã hội cổ đại, "nô
bộc" là thành viên của gia đình. Một đời làm "nô bộc", đời đời là "nô
bộc", cho nên sự tốt xấu của cung Nô bộc đúng là có liên quan đến
sự thịnh suy của gia tộc. Vì vậy các nhà Đẩu Số cổ đại khi luận đoán
khá xem trọng "nô bộc" có lực hay không? nô bộc nhiều hay ít? có
phản chủ không? có giúp đỡ chủ không? mức độ trợ lực cho chủ là
cao hay thấp?
Ngày nay, cung Nô bộc đổi thành cung Giao hữu là một sự cách
tân rất lớn. Về mặt lý luận, ngày nay đã không còn mối quan hệ chủ
tớ như ngày xưa, dó đó về căn bản, không cần nhìn từ "nô bộc" để
suy diễn ra vận mệnh của một gia tộc. Nhưng sự tốt xấu của các mối
quan hệ giao tế là rất quan trọng đối với người hiện đại, việc sửa đổi
thành cung Giao hữu đúng là đã mang lại cho khoa Đẩu Số cổ xưa
một hàm nghĩa mới.
Có lẽ, nhiều người sẽ hoài nghi rằng: "Cổ nhân truyền lại pháp
môn này, sao có thể tùy tiện sửa đổi?" Thực ra Đẩu Số là đời đời
tương truyền, đã luôn luôn biến động thay đổi, từ "Thập bát phi tinh"
phát triển thành "Tử Vi Đẩu Số" chính là một biến động thay đổi cực
lớn. Về sau, từ thời Nam Tống cho đến Minh Thanh, đời nào cũng có
người truyền lại không ít khẩu quyết khá hữu dụng, đó cũng là sự
biến đổi cách tân trong Đẩu Số. Vì vậy vấn đề không phải ở chỗ có
nên thay đổi hay không, mà là những thay đổi cách tân đó có hợp lý
hay không?
Thử xét tam phương tứ chính của cung Nô bộc, đối cung là cung
Huynh đệ, cung hội hợp là cung Phụ mẫu và cung Tử tức, đây rõ
ràng là một tổ hợp tổ tông ba đời và nô bộc, cũng tức là một mô thức
điển hình của gia tộc cổ xưa.
Ngày nay lấy tính chất "nô bộc" biến đổi thành tính chất "quan hệ
giao tế". Theo phái Trung Châu, cũng lấy cung Huynh đệ xem là
quan hệ với người ngang vai. Lấy cung Phụ mẫu xem là quan hệ với
bậc trưởng bối. Lấy cung Tử tức xem là quan hệ với những người
thuộc vãn bối. Các sao của ba cung vị này hội chiếu với cung Giao
hữu, vì vậy sẽ phản ảnh các mối quan hệ giao tế một cách chỉnh
thể.
Lúc luận đoán Đẩu Số, khi lấy cung Giao hữu dùng để luận đoán
về mối quan hệ với nhân viên làm thuê hoặc người dưới quyền, cũng
cần đồng thời lấy "Phụ mẫu"xem là ông chủ, thượng cấp, hoặc bậc
tiền bối trong nghề nghiệp của mệnh tạo, lấy "Tử tức" xem là trợ thủ
trực thuộc, hoặc những người thuộc lớp vãn bối trong nghề nghiệp
của mệnh tạo, và lấy "Huynh đệ" xem thành nhưng người ngang vai
với mệnh tạo, còn cung Giao hữu là một phản ánh chung.
Người mới bắt đầu tiếp cận với Đẩu số thường mắc phải một
bệnh, đó là không quan sát toàn diện các sao của các cung có liên
quan. Lấy việc không quan sát các sao của cung "nô bộc" làm ví dụ,
cổ nhân lấy cung Phụ mẫu và cung Nô bộc có quan hệ hỗ tương như
thế nào, từ đó có thể biểu thị tình trạng "nô bộc" của đời "phụ mẫu".
Nếu cũng lấy cung Huynh đệ và cung Tử tức ra quan sát, xem xét
mối quan hệ hỗ tương của chúng với cung Nô bộc, thì có thể biết
được tình trạng "nô bộc" ba đời.
Ngày nay quan sát cung Giao hữu cũng có thể dùng biện pháp
như vậy. Nếu lấy cung Phụ mẫu và cung Giao hữu ra so sánh, đồng
thời tiến hành nghiên cứu mối quan hệ của chúng, thì có thể nhìn ra
mối quan hệ của thượng cấp và người dưới quyền của mệnh tạo.
Ví dụ như cung Phụ mẫu có Thiên lương độc tọa ở Ngọ, cung
Giao hữu có Thiên đồng độc tọa ở Tuất, còn cung Huynh đệ là Cự
môn ở Thìn có Sát tinh chiếu xạ, thế là chúng ta có một giả định tốt
nhất là: thượng cấp là một người rất thích soi bói, bới lông tìm vết,
trong đồng sự có người ưa đâm bị thóc chọc bị gạo, vì vậy mà bản
thân mệnh tạo thường bị ở vào tình trạng lúng túng, khó xử về quan
hệ giao tế ở nơi làm việc, có thể sẽ bị lôi kéo vào vòng tranh chấp,
bất hòa. Điềm này có thể nhìn ra từ tính chất của Thiên đồng ở cung
Tuất.
Nhưng nếu Thiên lương có hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa hội
hợp, thì tính chất của Thiên lương sẽ biến thành cao thượng, độ
lượng, Thiên đồng thủ cung Giao hữu cũng sẽ bị ảnh hưởng của
"Lộc Quyền Khoa hội" mà được cải thiện.
Trung Châu phái đưa ra phương pháp luận đoán này, có thể
giúp cho người mới nghiên cứu Đẩu Số tìm ra tình trạng quan hệ
nhân tế của mỗi giai đoạn trong cuộc đời một người khá rõ ràng.
7.Cung Thiên Di
Cung Thiên Di là cung đối xung với cung Mệnh chỉ về tình trạng
ngoại cảnh của mình, môi trường xã hội bên ngoài ảnh hưởng tới
mình, những sự may rủi hay giúp đỡ của người ngoài. Vì là cung đối
xung với Mệnh nên cung Thiên Di chính là đối phương của mình (xin
xem thêm "Luận về cung xung chiếu" để tham khảo).
Luận thêm về cung thiên di
Trong Đẩu Số, cung Thiên di dùng để luận đoán về vấn đề từ nơi
sinh ra dời đến nơi khác để ở, đồng thời cũng có thể dùng để luận
đoán tình trạng xuất ngoại để kinh doanh. Cung Thiên di của lưu
niên, cũng luận đoán về những tao ngộ khi đi đâu xa, như có vui vẻ
hay không? có bị trộm cướp hay không? có gặp điều gì bất ngờ hay
không?
Do cung Thiên di và cung Mệnh xung chiếu nhau, vì vậy các sao
của cung Di cũng ảnh hưởng đến tính cách của mệnh tạo, đặc biệt là
về năng lực xã giao, quan hệ giao tế, .v.v...
Cung Di tương hội với cung Phúc, nên sự hưởng thụ tinh thần
của một người đúng là có liên quan với quan hệ giao tế và hoạt động
xã giao củ người đó. Còn việc đi ở nơi khác đem lại kết quả tốt hay
xấu, đương nhiên có thể căn cứ phần nào vào tinh trạng hưởng thụ
tinh thần mà luận đoán.
Cung Di tương hội với cung Phu thê là rất hợp lý, bởi vì cho dù ở
thời cổ đại, một người rời đại gia đình để phát triển hoặc vẫn ở quê
hương sinh sống làm ăn, đương nhiên cũng có quan hệ với sinh hoạt
vợ chồng. Các mối quan hệ xã giao cũng không thể không bị ảnh
hưởng của người phối ngẫu. Đối với việc mang gia đinh đi nơi khác
lập nghiệp thì càng có quan hệ mật thiết với người phối ngẫu.
Do đó có thể thấy, tổ hợp các sao ở cung Di trong Đẩu Số là rất
quan trọng, thậm chí có thể nói chỉ kém hơn cung Mệnh và cung
Thân. Hơn nữa khi luận đoán xu thế mệnh vận của một người, có
một điểm cần biết, đó là khi một người rời nơi sinh ra, đến nơi khác
để ở, xu thế vận mệnh của năm đầu tiên, là do cung Di quyết định,
mà không phải do cung Mệnh quyết định. Do đó cần phải lấy cung Di
làm cung Mệnh để xem xét, các cung vị khác vẫn không thay đổi.
Giả dụ một người không ngừng di chuyển (như thuyền viên,
phi công, .v.v...), không ở cố định một nơi nào, cũng phải lấy cung Di
làm cung Mệnh để luận đoán.
8.Cung Tật Ách
Xem cung Tật Ách để biết qua về tình trạng chung về sức khỏe,
những bệnh tật có thể mắc phải hay những tai ương họa hại có thể
xảy đến với mình trong đời.
Luận thêm cung tật ách
Tam phương tứ chính" của cung Tai ách là cung Phụ mẫu, cung
Huynh đệ và cung Điền trạch. Tổ hợp tinh hệ này là do trong chế độ
đại gia đình, bệnh tật rất dễ lây nhiễm, thêm vào đó ở xã hội phong
kiến cổ đại, thành viên của gia tộc mà phạm tội, thường thường có
thể liên lụy đến người thân, vì vậy tổ hợp "tam phương tứ chính" này
có một ý nghĩa đặc thù.
Hoàn cảnh xã hội diện đại tuy đã biến đổi, nhưng cung Tật ách
đối xung với cung Phụ mẫu dùng để xem bệnh di truyền, và hội
phương với cung Điền trạch để xem trạng thái sức khỏe của các
thành viên trong gia đình. Thậm chí quan sát các sao thủ các cung
hội hợp với cung Huynh đệ để xem "đời người" có hung ách hay
không, theo kinh nghiệm của phái Trung Châu mà Vương Đình Chi
đại diện thì vẫn hữu hiệu.
Cung Tai ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến
vấn đề tai ách có xảy ra hay không, cung Tai ách thực ra chỉ có thể
dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách, thường thường phải
phối hợp thêm tinh hệ của cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ
của cung Tai ách. Còn đối với việc luận đoán bệnh tật, thì nên xem
xét cả tinh hệ của cung Mệnh lẫn tinh hệ của cung Tai ách, hai cung
đều quan trong ngang nhau. Ví dụ như "Liêm trinh Thất sát" thông
thường chủ về bệnh đường hô hấp, nếu cung Tai ách gặp tinh hệ
này thì đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật ách gặp
sao Ác, mà cung Mệnh là "Liêm trinh Thất sát", thì cũng chủ về
đường hô hấp.
Có lúc thậm chí phải lấy tinh hệ của cung Mệnh và tinh hệ của
cung Tai ách phối hợp lại để luận đoán một loại bệnh tật. Ví dụ cung
Tật ách gặp "Liêm trinh Thất sát", có Sát tinh hội chiếu, cung Mệnh
gặp Hồng loan và Thiên hỷ, theo luận giải của Vương Đình Chi có
thể phát hen suyễn, hoặc tạm thời không phát tác, đến khi cung
Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên gặp Hồng loan, Thiên Hỷ, lại có
thêm lưu Sát tinh xung hội thì mới phát bệnh.
Thí dụ kể trên có thể biết, dựa vào các sao để luận đoán tật
bệnh là rất khó. Trung Châu phái chỉ trình bầy một số kinh nghiệm bí
truyền và nghiên cứu của Vương Đình Chi về tính chất các tinh hệ
trong vấn đề bệnh tật và tai ách, khi nghiên cứu nên vận dụng linh
hoạt, không nên quá câu nệ. Có lúc phải mang các sao của cung
Mệnh và cung Tai ách, cùng với các sao hội hợp ở tam phương tứ
chính ra đồng thời tham chiếu, thậm chí còn phải mang "Lưu diệu"
của đại hạn hoặc lưu niên ra phối hợp để luận đoán, mới có thể
chính xác.
Ví dụ trường hợp xem bệnh ung thư vòm họng, tinh hệ chủ yếu
vẫn là "Liêm trinh Thất sát", hành vận đến cung hạn Thiên đồng và
Cự môn đối nhau, nếu đại hạn có các sao Sát Kị cùng chiếu, mà còn
gặp Long trì đồng độ hoặc xung chiếu cung Mệnh, còn "Liêm trinh
Thất sát" lại hội hợp với Hỏa tinh Linh tinh, hoặc Thiên hình, thì trong
đại hạn này sẽ phát bệnh. Lấy trường hợp này làm ví dụ, để người
nghiên cứu có thể thấy được phần nào phép tắc luận đoán bệnh tật.
Dùng Đẩu Số luận bệnh tật hoàn toàn lấy nguyên lý Âm Dương
Ngũ hành của Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp
với tên gọi các bệnh theo Y học hiện đại.
9. Cung Tài Bạch
Cung Tài là một trong ba cung tam hợp chính MệnhTàiQuan của
Tử Vi cho chúng ta biết tổng quát về tiền tài, mức độ giàu nghèo, thời
gian hao phát và may rủi, khả năng thụ hưởng, tư cách sử dụng về
tiền tài vật chất của mình.
Luận thêm cung tài bạch
Tiền bạc (tài bạch) là tư liệu để nuôi sống, nhất là trong xã hội
thương nghiệp, địa vị xã hội của một người đầu như do tiền bạc
quyết định, vì vậy việc luận đoán tiền bạc có hay không, và chủ yếu
làm nghề nghiệp gì để kiếm tiền, đã trở thành vấn đề khá quan
trọng.
Liên quan đến vấn đề trọn nghề nghiệp gì cho thích hợp, đã
được thảo luận khi tường thuật về tổ hợp tinh hệ của cung Mệnh,
nên khi nghiên cứu cung Tài bạch, chủ yếu tập trung về thành tố "tài
khí" như thế nào, có tiền của dần dần hay phát lên một cách nhanh
chóng, sau khi có tiền của thì có giữ được hay không.
"Tam phương tứ chính" của cung Tài bạch là đối cung Phúc
đức, và hai cung tam phương là cung Mệnh và cung Sự nghiệp.
Cung Phúc đức chủ về hoạt động tư tưởng và sự hưởng thụ tinh
thần. Chuyện cơm áo gạo tiền khiến cho người ta phải lo toan nghĩ
ngợi, và tình trạng nghèo hay giầu có thể ảnh hưởng đến tinh thần
của một người. Đủ thấy tính chất ảnh hưởng qua lại của cung Phúc
đức và cung Tài bạch.
Đối với cung Mệnh, vận thế của mệnh tạo và cách cục chủ yếu
được quyết định từ đây, đương nhiên có liên quan đến "tài bạch".
Mối liên hệ giữa Sự nghiệp và Tài bạch, đương nhiên cũng là then
chốt hỗ tương. Cung Mệnh, cung Sự nghiệp, cung Tài bạch hội hợp,
đúng là tượng trưng cho "vị thế của lợi lộc".
Nếu chỉ đơn thuần dựa vào cung Tài bạch của nguyên cục để
luận đoán tiến bạc "được mất", thường thì chẳng đúng, bởi vì nó chỉ
hiện thị những tính chất rất giới hạn. Nếu muốn luận đoán một cách
tinh tế và chính xác, nhất định phải xem xét tới cung Tài bạch của đại
hạn để luận đoán, sau đó mới có thể biết sự phát triển tài vận của
một đời người, còn cung Tài bạch nguyên cục chỉ chủ về xu thế
chung của tài vận.
Điều cần chú ý là, lúc luận đoán cung Tài bạch của đại hạn mà
gặp "lưu Lộc", "lưu Quyền", "lưu Khoa", "lưu Tồn", "lưu Mã", "lưu
Dương", "lưu Đà", thì tất cả chúng có cùng một tác dụng như các
điều đã thuật về tính chất cơ bản của chúng.
10.Cung Tử Tức
Xem cung Tử Tức là để biết qua về đường con cái của mình như số
lượng (nhiều hay ít và trai gái) tình trạng nuôi dưỡng con cái, có con
nuôi hay dị bào không và sự khắc hợp giữa mình với con cái. Cần
phải xem phối hợp với các cung MệnhThânPhúc, cung Tử Tức
trong lá số của người phối ngẫu và sự truyền tinh giữa các cung và
lá số để quyết đoán.
Luận thêm cung tử tưc
Trong mệnh bàn Đẩu Số, cung Tử tức và cung Điền trạch đối
nhau, cung Tử tức tương hội với cung Phụ mẫu và cung Nô bộc. Kết
cấu dạng này rõ ràng phản ảnh chế độ đại gia tộc thời xưa.
Đại gia tộc trong xã hội phong kiến, con cái là do đầy tớ (nô bộc)
phục dịch, do đó cung Nô bộc có ảnh hưởng nhất định đối với cung
Tử tức. Đồng thời có thể nhìn ra quan hệ "kế thừa sự nghiệp của cha
ông" từ tổ hợp các sao của cung Phụ mẫu và cung Tử tức, còn đối
với cung Điền trạch, Đẩu Số dùng để quan sát gia trạch, đương
nhiên càng có tương quan với cung Tử tức.
Do đó nếu nói tổ hợp tinh hệ của cung Huynh đệ là phô bầy cả
một đại gia tộc, dùng để quan sát thế hệ bề ngang của mệnh tạo, thì
tổ hợp tinh hệ của cung Phụ mẫu và cung Tử tức là một biểu đồ theo
chiều dọc, dùng để quan sát từ ông Tổ đến cha mẹ, rồi từ cha mẹ
đến con cái, cả một dòng họ truyền từ đời trước sang đời sau.
Ngày nay, chế độ đại gia tộc theo kiểu phong kiến đã sụp đổ, kết
cấu tinh hệ ở cung Tử tức và tam phương tứ chính đương nhiên đã
mất đi một số ý nghĩa ban đầu. Nhất là cung Nô bộc, ngoại trừ để
xem mối quan hệ với nhân viên làm thuê và người trực tiếp dưới
quyền, thì ngày nay còn dùng để quan sát bạn bè, đương nhiên sẽ
cảm thấy quá cách xa cung Tử tức. Vì vậy trong thực tế ứng dụng,
càng cần phải định ra một số nguyên tắc khác.
Sự tương quan hợp lý thứ nhất giữa hai cung, đó là lấy sự quan
sát "mối quan hệ gia tộc" như trước kia, cải biến thành quan sát "địa
vị xã hội". Bởi vì từ các tình trạng tốt xấu của cha mẹ, hay nhân viên
làm thuê và bạn bè, cho tới con cái của mệnh tạo, có thể luận đoán
ra địa vị xã hội của đương số.
Ví dụ như, nếu ba cung đều cát, thì mệnh tạo phải là người lúc
còn nhỏ được cha mẹ nuôi dạy khá tốt, bản thân cũng được bạn bè
giúp đỡ ủng hộ, đồng thời còn được nhân viên làm thuê trợ lực, đến
trung niên thì phát triển sự nghiệp, đến vãn niên thì có con cái có thể
kế thừa sự nghiệp của cha ông. Người này là mẫu người điển hình
của loại "lúc nhỏ là thiếu gia, lúc già gọi là lão gia", có địa vị xã hội
như thế nào chắc là không cần phải nói.
Nếu cung Phụ mẫu và cung Nô bộc không cát tường, nhưng
cung Tử tức thì có Cát tinh tụ tập, như vậy có thể luận đoán mệnh
tạo rất có khả năng phải trải quan gian lao vất vả, rồi mới tay trắng
tạo nên sự nghiệp, sau trung niên ít nhất cũng có địa vị vào hạng
trung lưu.
Dựa vào điểm suy đoán này, có thể trợ giúp chúng ta luận đoán
ra vận trình của bản thân mệnh tạo. Ngược lại, từ vận trình của bản
thân mệnh tạo, cũng có thể luận đoán ra con cái của mệnh tạo có
thành tựu hay không !
Ví dụ như, nếu cung Phụ mẫu là Cát, cung Mệnh cũng cát, cung
Nô không xấu, nhưng cung Tử tức lại xấu, thế thì, có khả năng
không có người thừa kế, cũng có thể là con cái bất tài, phẩm hạnh
quá kém.
Vì vậy có thể căn cứ vào tinh bàn để tìm ra một số chỉ dẫn. Ví dụ
như quan sát sự hiển thị của cung Tử tức, để biết về tính cách con
cái của mệnh tạo mà đưa ra một số lời khuyên
Đây cũng chính là nói, từ "tam phương tứ chính" của cung Tử
tức ngoại trừ xem có con nhiều hay ít, còn luận đoán về tình cảm của
mệnh tạo đối với con cái, và tính cách chủ yếu của con cái. Liên
quan về những luận đoán này, ta cần kết hợp với cung Tử tức của
đại hạn và lưu niên để đánh giá về vận mệnh của con cái đương số,
để biết con cái của đương số có thành tựu hay không?
11.Cung Phu thê
Xem cung Phu thê, có thể biết qua về hôn nhân và hạnh phúc, thời
gian lập gia đình, tính tình và tư cách, sự khắc hợp giữa mình với
người bạn đời. Ngoài ra, cung Phu thê còn thể hiện xu hướng mà
đương số muốn chọn bạn đời.
Luận thêm cung phu thê
Cung Phu Thê hội hợp "tam phương tứ chính" là cung Phúc Đức,
cung Quan Lộc và cung Thiên Di. Cách phối trí này rất logic.
Sự nghiệp của một người đương nhiên chịu ảnh hưởng của sinh
hoạt hôn nhân, di cư (Thiên di) tha hương, nếu không phải là vợ
chồng sinh ly tử biệt thì hoặc là vợ chồng đều nên sống ở tha hương,
đây cũng là vấn đề trọng đại của đời người, còn cung Phúc đức chủ
về sinh hoạt tinh thần của con người, mà quan hệ hôn nhân có ảnh
hưởng đến sinh hoạt tinh thần, điều này không nói cũng biết.
Cho nên việc quan sát và luận đoán cung Phu thê, cần phải xem
xét kỹ các sao của cung Phúc đức, cung Quan lộc và cung Thiên di,
các sao của ba cung này cũng chịu ảnh hưởng các sao của cung
Phu thê, đây là hiện tượng rất hợp lý.
Tiết này tuy dùng phương thức trình bày giản lược về các tinh
hệ của hiện tượng hôn nhân, nhưng đã suy tính đến mối liên hệ của
"tam phương tứ chính". Để tiện cho người nghiên cứu những ảnh
hưởng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh đối với tính chất các
tinh hệ chính diệu, nên sau khi trình bầy tính chất của 14 tinh hệ
chính diệu, vẫn có thêm một mục trình bầy tính chất của các sao Phụ
Tá Sát ở cung Phu thê, để có thể dung hợp nó với tính chất của tinh
hệ chính diệu, xem nó làm mạnh thêm hay yếu đi, hoặc tình hình
chuyển hóa như thế nào.
Ví dụ tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" chủ về trước hôn nhân có sóng
gió, trắc trở, hơn nữa còn chủ về phiêu bạt, còn tính chất của Lộc tồn
là vợ chồng ân ái, chỉ dễ bị người phối ngẫu bắt nạt, hà hiếp, vì vậy
mà hai người chia ly. Nếu dung hòa hai tính chất này, thì tham khảo
thêm ở đại hạn hoặc lưu niên để luận đoán xem phần nhiều xảy ra
chuyện gì.
Có điều khi luận đoán hôn nhân, không nên chỉ xem cung Phu
thê, mà còn nên xem kiêm tinh hệ của cung Mệnh. Trong xã hội hiện
đại, sinh hoạt hôn nhân giữa vợ và chồng, việc luận đoán không
ngoài những hạng mục như tình cảm, tài năng, dung mạo, và tài phú.
Thế sự lại rất khó toàn mỹ, tài năng và dung mạo cũng rất khó lưỡng
toàn, nhưng cũng không phải là không có khả năng tài năng, dung
mạo, tài phú đều có đủ, cho tới trường hợp khi các phương diện đều
hợp với lý tưởng, thì tình cảm lại thường thường dễ xảy ra thay đổi.
Cho nên đạo của vợ chồng, quý ở chỗ biết thích ứng. Tiết này chỉ ra
những hiện tượng quan trọng, mà còn gợi ý biện pháp dùng nỗ lực
hậu thiên để bổ cứu và thích ứng với cuộc sống hôn nhân.
Dưới đây là một số thể lể thích hợp cho tính hình chung, dùng
để luận đoán cung Phu thê.
Luận đoán cung Phu thê xem có mỹ mãn hay không, ngoại trừ
việc quan sát cung Phu thê ra, còn cần phải xem xét tinh hệ của
cung Mệnh, sau đó dung hòa hai tính chất này.
Mỗi một cung Phu thê của đại hạn đều phải chú ý xem xét, sau
đó mới có thể nhìn ra sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân và tình
cảm vợ chồng. Nhưng thông thường không cần dùng thêm tinh hệ
của cung Mệnh đại hạn để trợ giúp trong việc luận đoán, trừ khi xem
tai nạn bệnh tật.
Muôn luận định về hôn nhân, tốt nhất là mang tinh bàn của cả
hai người nam và nữ ra quan sát một lượt, chỉ càn quan sát cặn kẽ,
tỷ mỉ thì có thể nhìn ra một số tình tiết.
Khi luận đoán cung Phu thê, phải lưu ý một nguyên tắc, nhiều
Cát tinh chưa chắc có lợi, như Xương Khúc chủ về người phối ngẫu
quan tâm, chăm sóc, nhưng lại đồng thời có thể có tình nhân bên
ngoài. Các sao Hung, sao Ác cũng chưa chắc là không tốt, như Đà
La chủ về phối ngẫu rời xa quê hương, nhưng nếu gặp Lộc tồn,
nhưng nếu gặp Lộc tồn, Thiên mã, thì lại chủ về phát tài ở nơi xa,
hơn nữa tình cảm vợ chồng có thể rất tốt. Cho nên cần phải cân
nhắc tỷ mỉ cẩn thận.
Luận đoán cung Phu thê của Đại hạn hoặc Lưu niên, ngoại trừ
tham khảo tiết này, còn cần phải căn cứ vào bản chất của tinh hệ thủ
cung Phu thê nguyên cục.
12.Cung Huynh Đệ (hay cung Bào)
Xem cung Bào để biết qua một cách tổng quát về số lượng và tình
trạng của anh chị em trong gia đình, sự hòa hợp hay xung khắc giữa
anh chị em với chính mình.Các cung trên địa bàn là nơi phân định
trạng thái Miếu địa hay hãm địa cho các sao.
Luận thêm về cung Bào
ng xã hội hiện đại, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán cung Huynh đệ,
thực ra có khuyết điểm rất lớn. Ở xã hội cổ đại, anh em không tách
ra ở riêng, nên Đẩu Số có thể dựa vào các sao ở cung Huynh đệ để
luận đoán khái quát toàn bộ mệnh vận của gia tộc. Vì vậy ở tinh bàn,
đối nhau với cung Huynh đệ là cung Nô bộc (nay đổi lại là cung Giao
hữu), tương hội ở tam phương là cung Điền Trạch và cung Tật Ách.
Từ số lượng anh em nhiều hay ít, cho đến Nô Bộc nhiều hay ít
và có đắc lực hay không, thì Mệnh vận của một gia tộc có thể biết
được những tính chất sơ lược. Lại quan sát các sao của cung Tật
Ách để xem gia tộc có bệnh di truyền hay không, thì tình hình càng rõ
như chỉ bàn tay. Thời cổ đại một người phạm tội thì cả gia tộc bị liên
lụy, cho nên quan sát cung Tật Ách là rất quan trọng.
Xã hội hiện đại đã không còn chế độ đại gia đình, anh chị em
mỗi người đều có gia đình riêng. Hơn nữa không còn tình trạng bị
liên lụy người phạm tội trong gia đình. Cho nên, quan sát cung không
có gì quan trọng, cổ nhân đã đặt ra một số phép tắc, cũng có thể nói
hoàn toàn không còn hợp thời.
Theo Trung Châu phái, vẫn có thể vận dụng tổ hợp các sao của
cung Huynh đệ, để luận đoán về người có cùng một xuất thân với
mệnh tạo (theo cổ pháp, Huynh đệ cũng dùng để luận đoán về bạn
"đồng môn" và bạn "đồng niên")
Phàm cung Huynh đệ mà gặp Tả phụ, Hữu bật thì số anh chị em
không chỉ dựa vào chính diệu để luận đoán là nhiều, như Tử Phủ cư
Huynh chủ về anh chị em chỉ có 3 người, nhưng gặp Tả Hữu thì có
trên 3 người, nhưng lại có khả năng là anh em khác mẹ, cần phải
xem xét kỹ các sao của cung Phụ mẫu, xem có xuất hiện tình hình tái
hôn, ngoại hôn hay không mà định.
Có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Hóa Lộc, Hóa
Khoa, Hóa Quyền, thì số lượng anh chị em có thể dựa vào chính
diệu để luận đoán là nhiều. Nhưng phải có "sao đôi" hội hợp thì mới
có hiệu lực, hoặc cũng chủ về nhiều bạn đồng môn và nhiều người
có cùng xuất thân.
Cung Huynh đệ không gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng
cung Mệnh gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu tụ tập thì cũng chủ về
nhiều anh chị em.
Phàm là Tử vi, Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương
thủ cung Huynh đệ, về nguyên tắc chủ về anh chị hoặc bạn đồng
môn, hoặc đồng sự ngang cấp có sự hòa hợp. Nếu gặp các sao lông
bông thủ cung Huynh đệ như Tham lang, Vũ khúc, Thất sát, Phá
quân, Thiên cơ, về nguyên tắc chủ về anh chị em, hoặc bạn đồng
môn, hoặc đồng sự ngang cấp không thể đồng tâm hiệp lực. Nếu
gặp thêm Sát tinh thì thường có tranh chấp, còn gặp thêm các sao
Hình Kị thì chủ về xảy ra kiện tụng.
Phàm cung Huynh đệ gặp các sao Hình Kị, lại còn gặp thêm
Thiên Vu thì chủ về tranh chấp tài sản, hoặc chủ về đồng sự tranh
chấp quyền lợi. Thiên lương thủ cung Huynh đệ gặp Kình dương
đồng độ chủ về kiện tụng liên miên. [ An Thiên Vu: tháng 1 5 9 cư
Tị, tháng 2 6 10 cư Thân, tháng 3 7 11 cư Dần, tháng 4 8 12
cư Hợi ].
Cung Huynh đệ không nên gặp Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương,
Đà la, Địa không, Địa kiếp, vì chủ về anh em ở riêng nơi khác hoặc
bất lợi, hoặc đồng sự hay đồng môn thì chủ về gặp nhiều đố kị tranh
chấp. Sát tinh nặng mà gặp thêm Thiên Hình và Hóa Kị thì chủ về có
hình thương.
Cung Huynh đệ gặp "Lộc Quyền Khoa", chưa chắc chủ về anh
chị em phú quý, có lúc chỉ chủ về có nhiều anh chị em. Nhưng trong
số anh chị em ắt sẽ có người được cảnh ngộ khá hơn mệnh tạo;
hoặc chủ về đồng sự có cung một xuất thân thăng tiến nhanh hơn
mệnh tạo.
Các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, tứ Hóa cùng bay đến cung
Huynh đệ, chủ về cát hung lẫn lộn, cũng chủ về hòa hợp nhưng có
"hình thương", hoặc chủ về hòa hợp mà không giúp đỡ lẫn nhau
được, hoặc chủ về anh em nhiều nhưng hình khắc, ở riêng mà vẫn
tranh chấp (luận về đồng sự, thì tuy có trợ lực nhưng chỉ là cái vỏ
bên ngoài, còn bên trong lại có khuynh hướng kết bè kết đảng chống
đối nhau). Cho nên khi luận đoán về tình hình giữa đồng sự với
nhau, cần phải vận dụng một cách linh hoạt.
Dưới đây là tập hợp những ghi chép tản mạn của tôi về 14 chính tinh
trong Tử Vi, để hiểu rõ về 14 chính tính là một quá trình dài, vì chỉ có
14 chính tinh nhưng mô tả hêt tất cả các trạng thái trong xã hội loài
người và trong mỗi quan hệ giữa con người với con người. Nên để
hiểu được đầy đủ ý nghĩa của 14 chính tinh đòi hỏi một quá trình dài
suy ngẫm, chiêm nghiệm.
14 chính tinh trong Tử vi gồm có : Tư vi, Thiên Cơ, Thái Dương,
Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang,
Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Rồi chia
đời người ra làm mười hai cung là các cung : Mệnh, huynh đệ, phụ
mẫu, tử tức, quan lộc, thiên di, tật ách, tài bạch, nô bộc, điền trạch,
phúc, đức.
– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên
Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm
Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao TửVi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh
ta có thể nhận định như sau về 14 chính tinh
Sao Tử Vi là Bá Âp, thần của khí chất tôn quí.
Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần.
Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái.
Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú.
Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận.
Sao Liêm Trinh là Phỉ Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo.
Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi.
Sao Thái Âm là Giá phu nhân, thần của tinh khiết, trinh thảo và
sạch sẽ.
Sao Tham Lang là Đắc Kỷ, thần của dục vọng, vật chất.
Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc.
Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh.
Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cảu quản trị, tổ
chức, xếp đặt.
Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt.
Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao.
Sau đây là các phụ tinh như :
Văn Xương – Văn Khúc – Tả Phụ – Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên
Việt – Thiên Ma – Lộc Tôn – Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh
Tinh – Hoá Quyền– Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kị – Thiên Không –
Địa Kiếp – Thiên Khương – Thiên Sứ – Thiên Đức – Nguyệt Đức –
Long Tri – Phương Các – Thai Phụ – Phong Các – Hồng Loan –
Thiên Hỉ – Tam Thai – Bát Toạ – Thiên Hình – Thiên Diệu – Đẩu
Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn,
chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị ;
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là
85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy
có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của
Trần Đoàn như các sao : Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ – Phá
Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trú – Thiên Giải Địa Giải – Giải
Thần – Địa Không – An Quang – Thiên Quí – Cò Thần – Quả Tú –
Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách
Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu
bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không
có những lời giải thích rõ ràng về các sao : Giải Thần – Địa Giải –
Thiên Trú – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao
Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất
quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác
phép tính số Tử Vi. Tính (sao) còn gọi là Diệu. Tỉ dụ 14 sao thuộc
chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính), nếu cung mệnh
không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng : Tả Phụ – Hữu Bật – Văn Xương –
Văn Khúc – Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử
Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là
chính tinh mà thôi.
Các sao :
Kình Dương – Đà La – Hoả Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên
Việt – gọi là Thiên diệu.
Hóa Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kị gọi là hoá diệu hay tứ
hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm
Khôi Việt), Quyền, Khoa. Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hoả,
Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là : Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử –
Tướng, Phủ – Tướng,Nhật – Nguyệt, Tả – Hữu, Xương – Khúc,
Không – Kiếp, Hoả – Linh, Dương – Đà, Khôi – Việt.
PHÂN LOẠI CÁC SAO
1/ Quý tinh: Tử vi Thái dương – Thiên mã – Long trì Phượng các –
Thiên khôi – Thiên việt – Ân Quang – Thiên quý Tấu thư – Tam thai
– Bát toạ.
2/ Quyền tinh: Thiên tướng Thất sát – Hoá quyền Tướng quân
Quốc ấn – Phong cáo – Quan đới.
3/ Tài tinh: Vũ khúc – Thiên phủ Thái âm Lộc tồn – Hoá lộc – Lưu
niên văn tinh.
4/ Văn tinh: Hoá khoa – Văn xương – Văn khúc – Thiên khôi – Thiên
việt – Thai phụ Phong cáo.
5/ Hỷ tinh: Thiên hỷ Hỷ thần – Thanh long.
6/ Thọ tinh: Thiên cơ – Thiên lương – Thiên đồng – Thiên thọ Tràng
sinh Đế vượng.
7/ Phúc, Giải tinh: Thiên cơ – Thiên lương – Thiên đồng – Hoá khoa
– Thiên khôi – Thiên việt – Ân quang – Thiên quý – Thiên quan –
Thiên phúc – Thiên giải Địa giải Giải thần – Thiên đức – Phúc đức
– Long đức Nguyệt đức – Tràng sinh Đẩu quân – Thiên thọ Thiếu
âm Thiếu dương.
8/ Hung tinh: Phá quân – Thiên không Địa không Địa kiếp – Kình
dương – Đà la Hoả tinh – Linh tinh Kiếp sát – Lưu hà – Phá toái.
Hung sát tinh chủ về tai hoạ, cường độ ảnh hưởng nặng nhẹ tuỳ đắc
hãm đại và hội tụ nhiều ít.
9/ Bại tinh: Tang môn Bạch hổ Thiên khốc – Thiên hư Đại hao
Tiểu hao – Cô thần Quả tú – Suy Bệnh Tử Mộ Tuyệt.
Hai bại tinh chủ về phá tán, gây hình thương, bệnh tật, lo buồn, tang
tóc, mất mát...nếu đi với các sát tinh khác ảnh hưởng xấu càng tăng.
10/ Ám tinh: Cự môn – Hoá kỵ Thiên riêu.
Ám tinh hay Kỵ tinh chủ về che lấp, ngăn trở, bế tắc, làm giảm sự
quang minh của các sao tốt.
11/ Hình tinh: Liêm trinh – Thái tuế Thiên hình – Quan phù Tuế
phá.
Hình tinh chủ về hình ngục, kiện tụng.
12/ Dâm tinh: Tham lang – Đào hoa Hồng loan – Thiên riêu Mộc
dục – Thai.
13/ Trợ tinh: Tả phù Hữu bật Tuần Triệt – Thiên tài.
Dưới đây tôi sẽ phân tích về từng sao.
Sao tử vi
Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Thổ
Loại: Đế Tinh
Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc
Tên gọi tắt thường gặp: Tử
Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm
Trinh,Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một
trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi
là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.
Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh
(sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không
có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này
không có sao chính tọa thủ.
Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh.
Vị Trí Ở Các Cung
Miếu địa (tốt nhất) ở các cung: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân.
Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất.
Đắc địa (tốt vừa) ở các cung Sửu, Mùi.
Bình hòa (bình thường) ở các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình cao lớn,
hồng hào. Còn Tử Vi bình hòa thì thân hình vừa phải.
Tính Tình
Miếu địa: Thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn, uy nghi, sáng tạo, lãnh
đạo.
Vượng địa: Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong.
Đắc địa: Thông minh, thao lược, can đảm, liều lĩnh.
Bình hòa: Kém thông minh, nhân hậu.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các
phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy.
Tuy nhiên nếu được các sao sau đây đi kèm thì sự phú quý càng
chắc chắn hơn.
Có Thất Sát đồng cung: Thất Sát như lưỡi gươm báu, đi chung với
Tử Vi càng làm cho Tử Vi có thêm uy lực hơn.
Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: Thiên Phủ là kho trời nên càng
có ý nghĩa dồi dào về tài lộc khi đi kèm với Tử Vi.
Thiên Tướng đồng cung: Thiên Tướng có nghĩa là tướng Trời, cho
nên Tử Vi có Thiên Tướng đi kèm như vị vua có tướng tài bên cạnh
phò tá nên càng thêm vững chắc trên đường lãnh đạo chỉ huy.
Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt: Đây là các sao phụ như quần
thần theo hộ giá cho vị Vua. Các sao này sẽ khiến cho Tử Vi bảo
đảm thêm phần tài lộc, công danh. Sự hội tụ của các sao này chung
quanh Tử Vi làm nổi bật khả năng lãnh đạo, chỉ huy của sao vua.
Ở vị trí bình hòa, Tử Vi cần phải có các sao tốt đi kèm mới bảo đảm
được sự phú quý hưng vượng.
Tử Vi gặp các sao xấu như Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì
diễn tả một tính nết xấu xa và thường gặp tai nạn trong cuộc đời.
Nếu là nữ mệnh thì tính tình đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con
tuy là có tiền bạc khá giả.
Phúc Thọ Tai Họa
Tử Vi là một phúc tinh nên còn đem đến phúc đức cho cung tọa thủ.
Đặc biệt Tử Vi chế giảm được hung tính của hai sao Hỏa
Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên năng lực cứu giải tai nạn của Tử Vi sẽ
bị kém đi rất nhiều khi đóng tại các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu. Thêm
nữa nếu Tử Vi bị hai sao Tuần hoặc Triệt án ngữ hay sát tinh xâm
phạm thì càng bất lợi hơn. Trường hợp này đương số sẽ gặp phải
những nghịch cảnh trong cuộc đời như:
Sớm mồ côi cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh góa bụa, cô độc.
Khắc anh chị em hay khắc chồng con, hay vợ con.
Thường bệnh hoạn hay yểu tử.
Phải tha phương lập nghiệp.
Gặp nhiều cảnh hiểm nguy trong cuộc đời.
Nghèo khổ, xui xẻo.
Công danh trắc trở, khổ nhọc cả đời.
Nữ mệnh thì phải chịu cảnh muộn chồng hay vợ lẽ.
Riêng trường hợp Tử Vi ở cung Mão hoặc Dậu và đồng cung với
Tham Lang thì Tử Vi tượng trưng cho sự bi quan, yếm thế, thường
gặp nghịch cảnh và luôn có chí xuất trần. Nếu đương số đi tu thì sẽ
đạt được sự thanh nhàn và phúc đức.
Những Bộ Sao Tốt
Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ (ở ngay cung Mệnh) hay giáp Mệnh (ở hai
bên cung Mệnh).