Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP

2015 - 2017

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG


HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN THỊ THU THỦY


HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Số liệu sử dụng, phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách
quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Nội dung luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Tác giả

Trần Thị Hồng Nhung


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ
quý báu, nhiệt tình của các thầy cô và các bạn. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu
sắc, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô Nguyễn Thị Thu Thủy,
người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình làm luận văn tốt
nghiệp. Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Sau
đại học - Viện đại học Mở Hà Nội và tập thể lớp CHL K4 đã luôn động viên, giúp
đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả


Trần Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………….
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………...
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT…………………………………………………
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….....

1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH

6

TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên

6

quan đến quyền sở hữu công nghiệp…………………………………………
1.1.1. Quyền sở hữu công nghiệp………………………………………………

6

1.1.2. Cạnh tranh không lành mạnh…………………………………………….

11


1.1.3. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công

18

nghiệp…………………………………………………………………………
1.2. Phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền

21

sở hữu công nghiệp và hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp……
1.3. Phân loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền

22

sở hữu công nghiệp……………………………………………………………
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

26


HIỆN NAY VÀ VẤN ĐỀ PHÒNG, CHỐNG CÁC HÀNH VI NÀY
2.1. Thực trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến

26

quyền sở hữu công nghiệp hiện nay………………………………………….
2.2. Thực tiễn pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên

32


quan đến quyền sở hữu công nghiệp………………………………………..
2.2.1. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền

32

sở hữu công nghiệp…………………………………………………………….
2.2.2. Pháp luật về phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên

39

quan đến quyền sở hữu công nghiệp…………………………………………..
2.2.3. Những bất cập của pháp luật hiện hành về ngăn ngừa các hành vi cạnh

50

tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp……………
2.3. Thực trạng phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên

58

quan đến quyền sở hữu công nghiệp.............................................................
2.3.1. Thực trạng phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan

58

đến quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp tự bảo vệ……………………...
2.3.2. Thực trạng phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan

61


đến quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự………………………...
2.3.3. Thực trạng phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan

64

đến quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp…………………………..
2.3.4. Những khó khăn trong việc thực thi pháp luật về phòng, chống hành vi

69

cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp………..
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG HÀNH

71


VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
3.1. Các quan điểm phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh

71

liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
3.1.1. Xác định và đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo cơ chế dân sự

72

3.1.2. Hạn chế xử lý xâm phạm quyền bằng biện pháp hành chính, từng bước


75

chuyển dịch sang cơ chế giải quyết tranh chấp tại tòa án………………………
3.1.3. Đảm bảo nguyên tắc phòng, chống và thực thi quyền sở hữu công

77

nghiệp theo hướng kết hợp hài hòa lợi ích công cộng với lợi ích của chủ thể
quyền trong việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu công nghiệp ………………
3.2. Giải pháp phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên

78

quan đến quyền sở hữu công nghiệp…………………………………………
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh

78

không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp……………………
3.2.2. Kiện toàn và tăng cường năng lực của hệ thống cơ quan thực thi pháp

81

luật về phòng, chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu công nghiệp……………………………………………………
3.2.3. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh- chủ thể

84


quyền sở hữu công nghiệp……………………………………………………...
3.2.4. Các giải pháp khác……………………………………………………….

87

KẾT LUẬN:…………………………………………………………………..

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO:…………………………………………………..

91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

BLHS

Bộ luật Hình sự

CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh

Cục QLCT

Cục Quản lý cạnh tranh


Cục QLTT

Cục Quản lý thị trường

Công ước Paris năm 1883

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
đuợc ký kết tháng 03/1883 tại Paris.

Hiệp định thương mại Việt Nam

Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp

– Hoa Kỳ

chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại.

Hiệp định Trips

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

LCT
Luật SHTT
NĐ 54

Luật Cạnh tranh 2004
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009

Nghị định số 54/2000/NĐ – CP ngày
3/10/2000 của Chính phủ về việc bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo
hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
liên quan tới sở hữu công nghiệp

SHTT

Sở hữu trí tuệ

SHCN

Sở hữu công nghiệp

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

TTDS

Tố tụng dân sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học, kỹ thuật, công nghệ không chỉ là sáng tạo đơn thuần của con
người mà nó đã trở thành bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất có tính chất
quyết định đến năng suất lao động. Tuy nhiên, sản phẩm “khoa học, kỹ thuật” mà
con người tạo ra lại có những nét đặc thù không giống như các vật phẩm khác, đó là

những vật phẩm vô hình mà bản thân người tạo ra nó không thể chiếm hữu cho
riêng mình, chúng rất dễ bị chiếm dụng, tước đoạt, việc bảo vệ thành quả của các
hoạt động sở hữu công nghiệp đa dạng và phong phú, nó không còn bó hẹp trong
phạm vi một quốc gia mà mang tính toàn cầu.
Xuất phát từ giá trị thương mại của đối tượng SHCN, chủ thể kinh doanh
thường nghĩ đến việc sử dụng đối tượng SHCN của đối thủ cạnh tranh để kiếm lời
và gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh. Bởi vậy việc xuất hiện các hành vi cạnh
tranh liên quan đến quyền SHCN là tất yếu. Những hành vi này vừa vi phạm pháp
luật về cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật SHTT. Khi nền kinh tế càng phát triển thì
những hành vi này càng nhiều. Thực tế đó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa pháp
luật cạnh tranh và pháp luật SHTT, sự cân bằng giữa bảo hộ quyền SHTT và chính
sách bảo đảm cạnh tranh lành mạnh.
Nhiều quốc gia trên thế giới nhìn nhận được mối quan hệ giữa pháp luật
cạnh tranh và pháp luật SHTT nên đã có chính sách cũng như pháp luật giải quyết
các vụ việc cạnh tranh liên quan đến quyền SHTT.Vấn đề này được quy định trong
công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN năm 1883 (khoản 2, khoản 3, Điều 10bis)
và Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ Trips năm 1994(khoản 2 Điều 8 và Điều 40). Ở Việt Nam, cạnh tranh liên quan đến
quyền SHCN lần đầu tiên được quy định tại Nghị định của Chính phủ số
54/2000/NĐ – CP ngày 31/10/2000 về bảo hộ quyền SHCN đối với bí mật kinh
doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống CTKLM liên quan
1


đến quyền SHCN. Hiện nay, vấn đề này được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác
nhau như: Luật cạnh tranh năm 2004; Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ
sung năm 2009); Luật chuyển giao công nghệ năm 2007; Nghị định của Chính
phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của
LCT; Nghị định của Chính phủ số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định về
xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp. Ở nước ta, mặc dù hành vi
CTKLM liên quan đến quyền SHCN đã xuất hiện và được các cơ quan có thẩm

quyền giải quyết, tuy nhiên đây vẫn là vấn đề mới, quy định pháp luật chưa rõ ràng
và kinh nghiệm của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết loại việc này còn thiếu.
Trong khuôn khổ Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Luật Kinh tế, tác giả
đã chọn đề tài: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở
hữu công nghiệp”. Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực
trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
trong phạm vi các biện pháp phòng, chống phi hình sự, phi hành chính và trong
phạm vi pháp luật Việt Nam từ đó đưa ra một số quan điểm và giải pháp phòng,
chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cạnh tranh không lành mạnh đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu với nhiều hình thức như luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo, bài báo, tạp
chí điện tử như:“Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của TS.Lê Danh Vĩnh, Hoàng
Xuân Bắc, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội (2006), bài viết
“Chuyên đề về cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ” của tác giả Nguyễn
Như Quỳnh đăng trên tạp chí Thương mại số 12/2013 hay như “Thực thi bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ tại cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật Việt Nam”,
của tác giả Nguyễn Hồng Bắc đăng trên Tạp chí luật họcsố 3 năm 2010….Các công
trình chuyên khảo, bài báo khoa học đã đề cập về hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và quyền SHCN dưới nhiều góc độ khác nhau như pháp luật, kinh tế, kỹ
thuật... Các tài liệu này đã thành công trong việc phân tích, đề cập tương đối đầy đủ
2


đến các khái niệm cơ bản về hành vi CTKLM và quyền SHCN. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp và vấn đề phòng, chống các
hành vi này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Qua việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, tác giả xác định
các quan điểm và giải pháp phòng, chống các hành vi CTKLM liên quan đến quyền
SHCN tại Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận về hành vi CTKLM liên quan
đến quyền SHCN và vấn đề phòng, chống.
- Phân tích hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay và thực trạng phòng, chống.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp phòng, chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
4. Cơ sở phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Để thực hiện nghiên cứu các vấn đề thuộc đề tài này, tác giả đã sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu
3


Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: Phương pháp
tổng hợp, phân tích, bình luận, đánh giá, so sánh, kết hợp nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn. Các phương pháp này được sử dụng trong sự kết hợp chặt chẽ
với nhau.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền SHCN.
Phạm vi nghiên cứu:
Hành vi CTKLM liên quan đến quyền SHCN và vấn đề phòng chống các

hành vi này có nội dung rất rộng và liên quan đến nhiều lĩnh pháp luật khác, đặc
biệt là các đạo luật kinh tế chuyên ngành có quy định liên quan đến cạnh tranh, liên
quan đến quyền SHTT, pháp luật về hành chính, pháp luật về dân sự, pháp luật về
hình sự...Do đó, luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi pháp luật Việt Nam như:
mối quan hệgiữa quy định về hành vi CTKLM liên quan đến quyền SHCN trong
LCT với các quy định về hành vi này trong Luật SHTT và trong một sốđạo luật
kinh tếchuyên ngành về thương mại, quảng cáo, pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng, vềchất lượng hàng hoá, một số quy định của pháp luật dân sự liên quan đến
bồi thường thiệt hại… Luận văn cũng tập trung nghiên cứu các biện pháp phòng,
chống các hành vi này trong phạm vi các vi các biện pháp phòng, chống phi hình
sự, phi hành chính.
6. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

4


Chương 2: Thực trạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu công nghiệp hiện nay và thực trạng phòng, chống các hành vi này.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phòng, chống hành vi cạnh tranh không
lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.

5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI CẠNH
TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN

SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến quyền sở hữu công nghiệp
1.1.1. Quyền sở hữu công nghiệp
Trí tuệ con người có sức sáng tạo vô tận và chính nó đã giúp con người nhận
thức được sự phát triển không ngừng của thế giới khách quan. Trí tuệ là tài sản vật
chất nhưng mang những đặc thù riêng. Nếu như tài sản hữu hình có thể bị bào mòn
theo năm tháng, thì tài sản trí tuệ dường như được tích tụ nâng lên và phát huy
mạnh mẽ khi đem ra sử dụng. Do đó, mỗi quốc gia cần có trách nhiệm bảo hộ và
phát huy tài sản trí tuệ của loài người.
SHTT là khái niệm lâu đời nhưng mới được quan tâm tại Việt Nam thời gian
gần đây. Quyền SHTT bao gồm các quyền sở hữu đối với sản phẩm của hoạt động
sở hữu trí tuệ và tinh thần như tác phẩm văn học, nghệ thuật, tác phẩm khoa học,
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu,
tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng.
Quyền SHTT là một khái niệm pháp lý ra đời và gắn liền với cuộc cách
mạng công nghiệp từ thế kỷ 17. Dưới giác độ pháp lý, thuật ngữ “quyền SHTT”
thường được hiểu theo hai nghĩa khách quan và chủ quan: Theo nghĩa khách quan,
quyền SHTT là một chế định pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt các đối tượng SHTT được nhà nước bảo hộ; theo nghĩa chủ quan, quyền
SHTT là quyền, nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể liên quan đến việc sử dụng, chuyển
6


giao quyền SHTT. Tóm lại, quyền SHTT là quyền của chủ thể đối với một sản
phẩm trí tuệ nào đó do minh sáng tạo ra hoặc sở hữu được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ.
Khái niệm về quyền SHTT trên đề cập đến 3 yếu tố cơ bản: Đối tượng của

quyền SHTT là sản phẩm trí tuệ, được tạo ra trực tiếp bởi tư duy, sáng tạo của hoạt
động trí óc của con người và được thể hiện dưới một hình thái vật chất nhất định;
chủ thể của quyền SHTT có thể là cá nhân, tổ chức hoặc tập thể là người đã sáng
tạo ra hoặc sở hữu sản phẩm trí tuệ; quyền của chủ thể SHTT phải là quyền được
pháp luật thừa nhận, tức là bất cứ quyền nào mà tác giả, chủ sở hữu hoặc người sử
dụng có được đối vởi sản phẩm trí tuệ đều phải do pháp luật quy định.
Đặc điểm của quyền SHTT là có giới hạn về thời gian, không gian và nội
dung của quyền mà quyền SHTT được bảo vệ.
Xét khía cạnh thời gian: Thời điểm phát sinh quyền SHTT và thời hạn mà
quyền SHTT được bảo vệ phải được pháp luật thừa nhận và quy định.Tuỳ theo đối
tượng quyền SHTT, loại hình quyền SHTT, nội dung quyền SHTT mà thời điểm
phát sinh và thời hạn bảo vệ quyền sở hữu đối với đối tượng của SHTT là khác
nhau. Ví dụ, quyền tác giả đối với một tác phẩm nghệ thuật phát sinh ngay khi tác
phẩm nghệ thuật được hình thành mà không cần đăng kí quyền tác giả còn quyền
sở hữu kiểu dáng công nghiệp chỉ phát sinh khi đăng kí quyền sở hữu tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Xét khía cạnh không gian: quyền SHTT chỉ được bảo vệ trong phạm vi
không gian nhất định, có thể là một lãnh thổ quốc gia hoặc là một khu vực,thậm chí
trên phạm vi toàn cầu,tuỳ thuộc vào việc xác lập quyền SHTT đó.Ví dụ nhãn hiệu
Nike được bảo vệ trên phạm vi toàn cầu, còn giầy Thượng Đình chỉ được bảo vệ
trên phạm vi toàn quốc.
Nội dung quyền: Quyền SHTT của một chủ thể đối với một đối tượng quyền
nào đó được giới hạn theo quy định của pháp luật.
7


Thực tế chỉ ra rằng SHTT nói chung và SHCN nói riêng là vấn đề chịu ảnh
hưởng lớn của sự vận động, phát triển của khoa học, công nghệ và đời sống xã
hội[18]. Các điều ước được ký kết từ năm 1967 trở lại đây, trong đó đáng chú ý là
Hiệp định TRIPS đã đưa ra và làm rõ thêm những loại hình mới của SHTT. Xu

hướng này cho thấy tính năng động của SHTT trong việc thích ứng với sự phát
triển của công nghệ và văn hóa, nói cách khác, nội hàm của khái niệm quyền
SHCN vẫn đang ngày càng được mở rộng bao trùm các đối tượng mới của đời sống
xã hội.
Tại Nhật Bản, quyền SHCN là tên gọi chung của 4 loại: Quyền sáng chế,
quyền mẫu mới thực dụng, quyền thương hiệu, quyền kiểu dáng. Quyền SHCN tại
Nhật được nhìn nhận như quyền lợi với mục đích đóng góp cho sự phát triển của
khoa học và kỹ thuật của Nhật Bản. Là quyền đóng vai trò trung tâm của quyền
SHTT.
Ở Việt Nam, khái niệm về quyền SHCN được quy định cụ thể hơn:“Quyền
sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn
địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh”(khoản 4 Điều 4 Luật SHTT).
Quyền SHCN là một trong hai bộ phận quan trọng của quyền SHTT.Quyền
SHCN là một loại tài sản vô hình gắn liền với uy tín của cơ sở sản xuất kinh doanh,
thông qua việc bảo hộ các đối tượng có chức năng nhận dạng như nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại. Người sản xuất, người tiêu dùng nhận biết được hàng hóa của
một cơ sở sản xuất chủ yếu căn cứ vào các dấu hiệu phân biệt như kiểu dáng sản
phẩm, nhãn hiệu, tên gọi gắn trên hàng hóa. Việc bảo hộ nhãn hiệu, tên thương mại,
tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp sẽ giúp cho việc
bảo vệ uy tín của sản phẩm, chống lại các hành vi giả mạo và cạnh tranh không
lành mạnh khác.
8


Dựa vào cơ sở phát sinh quyền,đối tượng quyền SHCN được chia thành 2
loại:
- Các đối tượng SHCN mà quyền SHCN phát sinh trên cơ sở các văn bằng
bảo hộ SHCN bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn

hiệu, tên gọi xuất xứ hàng hoá, các đối tượng khác do pháp luật quy định.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có
trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Giải pháp
hữu ích là giải pháp kỹ thuật mới so với trình độ kỹ thuật trên thế giới, có khả năng
áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng
bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự
kết hợp những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu để chế tạo
sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố
đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa
lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó
với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các
điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết
hợp cả hai yếu tố đó.
Các đối tượng SHCN không được Nhà nước bảo hộ: Nhà nước không bảo
hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng,
nguyên tắc nhân đạo và các đối tượng khác mà pháp luật về sở hữu công nghiệp
quy định không được bảo hộ.
- Các đối tượng SHCN mà quyền SHCN phát sinh và tồn tại khi hội đủ các
điều kiện nhất định mà không cần thông qua văn bằng bảo hộ SHCN bao gồm: chỉ
dẫn địa lý; bí mật thương mại; quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.

9


Chỉ dẫn địa lý là thông tin về nguồn gốc của hàng hoá: từ ngữ; dấu hiệu;
biểu tượng; hình ảnh để chỉ: một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương mà
hàng hoá được sản xuất ra từ đó. Chất lượng, uy tín, danh tiếng của hàng hoá là do
nguồn gốc địa lý tạo nên.Ví dụ "Made in Japan" (điện tử), "Vạn Phúc" (lụa tơ tằm);

"Bát Tràng" (gốm, sứ)…Một dạng chỉ dẫn địa lý đặc biệt là "Tên gọi xuất xứ hàng
hoá".Nếu chỉ dẫn địa lý chỉ là tên gọi (địa danh) và uy tín, danh tiếng của sản phẩm
đạt đến mức đặc thù gắn liền với vùng địa lý đó thì chỉ dẫn như vậy được gọi là
“Tên gọi xuất xứ hàng hoá”.
Bí mật thương mại là bất cứ thông tin bí mật nào mang lại lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp đều đáp ứng tiêu chuẩn.Bí mật thương mại có thể liên quan đến
các loại thông tin khác nhau: + Kỹ thuật và khoa học + Thương mại + Tài chính +
Thông tin phủ định.
Các đối tượng SHCN đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản
xuất kinh doanh của chủ sở hữu và người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý.Vì vậy,
quyền khai thác, sử dụng và chống lại những hành vi xâm phạm quyền SHCN như
là hành vi CTKLM là nội dung quan trọng của quyền SHCN.
Chủ thể của quyền SHCN gồm tác giả của đối tượng mang tính sáng tạo và
chủ văn bằng bảo hộ. Tác giả là người sáng tạo ra sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
mạch tích hợp bán dẫn. Cá nhân, tổ chức được cấp văn bằng bảo hộ là chủ sở hữu
các đối tượng SHCN. Đối với chỉ dẫn địa lý, chủ văn bằng bảo hộ không có quyền
sở hữu đối tượng đó mà có quyền sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Đối với tên
thương mại và bí mật kinh doanh, chủ sở hữu của các đối tượng này là cá nhân, tổ
chức mang tên thương mại trong kinh doanh hoặc có bí mật kinh doanh một cách
hợp pháp.
Đối với tác giả thì quyền nhân thân có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp
nghiên cứu khoa học. Tác giả là người sáng tạo ra đối tượng SHCN. Đây là kết quả

10


của quá trình nghiên cứu khoa học, khẳng định trình độ chuyên môn và khả năng
nghiên cứu khoa học của tác giả.
1.1.2. Cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành và

phát triển của sản xuất hàng hóa và trở thành một đặc trưng cơ bản của cơ chế thị
trường. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, bởi cạnh tranh làm
cho người sản xuất năng động hơn, nhạy bén hơn, nắm bắt tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng, buộc họ phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng các tiến bộ,
nghiên cứu thành công mới nhất vào trong sản xuất, hoàn thiện cách thức tổ chức
trong sản xuất, trong quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Pháp luật của các quốc gia đều ghi nhận và coi quyền cạnh tranh lành mạnh như là
một quyền đương nhiên của doanh nghiệp và được Nhà nước bảo vệ.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện nay, đối nghịch với hành vi kinh doanh
lành mạnh, trung thực, ngày càng xuất hiện nhiều loại hành vi làm ăn chụp giật, sử
dụng các thủ đoạn không minh bạch, CTKLM của những doanh nghiệp vì nôn
nóng muốn có lợi nhuận tức thời mà không muốn đầu tư nhiều tiền bạc và công
sức. Họ đã thực hiện các hành vi thương mại không trung thực nhằm tạo ra lợi thế
cạnh tranh, lợi nhuận cho bản thân mình. Hành vi đó ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp khác, đến người tiêu dùng và rộng ra là tác động tiêu cực đến cả nền kinh tế.
Đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Trên thế giới tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về CTKLM. Nhìn chung, có
3 quan niệm cơ bản như sau:
Quan niệm thứ nhất được thể hiện trong Điều 10Bis của Công ước Paris về
bảo hộ quyền SHCN, theo đó, “bất kì hành vi nào đi ngược lại các thông lệ trung
thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là CTKLM”.
Quan niệm thứ hai cho rằng “CTKLM bao gồm tất cả các hành vi xâm hại
tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, xâm hại tới quyền tự do cạnh tranh công
11


bằng của các doanh nghiệp”. Quan niệm này được phản ánh rất rõ trong quy định
của Luật Cạnh tranh Mông Cổ[20].
Quan niệm thứ ba về CTKLM chỉ ra: “CTKLM là hành vi cạnh tranh của
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với chuẩn mực thông thường về đạo

đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh khác hoặc của người tiêu dùng”.
Như vậy, theo quan niệm thứ hai, phạm vi các hành vi bị coi là CTKLM là
rất rộng, có thể bao gồm cả các hành vi hạn chế cạnh tranh. Điều này sẽ gây khó
khăn trong việc sử dụng phương thức áp dụng pháp luật do bản chất, tính chất, mức
độ nguy hại cho thị trường của các hành vi trên là khác nhau. Ngược lại, phạm vi
các hành vi CTKLM theo quan điểm thứ nhất lại chỉ bó hẹp ở các hành vi “không
trung thực trong hoạt động thương mại và công nghiệp”. Quan niệm thứ ba đã dung
hoà được hạn chế của hai quan niệm còn lại, khi cạnh tranh không chỉ có trong lĩnh
vực công nghiệp như trong quan niệm thứ nhất, mà còn mở rộng sang các lĩnh vực
khác. Đây cũng chính là quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam khi đưa ra khái
niệm CTKLM.Là một đốitượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng khái niệm CTKLM
không được đưa ra trong Luật SHTT. Luật SHTT chỉ liệt kê những hành vi bị coi là
CTKLM. Khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh” được quy định tại khoản 4
Điều 3 trong LCT như sau:
“Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh,
gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.
Xuất phát khái niệm về hành vi CTKLM nêu trên, có thể xác định một số
đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM như sau[24]:
- Hành vi CTKLM trước hết là một hành vi cạnh tranh do các chủ thể kinh
doanh trên thị trường thực hiện. Có thể phân tích vấn đề này trên hai khía cạnh:
12


Thứ nhất, trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh
nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương quan với các doanh nghiệp
khác, do đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem xét về tính chính
đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh
tế. Đặc điểm này khiến cho pháp luật về CTKLM tại một số quốc gia có thể có
phạm vi áp dụng rất rộng và điều chỉnh những hành vi đa dạng. Một ví dụ gần đây
được nhiều người biết đến là Điều 18 của Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh
Nhật Bản quy định về việc hối lộ cũng bị coi là một dạng hành vi CTKLM[13].
Quy định này được bổ sung năm 1998 và được coi là sự nội luật hoá Công ước của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về Chống hối lộ đối với quan chức
nước ngoài trong giao dịch quốc tế.
Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi CTKLM là các doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây, khái niệm doanh nghiệp được hiểu
theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi
nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp
luật thương mại là có tư cách thương nhân trên thị trường. Trên một phạm vi rộng
hơn, các quy định về CTKLM còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm
doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do (bác
sỹ, luật sư, kiến trúc sư…). Và cuối cùng, liên quan đến trách nhiệm cá nhân, theo
một truyền thống chung của pháp luật cạnh tranh, một số quốc gia còn mở rộng
phạm vi đối tượng chịu trách nhiệm pháp lý về vi phạm đến các cá nhân là lãnh đạo
doanh nghiệp và không loại trừ các chế tài mang tính hình sự. Lấy tiếp ví dụ tại
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật Bản nêu trên, hình phạt tối đa
đối với các cá nhân vi phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu yên tiền phạt[9].
- Tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức
kinh doanh, có thể hiểu là những quy tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi
và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường. Đặc điểm này phần nào thể
13


hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp luật về CTKLM, các quy định về CTKLM
được hình thành và hoàn thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, không
thể một sớm một chiều mà có được. Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi hỏi cơ quan

xử lý về hành vi CTKLM phải có những hiểu biết và đánh giá sâu sắc về thực tiễn
thị trường để phán định một hành vi có đi ngược lại những quy tắc xử sự chung
trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay không. Như đã phân tích ở phần
trên, với nền kinh tế thị trường mới hình thành, các thông lệ, tập quán thương mại
tại Việt Nam chưa đủ thời gian để tạo thành các chuẩn mực đạo đức kinh doanh
được các tổ chức, cá nhân cùng nhận thức giống nhau và tự nguyên thực hiện như
những quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, tác giả cho rằng vẫn có một
số nguyên tắc được khẳng định cả trong pháp luật và thực tiễn có thể sử dụng để
đánh giá tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh, cũng là những nguyên tắc cơ bản
của giao dịch dân sự, thương mại được quy định tại văn bản luật khác như Bộ luật
Dân sự hay Luật Doanh nghiệp. Đó là các nguyên tắc như trung thực, thiện chí, tự
nguyện, hợp tác, cẩn trọng…. Và những nguyên tắc khác có thể được đề xuất trong
tương lai phù hợp với yêu cầu thực tế của công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Do
đặt tiêu chí đánh giá tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh dựa trên các thông lệ
kinh doanh trung thực, thiện chí, pháp luật về CTKLM luôn có trọng tâm bảo vệ
các doanh nghiệp trung thực, các chuẩn mực hành vi của doanh nghiệp được xem là
trọng tâm ban đầu để xây dựng các quy định trong lĩnh vực này. Một hoạt động
kinh doanh nhất định bị đa số trong cộng đồng doanh nghiệp phản đối thì hiếm khi
được coi là là cạnh tranh lành mạnh.Mặt khác, một số thông lệ kinh doanh được
công nhận trong một số ngành, lĩnh vực nhất định, song lại bị coi là sai trái ở những
ngành, lĩnh vực khác. Trong những trường hợp như vậy, việc đánh giá hành vi phải
dựa trên các chuẩn mực chung hơn về đạo đức kinh doanh, trong đó xem xét khả
năng quyền lợi của người tiêu dùng bị phương hại. Cũng có những trường hợp hành
vi thoạt đầu không gây hại cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp khác, nhưng
về lâu dài vẫn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, do đó cần phải có biện
pháp ngăn chặn thích hợp. Do đó, để đánh giá một hành vi CTKLM thể không xem
14


xét tác động của hành vi đó đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp khác. Một

khía cạnh khác cần phân tích liên quan đến đặc điểm đi ngược lại thông lệ, chuẩn
mực đạo đức kinh doanh của hành vi CTKLM, đó là yếu tố chủ quan của bên thực
hiện hành vi. Một hành vi CTKLM điển hình luôn gắn với lỗi cố ý của bên vi
phạm, mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với
hoạt động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Tuy nhiên, trong thực
tiễn xử lý, việc xem xét đánh giá yếu tố lỗi được trao cho toà án hoặc cơ quan xử lý
vụ việc, và nhiều trường hợp mang tính chất suy đoán hơn là đòi hỏi các bằng
chứng cụ thể về ý định CTKLM của bên thực hiện hành vi. Và khi vấn đề bảo vệ
người tiêu dùng được nhấn mạnh định hướng thực thi pháp luật về CTKLM thì việc
xem xét yếu tố lỗi càng không mang tính quyết định. Về nguyên tắc, một hành vi
của doanh nghiệp cho dù chỉ là vô ý, bất cẩn nhưng gây thiệt hại cho người tiêu
dùng cũng vẫn phải bị ngăn chặn.
- Một hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh và cần phải ngăn
chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại cho các đối tượng khác.
Đặc điểm này mang nhiều ý nghĩa về tố tụng và đặc biệt được chú ý khi việc xử lý
CTKLM được tiến hành trong khuôn khổ kiện dân sự và gắn liền với yêu cầu bồi
thường thiệt hại. Câu hỏi đặt ra là liệu việc chứng minh thiệt hại thực tế được coi là
bắt buộc để bắt đầu tiến trình xử lý hành vi CTKLM hay không. Tuỳ thuộc vào quy
định của từng quốc gia cũng như quan điểm của cơ quan xử lý, có các cách thức
nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi CTKLM. Trong nhiều trường hợp, cơ
quan xử lý có thể chấp nhận việc “đe doạ gây thiệt hại”, cũng như các thiệt hại
không tính toán được cụ thể về cơ hội kinh doanh là đủ để coi một hành vi CTKLM
và đáng bị ngăn cấm. Về đối tượng chịu thiệt hại, dễ thấy hành viCTKLM có thể
tác động đến nhiều đối tượng khác nhau tham gia thị trường khác nhau, trong đó
hai nhóm cơ bản là các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng. Điều 3 của Luật
Chống cạnh tranh không lành mạnh Đức cấm “các hành vi CTKLM có thể gây ảnh
hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn hại đến các đối thủ cạnh tranh, người tiêu
dùng và các chủ thể tham gia thị trường khác”[9]. Luật Cạnh tranh Việt Nam có
15



đưa thêm một đối tượng có thể bị xâm hại là Nhà nước, tuy nhiên đối tượng này
không mang tính tiêu biểu, không phổ biến trong quy định về CTKLM của nhiều
quốc gia, do chỉ có thể đặt vấn đề bảo vệ lợi ích của Nhà nước trước hành vi
CTKLM tại những nền kinh tế mà ở đó Nhà nước tham gia sâu vào hoạt động kinh
doanh, và cạnh tranh trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trường.
Trong đa số trường hợp khác, lợi ích của Nhà nước đã được thể hiện thông qua lợi
ích của các nhóm chủ thể tham gia thị trường là doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Trước đây, một số quốc gia có cách tiếp cận cứng khi xác định một hành vi là
CTKLM ngay khi nó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh tranh trong ngành mà
không cần xem xét ảnh hưởng đến các đối tượng khác, đặc biệt là người tiêu dùng.
Hiện nay, cách nhìn nhận về hành vi CTKLM trở nên cân bằng hơn, cơ quan xử lý
thường phải đánh giá cả thiệt hại của người tiêu dùng và các đối tượng khác để kết
luận về vi phạm. Cần thấy rằng trong một phạm vi thị trường hữu hạn, doanh
nghiệp thực hiện một hành vi cạnh tranh bất kỳ cũng đều có khả năng gây thiệt hại
cho các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó, do vậy, nếu chỉ căn cứ vào thiệt
hại của các đối thủ cạnh tranh để xác định một hành vi là không lành mạnh thì sẽ
không đầy đủ. Trên thực tế, các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại cho đối thủ cạnh
tranh khác nhưng đem lại lợi ích thực tế cho người tiêu dùng sẽ không bị coi là
cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ điển hình là trường hợp quảng cáo so sánh,
trước đây bị coi là một trong những hành vi CTKLM điển hình, tuy nhiên từ sự cân
nhắc lợi ích nó đem lại cho người tiêu dùng (tiết kiệm thời gian tìm kiếm, lựa chọn
sản phẩm), mà hành vi này đến nay đã được chấp nhận với những điều kiện ràng
buộc về tính chính xác, đầy đủ của thông tin để tránh bị các doanh nghiệp lợi dụng
công kích đối thủ cạnh tranh. Việt Nam hiện còn lại là một trong số rất ít các quốc
gia trên thế giới cấm tuyệt đối các hình thức quảng cáo so sánh trực tiếp, mà không
cần xét đến nội dung quảng cáo.
Quyền chống CTKLM được coi là một trong những đối tượng của quyền
SHCN. Có quy định như vậy là bởi đối tượng SHCN là một yếu tổ thể hiện lợi thế
cạnh tranh trong thương mại, nên đã có không ít các doanh nghiệp thực hiện hành

16


viCTKLM làm xâm hại đến các đối tượng SHCN của đối thủ để thu lợi bất chính
trong kinh doanh. Ngoài ra, tính độc quyền của quyền SHCN có thể bị các doanh
nghiệp sở hữu quyền lạm dụng để cản trở thương mại. Do vậy, pháp luật phải thừa
nhận cho các chủ thể kinh doanh quyền chống CTKLM như là một nội dung của
quyền SHCN để đối phó với các loại hành vi CTKLM có thể gặp phải.
Trước thực trạng các hành vi CTKLM diễn ra ngày càng đa dạng, phức tạp
và tinh vi trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, việc công nhận và thực thi quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh của các chủ thể bị xâm phạm lợi ích do các
hành vi CTKLM kể trên là rất cần thiết.
Quyền chống CTKLM là một nội dung cơ bản của quyền SHCN. Tuy nhiên,
quyền chống CTKLM cũng mang những đặc điểm riêng, khác biệt với các đối
tượng còn lại của quyền SHCN:
Một là, quyền chống CTKLM chỉ được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh
tranh trong kinh doanh.Và khi hành vi CTKLM này ảnh hưởng đến lợi ích hợp
pháp của chủ thể quyền, pháp luật cho phép chủ thể này thực hiện quyền chống
CTKLM để tự bảo vệ mình.
Hai là, quyền chống CTKLM có thể cùng một lúc thuộc về nhiều
người.Trong một lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực tạo ra
nhiều lợi nhuận, việc có nhiều chủ thể cùng tham gia là điều không thể tránh khỏi.
Cùng một thời điểm, một chủ thể có thể cạnh tranh với nhiều chủ thể khác nhau,
dẫn đến khả năng một hành vi CTKLM ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của nhiều
chủ thể khác nhau và do vậy, nhiều bên sẽ có quyền chống hành vi CTKLM này.
Ba là, quyền chống CTKLM không thể chuyển giao. Nếu như các quyền
SHTT khác như: quyền sở hữu sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chủ sở
hữu luôn có quyền thực hiện các hoạt động chuyển nhượng, mua bán, li-xăng… thì
đối với quyền chống CTKLM, chủ thể quyền không thể chuyển giao cho chủ thể


17


×