Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SAU KHI RA TRƯỜNG NHÌN Ở GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.1 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
----------

ĐỀ TÀI :

VẤN ĐỀ THẤT NGHIỆP CỦA SINH
VIÊN SAU KHI RA TRƯỜNG NHÌN
Ở GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC
Sinh viên thực hiện

:

Lớp

:

Mã sinh viên

:

Giáo viên hướng dẫn :

Hà Nội, tháng 11 năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


LỜI NÓI ĐẦU
Những năm trước đây, tỷ lệ lao động qua học nghề, nhất là đào tạo nghề chính quy còn
thấp, dẫn đến chất lượng lao động không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu công
việc. Hiện nay, mặc dù tình trạng học vấn của lao động không ngừng được cải thiện, hệ


thống văn bằng được nâng cao và mở rộng nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn tiếp tục gia
tăng. Lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chính quy trong cả nước
không có việc làm ngày càng nhiều, một bộ phận sau khi tốt nghiệp đại học đảm nhận các
công việc không cần bằng cấp; hiện tượng sinh viên sau khi tốt nghiệp làm công nhân,
hoặc làm các công việc không cần đến trình độ đại học đang dần không còn xa lạ. Tình
trạng sinh viên ra trường không có việc làm hay làm không đúng ngành nghề đang ở mức
đáng báo động. Vì vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp cho người lao động nói chung và
sinh viên nói riêng là mối quan tâm hàng đầu hiện nay. Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề
mới nảy sinh trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ
chế thị trường. Vì vậy, tuy chưa có văn bản pháp qui về thất nghiệp cũng như các vấn đề
có liên quan đến thất nghiệp, nhưng có nhiều công trình nghiên cứu nhất định. Những
nghiên cứu bước đầu khẳng định thất nghiệp là những người không có việc làm, đang đi
tìm việc và sẵn sàng làm việc. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là: Nguyên nhân của tình hình
sinh viên thất nghiệp hiện nay là đâu? Hậu quả để lại là gì ? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì
cho nền kinh tế của nước nhà ? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên ?
Vấn đề này được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người đều có một quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này cần phải đặt ra gấp nhằm đảm
bảo lực lượng lao động cho xã hội cũng như đảm bảo công ăn việc làm cho hàng nghìn
sinh viên sau mỗi năm ra trường. Vấn đề này cần sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta,
và nó không nằm ngoài sự quan tâm của em, do vậy em xin chọn đề tài: “ Vấn đề thất
nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhìn từ góc độ triết học” để nghiên cứu. Bài
tiểu luận của em gồm có các phần chính như sau:
Phần 1: Cơ sở triết học


Phần 2: Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay
Phần 3: Nguyên nhân – Hậu quả - Giải pháp của vấn đề này
Do trình độ hiểu biết của em trong quá trình học chưa được sâu nên không thể tránh
khỏi được những thiếu xót. Vì vậy em kính mong các thầy cô góp ý, bổ sung để bài viết
của em được tốt hơn trong các lần sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của

thầy …. đã giúp em hoàn thành tốt bài tiểu luận này.


1. Cơ sở triết học
1.1 Nguyên nhân – Kết quả
Phạm trù nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa
các mặt, các bộ phận, các thuộc tính trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra
một sự biến đổi nhất định
Phạm trù kết quả dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động giữa cac
mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng, hoặc giữa các sự vật, hiện tượng
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách quan, bao hàm
tính tất yếu: không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định, và ngược lại,
không có kết quả nào không có nguyên nhân
Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả,
còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân
Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do
một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên
Sự tác động của nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một kết quả có thể diễn
ra theo các hướng thuận, nghịch khác nhau và đều ảnh hưởng đến sự hình thành kết quả,
nhưng vị trí, vai trò của chúng là khác nhau: có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián
tiếp, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài,… Ngược lại, một nguyên nhân có
thể dẫn đến nhiều kết quả, trong đó có kết quả chính và phụ, cơ bản và không cơ bản, trực
tiếp và gián tiếp,…
Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết
quả cuối cùng.Ph. Ăngghen viết : “ Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là
những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một
trường hợp riêng biệt nhất định, nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt
ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn
với nhau và xoắn xuýt với nhau trong khi khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một

các phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho nhau, cái ở đây
hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ khác hoặc lúc khác lại là kết quả, và ngược


lại “
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên trong
nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân - quả. Trong thế giới thực không
thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi không có nguyên nhân, và
ngược lại, không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất định
Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại
nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đứng đắn, phù hợp với mỗi rường hợp cụ thể
trong nhận thức và thực tiễn
Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có thể
do nhiều nguyên nhân nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn mang tính
toàn diện và lịch sử - cụ thể trong phân tích, giải quyết và vận dụng quan hệ nhân – quả.
2. Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay
Từ khi đất nước ta có chính sách mở cửa giao lưu hợp tác với các nước trong khu
vực cũng như các nước trên thế giới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần tự
do cạnh tranh phát triển đã phát huy rất nhiêù mặt tích cực. Mặt tích cực đáng chú ý là sự
cố gắng vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi
của công việc. Sự mở rộng và phát triển kinh tế thị trường thục sự đã mang lai những cơ
hội việc làm cho sinh viên có khả năng, co năng lực, linh hoạt. Nhưng không phải mọi sinh
viên ra trưòng đều có việc làm và đây là một vấn đề đang được quan tâm của xã hội. Theo
số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2017, trong tổng lực lượng lao
động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao động thất nghiệp là 1,14
triệu người. Thông thường, tình trạng thiếu việc luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông
thôn. Trong quý 1 năm 2017, hiện có gần 85,0% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu
vực này. Xét về khác biệt giới, thị phần lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động
nữ (52,2% và 47,8 % tổng số lao động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất

nghiệp lại được quan tâm hơn ở khu vực thành thị. Mặc dù, tỷ trọng lao động thất nghiệp
thành thị hiện thấp hơn, chỉ chiếm khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước.
Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra lao động việc làm quý 1 năm 2017 cũng cho thấy lao


động thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và 41,1% trong tổng
số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật (CMKT) tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn nhất định, trong
quý 1 năm 2016, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào
tạo chuyên nghiệp hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ
đại học trở lên chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm
này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷ trọng lao động thất nghiệp có trình độ CMKT
từ 3 tháng trở lên theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý - 30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật 13,4%”, “Sức khỏe - 10,7%”, “Dịch vụ vận tải - 9,5%” và “Khoa học giáo dục và đào tạo
giáo viên - 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ CMKT là có 2
bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động
được tính cho nữ từ 15-54 tuổi và nam từ 15-59 tuổi. Quý 1 năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp
trong độ tuổi lao động của cả nước đạt 2,30%. Trong đó, khu vực thành thị (3,24%) cao
hơn nông thôn (1,83%). Chênh lệch giới về tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 0,5 điểm phần
trăm. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở nam hiện là 2,52% và ở nữ là 2,04%. Tình trạng thất
nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Thậm chí, có một số trường hợp sinh
viên ra trường cả hai, ba năm vẫn không tìm được việc làm.
Bên cạnh những sinh viên có đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi hoặc
những người có người thân, xin việc hộ thì số còn lại phải chật vật chạy đi chạy lại với các
trung tâm việc làm. Cũng phải nói thêm rằng chính dựa vào sự khan hiếm việc làm này mà
nhiều trung tâm giới thiệu việc làm “ma” mọc lên vài ba bữa để thu tiền lệ phí, tiền môi
giới việc làm rồi biến mất. Hoặc một số sinh viên ra trường chấp nhận làm trái nghề hoặc
bất cứ nghề gì miễn là có thu nhập.
Đó là về phía sinh viên, còn về phía nhà tuyển dụng thì họ vẫn ”than” là thiếu lao
động mà theo họ là thiếu những người có kinh nghiệm và khả năng làm việc độc lập cũng
như một số yêu cầu khác.

Sinh viên ra trường tìm việc phải cần đến 4 chữ “T”. Các nhà doanh nghiệp luôn
tìm việc theo tiêu chuẩn này: Tâm, Trí , Tin, Tình.Có được những yếu tố này mới trở thành
những người lao động tốt. Một số công ty rất coi trọng việc rèn luyện đạo đức. Trong khi


đó sinh viên không chịu rèn luyện đạo đức của mình. Bên cạnh đó, hiện nay khi đi xin việc
bất cứ sinh viên nào cũng phải có kèm thêm 2 bằng đó là bằng ngoại ngữ và bằng Tin, như
vậy thì mới có cơ may tìm được việc làm.
3. Nguyên nhân - Hậu quả - Giải pháp của vấn đề
3.1 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên
3.1.1 Từ phía nền kinh tế - xã hội
Trong những năm trước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì không có hiện
tượng sinh viên ra trường thất nghiệp. Phần lớn là vì ngày đó sinh viên còn ít, số lượng
trường đại học không nhiều nhưng chủ yếu là sinh viên ra trường và được phân công tác
luôn. Thậm chí, làm ở đâu chỉ là hình thức ,nhiều lúc “chơi dài ngày” hết tháng thì nhận
lương nhà nước.
Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế,nhà nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường,các doanh nghiệp phải tự lo tìm người lao động cho mình,không có sự
bao cấp của nhà nước thì vấn đề xin việc trở nên cấp bách hơn khi sinh viên ra trường tự
kiếm việc làm phù hợp với năng lực của mình. Hiện nay một số sinh viên ở các tỉnh khác
chỉ muốn trụ lại ở những thành phố lớn sầm uất và sôi động. Họ làm mọi việc dù không
phù hợp với mình thậm chí cả những việc có thu nhập thấp. Chính vì vậy mà dẫn đến tình
trạng ở những vùng sâu xa thì càng thiếu nguồn lao động trong khi ở thành phố nạn thất
nghiệp đày dãy.Đến đây chúng ta thấy được tính hai mặt của nền kinh tế thị trường.Một
mặt nó tạo điều kiện cho thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, cạnh tranh
cao hơn. Mặt khác, nó có tác động không lớn đến vấn đề xã hội. Gây ra sự thiếu thừa “giả”
về lực lượng lao động, mất cân đối về nguồn lao động và gây ra tiêu cực trong việc làm.
3.1.2 Từ chất lượng đào tạo
Cơ cấu đào tạo của nước ta quá lạc hậu và cũ kĩ, không bám sát thực tế. Học không
đi sâu vào thực tế mà chỉ lướt qua và đi sâu vào lý thuyết. Trang thiết bị giảng dạy thiếu

thốn, nên không phát huy được hết khả năng sáng tạo của sinh viên. Đất nước Việt Nam rất
cần đến đội ngũ kỹ sư về kĩ thuật,công nghệ, xác định cơ bản thì nguồn cung cấp nhân lực
từ phía đào tạo không đáp ứng được. Bên cạnh đó do xã hội ngày càng phát triển với tốc
độ cao và vì vậy việc sản xuất cũng thay đổi .Phương thức sản xuất thay đổi trong khi đó


đào tạo không bắt kịp và nó bị tụt hậu khi không có sụ cân bằng, đồng bộ giữa đào tạo và
thực tế làm cho sinh viên ra trường không đủ khả năng phục vụ cho công việc. Họ rất lúng
túng trước yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động
Trên 80% sinh viên mới ra trường được cho là có kiến thức nhưng lại yếu kém về
các kỹ năng mềm - kỹ năng mà đa số nhà tuyển dụng, đặc biệt là các tập đoàn, tổ chức
nước ngoài đánh giá cao. Chính vì thế, nhiều bạn đã mất điểm trong lần gặp đầu tiên trong
buổi phỏng vấn ở các công ty. Trong quá trình học, đa số sinh viên đều tự chuẩn bị hành
trang cho mình là hai bằng ngoại ngữ và tin học và đều cho rằng đây là điều kiện đủ để có
thể trúng tuyển việc làm sau này. Tuy nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ đánh giá cao
các kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, giải quyết vấn đề, làm
việc nhóm,... hơn là các giấy tờ chứng nhận. Đối với các ứng viên được nhận, họ thường
có thời gian khoảng 1 - 2 tháng học việc và thử việc tại công ty nhưng không có nhiều ứng
viên có thể tiếp thu và xử lý công việc. Ngay cả các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, thậm chí
loại xuất sắc cũng không thể trụ vững làm nhân viên chính thức sau thời gian thử việc như
thế. Rất rõ ràng đây chính là yếu điểm mà các sinh viên cần khắc phục để nâng cao cơ hội
có việc sau khi tốt nghiệp
3.1.3 Về chính sách của nhà nước
Trong những năm gần đây, nhà nước cũng có rất nhiều quan tâm đến sự nghiệp đào
tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng cùng với những khuyến khích đẻ sử dụng sinh
viên sau khi tốt nghiệp; ví dụ như sinh viên thuộc khối sư phạm được miễn học phí .nhưng
về cơ bản thì nhà nước vẫn chưa có chính sách hợp lí đẻ khuyến khích cũng như tạo điều
kiện cho sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và phát huy hết khả năng; chẳng hạn
như chính sách đối với những người về công tác tại những vùng sâu, vùng xa, hải đảo chưa
hợp lí cho lắm nên không thu hút được sinh viên sau khi ra trường tự nguyện về đây công

tác.
Vậy nên chăng nhà nước cần có chính sách hợp cũng như thoả đáng hơn nữa cả về
mặt vật chất cũng như tinh thần để sinh viên sau khi ra trường sẵn sàng có công tác ở bất
cứ nơi đâu để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và đổi mới đất nước.
3.1.4 Về bản thân và gia đình sinh viên


Định hướng giá trị cho sinh viên cũng là một vấn đề cần quan tâm trong giáo dục
hiện nay. Một là không có định hướng, nghĩa là không biết mình học để làm gì. Hai là định
hướng sai lệch, không có lòng phấn đấu vì đam mê mà đơn giản chỉ học để lo toan cuộc
sống. Có bao giờ bạn tự hỏi: "Mình học đại học để làm gì và cho ai?". Ở Việt Nam, việc
chọn nghề nghiệp sau này chịu sự tác động, chi phối lớn từ các bậc phụ huynh. Với tâm lý
thương con và một phần vì danh danh dự gia đình, các bậc cha mẹ thường khuyên con cái
chọn các ngành có tiếng như: kỹ sư, bác sĩ, giáo viên, ngân hàng,…Ngoài ra, một số bạn
trẻ chọn ngành học theo xu hướng "hot" của thị trường chứ không thật sự yêu thích, đam
mê với nghề và không đúng với khả năng của mình. Hệ quả của việc học như thế dẫn đến
sự lười học, học cho có lệ để qua kỳ kiểm tra và lấy được cái bằng cho có. Chính vì thế,
chất lượng nhân lực đầu ra trở nên hạn chế và tình trạng thất nghiệp lại tiếp tục tăng
Bên cạnh đó, nhiều sinh viên mới ra trường còn thụ động trong công tác tìm việc
cho bản thân. Họ chỉ gửi hồ sơ đến các công ty trên Internet và chờ đợi nhà tuyển dụng gọi
phỏng vấn. Hãy hiểu rằng hàng ngày nhà tuyển dụng nhận được rất nhiều hồ sơ xin việc từ
các nguồn khác nhau và việc bạn bị hòa lẫn với hàng loạt các ứng viên khác là điều khó
tránh khỏi. Ngoài ra, có một số người ngồi ở nhà không làm gì vì trông chờ vào ba mẹ hay
người thân quen xin việc giúp. Chính điều đó làm cho các bạn mất tính cạnh tranh và bỏ lỡ
nhiều cơ hội tốt.
Và cuối cùng, mỗi sinh viên ai cũng muốn có một việc làm ổn định ở thành phố nên
ai cũng chia nhau đi tìm việc, khi chưa tìm được việc, họ không bỏ về quê phục vụ cho quê
hương mình mà họ còn làm những công việc khác mặc dù không đúng nghành nghề của
mình để có thu nhập.Vì thế nên tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
thì lượng dân cư tăng lên nhanh chóng.


3.2 Hậu quả của thất nghiệp
Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Thất nghiệp tăng có
nghĩa lực lượng lao động xã hội không được huy động vào hoạt động sản xuất kinh doanh
tăng lên, là sự lãng phí lao động xã hội- nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế- xã hội. Thất
nghiệp tăng lên cũng có nghĩa nền kinh tế đang suy thoái- suy thoái do tổng thu nhập quốc
gia thực tế thấp hơn tiềm năng, suy thoái do thiếu vốn đầu tư (vì vốn ngân sách bị thu hẹp


do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất việc làm…) Thất nghiệp tăng lên cũng
là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến (bờ vực) của lạm phát.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động. Người lao
động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do đó, đời sống bản thân
người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn. Điều đó ảnh hưởng đến khả năng tự đào tạo lại
để chuyển đổi nghề nghiệp, trở lại thị trường lao động con cái họ sẽ khó khăn khi đến
trường; sức khoẻ họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, để chăm sóc y tế…Có thể
nói, thất nghiệp “đẩy” người lao động đến bần cùng, đến chan nản với cuộc sống, với xã
hội; dẫn họ đến những sai phạm đáng tiếc…
Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội
không ổn định hiện tượng lãn công, bãi công, biểu tình đòi quyền làm việc, quyền sống…
tăng lên, hiện tượng tiêu cực xã hội cũng phát sinh nhiều lêm như trộm cắp, cờ bạc, nghiện
hút, mại dâm…, Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền cũng bị suy giảm…
Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đên biến động về chính trị.
3.3 Giải pháp khắc phục tình trạng thất nghiệp
Chúng ta đều nhận thấy rằng tình trạng thất nghiệp ở sinh viên sau khi ra trường
không phải do lỗi toàn bộ của bất cứ ban ngành nào mà nó do nhiều yếu tố tác động đến,
nguyên nhân khách quan như tình hình kinh tế xã hội, nguyên nhân chủ quan là về hệ
thống giáo dục đào tạo, chính sách sử dụng và đãi ngộ lao động chưa hợp lý cũng như tâm
lý chủ quan về phía bản thân của sinh viên. Nhưng dù nói gì đi nữa thì thất nghiệp ngày
càng tăng sẽ ảnh hướng không tốt đến tình hình phát triển xã hội của đất nước nhất là Việt

Nam.
Với số dân hơn 96 triệu người và sẽ còn tăng trong những năm tới lượng sinh viên ra
trường ngày càng nhiều vì vậy việc làm là một vấn đề cấp bách của xã hội. Để tạo thêm
công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là phải mở rộng các ngành nghề sản xuất kinh doanh. Muốn làm được điều này thì nhà nước cần phải thúc đẩy các thành phần kinh
tế tham gia vào đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiện thuận lợi
về môi trường để họ có thể hoạt động thuận tiện hơn. Bên cạnh đó nhà nước cũng phải là
người đi đầu, chủ trương trong việc thực hiện các trương trình quốc gia về khoa học – kỹ


thuật cũng như đưa nó vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao điều kiện sống cho người lao
động. Nhà nước cũng cần đưa ra các chính sách hợp lý để thu hút và tạo điều kiện cho sinh
viên vào học các ngành nghề kỹ thuật mà hiện nay một đất nước đang trên con đường công
nghiệp hoá hiện đại hoá rất cần đến. Nhà nước cũng nên có chính sách quan tâm đến
những người làm việc, công tác tại những vùng sâu vùng xa, những vùng khó khăn để
động viên họ cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ có thể yên tâm đem hết tâm
huyết và năng lực ra phục vụ cho dất nước. Bên cạnh đó nhà nước cần tạo cơ hội để các
trường đào tạo có điều kiện tiếp cận được với thị trường lao động để biết được tình hình
thực tế cũng như những thay đổi về khoa học – công nghệ, các loại máy móc hiện đại để từ
đó có thể cập nhập cho sinh viên một cách liên tục và kịp thời những sự thay đổi đó.
Không chỉ vậy nhà nước còn cần tích cực đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Về tài
khóa, sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển dựa vào củng cố nguồn thu; giãn nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế. Về tiền tệ, sẽ tiếp tục bù lãi suất tín dụng
cho vốn vay trung và dài hạn phục vụ đầu tư máy móc thiết bị cho nền kinh tế nói chung
và cho khu vực nông nghiệp nói riêng với các khoản. Kích thích tăng trưởng bằng các gói
kích cầu. Sắp xếp lại cơ cấu lao động đồng thời nâng cao trình độ cho người lao động. Việt
Nam có dân số trẻ nguồn lao động dồi dào, chi phí rẻ nhưng do cơ cấu bố trí chưa hợp lý
nên việc khai thác lao động kém hiệu quả. Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ
quốc gia, vay nợ nước ngoài) đẩy nhanh tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng, làm thủy lợi, thủy
điện giao thông… nhằm tạo việc làm mới cho người lao động. Đồng thời, nới lỏng các
chính sách tài chính, cải cách thủ tục hành chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài

tạo nguồn việc làm cho người dân. Bên cạnh đó khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm trang thiết bị, mở rộng quy mô sản
xuất. Ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án,
công trình có quy mô lớn, tạo nhiều việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc giảm
thuế, hoán thuế, khoanh nợ song song với cam kết phải duy trì việc làm cho số lao động
hiện tại và thu hút thêm lao động nếu có thể, hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp gặp khó
khăn để duy trì sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế nhiều
thành phần, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu côngnghiệp các dự án kinh tế. giúp


tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm cho công nhân. Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động
cần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp và dịch vụ, hướng người lao
động đến những việc làm ở những ngành nghề, đem lại giá trị cao trong các chuỗi giá trị,
với điều kiện lao động phải có hiểu biết, có kỹ năng chuyên môn để dần thay thế khu vực
kinh tế nông nghiệp kém hiệu quả bằng khu vực kinh tế có giá trị cao hơn, thông qua đó
nâng cao đời sống và thu nhập của người lao động, tạo ra một thị trường lao động cạnh
tranh để giảm nguy cơ thất nghiệp khi có khủng hoảng. Lao động nông thôn rất cần được
đào tạo, dạy nghề, họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức để đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế của đất nước. Cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát triển mạnh
các khu kinh tế vệ tinh, các khu công nghiệp và các làng nghề, tăng cường mối quan hệ
giữa sản xuất công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ, đặc biệt khai thác mối liên kết kinh
tế giữa các thành phố lớn với các khu vực phụ cận nhằm tạo ra nhiều việc làm tại chỗ. Cần
có sự phát triển bền vững và đồng bộ thị trường hàng hóa, thị trường đất đai, thị trường
vốn, thị trường lao động và thị trường tín dụng. Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành
phố giúp đỡ người lao động sớm tìm được việc làm mới thông qua trung tâm tư vấn việc
làm. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu tư cho công tác dạy nghề cũng là biện pháp
kích cầu không kém phần quan trọng. Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp và an sinh
xã hội.
Hiện nay rất nhiều đối tượng chọn trường đại học nhưng không có sự định hướng
cho khả năng của đầu ra sau này mà chỉ chọn như một cái “mốt” với những ngành đang

“nổi” như quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin,…Đây là một tư tưởng tiêu cực có ảnh
hưởng không tốt tới quá trình phát triển kinh tế – xã hội gây ra tình trạng thừa thiếu bất
hợp lý.Và lại tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ huynh là bắt buộc phải vào được đại học.
Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng đại học chưa phải là con đường duy nhất để lập nghiệp.
Vì vậy bản thân đối tượng được đào tạo cũng như các bậc phụ huynh cần phải đánh giá lại
cách nhìn nhận làm sao để chọn cho con em mình và hoàn cảnh gia đình mình mà vẫn có
ích cho xã hội .Những sinh viên ra trường cũng cần có một cách nhìn nhận đúng đắn hơn
trong việc chọn cho mình một nơi làm việc.


KẾT LUẬN
Bằng việc phân tích cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả đã cho ta thấy được
nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp của sinh viên là do chất lượng đào tạo không
cao, một loạt những chính sách chưa hợp lý của nhà nước, cá nhân mỗi sinh viên và do xã
hội. Kết quả dẫn đến là ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của kinh tế của nước ta.
Đất nước muốn phát triển thì sinh viên là những chủ nhân của đất nước, chính họ là
những tiềm năng của mỗi nước, nên chúng ta phải làm cái gì đó để những tiềm năng này
không bị mai một, không phải chịu làm những công việc trái với nghề nghiệp của mình.
Nên việc cần thiết hiện nay là chúng ta cần phải tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy tình
trạng trên theo một chiều hướng khác, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước.


MỤC LỤC
Lời nói đầu......................................................................................................
1. Cơ sở triết học............................................................................................
1.1 Cặp phạm trù nguyên nhân – kết qủa........................................................
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả...............................
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận.....................................................................
2. Thực trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay…

3. Nguyên nhân – Hậu quả - GiảI pháp của vấn đề này............................
3.1 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên.......................
3.1.1 Từ phía nền kinh tế – xã hội...................................................................
3.1.2 Từ chất lượng đào tạo.............................................................................
3.1.3 Về chính sách của nhà nước...................................................................
3.1.4 Về bản thân và gia đình của mỗi sinh viên.............................................
3.2 Hậu quả của vấn đề này.............................................................................
3.3 Giải pháp khắc phục tình trạng trên..........................................................
Kết Luận..........................................................................................................


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật - 2018
2. />Sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường - Nguyên nhân và cách khắc phục (Ngày
cập nhật : 11/08/2017 lúc 15:39 (GMT)
3. />4. />Top 7 nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường (Ngày
cập nhật : 11-04-2018 )
5. docs.google.com/document/d/1sz_nig7kV_WUzE15vjyiSUzCO01tcx_BlucrK7uH
q0A/edit?
fbclid=IwAR2CwhHvNyynVqZAAXLwp3BnAAKP9ft_N1M5IKDDML6SveL0h
4g1qUBftLM
Thất nghiệp là gì? Tác động của thất nghiệp tới sự phát triển của kinh tế - xã hội (
Ngày cập nhật : 22:36 13/08/2018 )



×