Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động từ thực tiễn huyện thủy nguyên, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 99 trang )

HOÀNG THỊ HÀ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO
ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỦY NGUYÊN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

2015 - 2017

HOÀNG THỊ HÀ

1


HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO
ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỦY NGUYÊN,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG


HOÀNG THỊ HÀ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.01.07

Hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ
2


HÀ NỘI - 2017

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn
của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học cũng
như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến PGS.TS Phạm Hữu Nghị – thầy giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ, tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám hiệu,
toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Viện Đại
học Mở Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2017

Tác giả

3


Hoàng Thị Hà

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ
từ Giáo viên hướng dẫn là PGS.TS Phạm Hữu Nghị. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân
tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu chưa được ai công
bố trong các công trình khoa học.

Hà Nội, ngày 25 tháng 9 năm 2017
Tác giả

Hoàng Thị Hà

4


MỤC LỤC

Trang

LỜI CÁM ƠN….. …………………………………………………………………….
LỜI CAM ĐOAN…..…………………………………………………………………
MỤC LỤC…………………………………………………………………………….

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT………………………………………………………
LỜI MỞ ĐẦU ………………………………………………………………...............

01

1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………………...

01

2. Tình hình nghiên cứu…………………………………………………………........

02

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn…………………………………

03

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn………………………………….

04

5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu…………………………….

05

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ……………………………………….

06

7. Kết cấu của luận văn ……………………………………………………………...


06

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO
ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG ……………………………………………….

07

1.1. Khái niệm và đặc điểm an toàn lao động, vệ sinh lao động…………………...

07

1.1.1. Khái niệm an toàn lao động, vệ sinh lao động…………………………………..

07

1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động……………………………….

09

1.2. Khái niệm, nguyên tắc và nội dung của pháp luật về an toàn lao động, vệ
sinh lao động…………………………………………………………………………..

13

1.2.1. Khái niệm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động………………………...

13

1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về an toàn lao động vệ sinh lao động....................


14

5


1.2.3. Nội dung pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động……………………...

21

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động…

31

Kết luận chương 1…………………………………………………………………….

35

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ
SINH LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN THỦY

36

NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG………………….…………………………
2.1. Thực trạng pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.............................

36

2.1.1. Quy định về Tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động……………………


36

2.1.2. Những quy định nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động, hạn chế những yếu tố
không thuận lợi trong môi trường lao động…………………………………………....
2.1.3. Quy định về khắc phục hậu quả tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp..................
2.1.4. Quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với một số đối tượng lao
động................................................................................................................................
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại
huyện Thủy nguyên, thành phố Hải Phòng ...............................................................
2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại huyện
Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng..............................................................................
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng....................................................................

38
45
50
54
54
77

2.2.2.1. Những mặt tích cực và nguyên nhân..................................................................

77

2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót, bất cập và nguyên nhân...........................................

79

Kết luận chương 2 ……………………………………………………………………


87

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN LAO

88

ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG...................................................................................
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về an toàn lao động, vệ sinh lao động..........................................................................
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
an toàn lao động, vệ sinh lao động...............................................................................

88
92

Kết luận chương 3.........................................................................................................

100

KẾT LUẬN ...................................................................................................................

101

6


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................


BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATVSLĐ

An toàn, vệ sinh lao động

TNLĐ

Tai nạn lao động

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BNN

Bệnh nghề nghiệp

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội


ILO

Tổ chức lao động quốc tế

UBND

Ủy ban nhân dân

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

LĐLĐ

Liên đoàn Lao động

WTO

Tổ chức thương mại quốc tế

TPP

Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

FTA

Hiệp định Thương mại tự do
7

103



LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động sản xuất là hoạt động quan trọng tạo ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó con người là lực lượng
không thể thiếu, là yếu tố quyết định. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, vấn đề đảm bảo an toàn vệ sinh lao động ngày càng liên quan chặt chẽ
đến sự thành công của mỗi doanh nghiệp, góp phần quyết định đến sự phát triển
kinh tế bền vững của mỗi quốc gia. Xây dựng một nền sản xuất an toàn với
những sản phẩm có tính cạnh tranh cao gắn liền với việc bảo vệ sức khỏe của
người lao động là yêu cầu tất yếu của sự phát triển bền vững và bảo đảm sức
mạnh cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Quá trình sản xuất luôn tiềm ẩn
nhiều nguy hại có thể tác động đến sức khỏe, tính mạng người lao động. Nếu lực
lượng lao động bị thiệt hại, tổn thương sẽ ảnh hưởng không chỉ hiệu quả sản
xuất mà còn trở thành gánh nặng với xã hội. Công tác bảo đảm an toàn, vệ sinh
lao động thông qua việc áp dụng các biện pháp về khoa học kĩ thuật, tổ chức,
kinh tế, xã hội để loại trừ các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản
xuất, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hạn chế ốm đau, duy trì
8


sức khỏe đối với người lao động, góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động.
Bên cạnh những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua
công tác vệ sinh, an toàn lao động ở nước ta đã có những chuyển biến đáng kể
về hệ thống văn bản pháp luật và bộ máy tổ chức. Quá trình phát triển sự nghiệp
Bảo hộ lao động, An toàn vệ sinh lao động của nước ta được ghi nhận bởi nhiều
thành tựu, những cột mốc quan trọng, điển hình là việc tăng cường xây dựng và
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật. Trong hơn 20 năm qua, từ khi Bộ Luật

lao động của nước ta bắt đầu có hiệu lực, các cơ quan quản lý nhà nước đã tiến
hành rà soát nội dung về an toàn vệ sinh lao động tại hàng trăm văn bản quy
phạm pháp luật. Trên cơ sở đó, bổ sung, sửa đổi nội dung Pháp lệnh Bảo hộ lao
động, Bộ Luật lao động (2002, 2006 và 2012) và mới đây nhất là Luật An toàn,
Vệ sinh lao động đã được Quốc Hội khoá XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25
tháng 6 năm 2015 (chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016). Chính phủ và các
cơ quan của Chính phủ đã và đang ban hành các nghị định, quyết định, thông tư
quy định chi tiết hướng dẫn thực hiện các chế độ về Bảo hộ lao động, An toàn
vệ sinh lao động và những vấn đề liên quan. Đồng thời, các Bộ, ngành, địa
phương đã tổ chức xây dựng hàng trăm văn bản và bãi bỏ hiệu lực nhiều văn
bản. Tuy nhiên, trong quá trình đó, nhiều hạn chế, bất cập đã bộc lộ đòi hỏi pháp
luật cần được thay đổi để nâng cao hiệu quả điều chỉnh trong vấn đề an toàn lao
động, vệ sinh lao động.
Bộ Luật lao động năm 2012 đã dành hẳn một chương riêng- chương IX
quy định về An toàn lao động, vệ sinh lao động, các quy định này đã góp phần
xác lập tính pháp lí của công tác an toàn - vệ sinh lao động.
Với mong muốn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động góp phần bảo vệ tính mạng, sức khỏe cho
người lao động nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Đó chính
là lý do tôi chọn cho mình đề tài “Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao
động từ thực tiễn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng” để làm luận
văn tốt nghiệp chương trình cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu

9


Pháp luật về giải quyết các vấn đề về an toàn lao động, vệ sinh lao động
đối với người lao động đã được hình thành từ rất sớm ở các nước đang phát triển
và được thể hiện ở nhiều công ước quốc tế của Tổ chức lao động quốc tế ILO.

Tại Việt Nam, các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động được
thể hiện trong Bộ luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và hiện nay là Luật An
toàn vệ sinh lao động. Tuy nhiên, việc giải quyết các chế độ liên quan đến an
toàn vệ sinh lao động mới chỉ được nhìn nhận và xem xét dưới góc độ coi như
một giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại, hậu quả trong quá trình lao động. Các
nghiên cứu liên quan đến bản chất pháp lý, các tiêu chí rõ ràng để giải quyết các
chế độ liên quan trực tiếp đến người lao động chưa nhiều. Trong những năm gần
đây, có một số bài báo khoa học, công trình khoa học đề cập tới một số khía
cạnh của an toàn, vệ sinh lao động đối với người lao động nói chung như:
- Luận án Tiến sỹ “Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các

chế độ BHXH ở Việt Nam”, năm 2010, Nguyễn Thị Chính, Đại học Kinh tế Quốc dân.
- Luận văn Thạc sỹ: “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh
lao động theo pháp luật Việt Nam” năm 2012, của Nguyễn Thị Hải Yến, Đại
học quốc gia Hà Nội.
- Đề tài khoa học: “Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng
cao hiệu quả quản lý và các chính sách xã hội đối với lao động nhập cư tại Hải
Phòng”, năm 2014, Thạc sĩ Tống Văn Băng, Liên đoàn Lao động thành phố Hải
Phòng.
Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ nghiên cứu về an toàn lao động,
vệ sinh lao động ở một khía cạnh nhất định, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách chi tiết, cụ thể từ thực tiễn thi hành pháp luật về an toàn lao động, vệ
sinh lao động tại một địa phương cụ thể.
Kết quả của những công trình trên là những tài liệu tham khảo đặc biệt
hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về an toàn lao
động, vệ sinh lao động. Từ đó, đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục các hạn
10



chế, bất cập của pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật an
toàn lao động, vệ sinh lao động trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật an toàn lao
động, vệ sinh lao động, bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung,
nguyên tắc và yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật an toàn lao động, vệ sinh lao
động.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật an toàn lao động, vệ sinh
lao động và thực tiễn thi hành tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng;
chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của
những hạn chế, thiếu sót đó.
Thứ ba, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là các quy định pháp luật hiện hành
về vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động và thực tiễn thi hành pháp luật an toàn
lao động, vệ sinh lao động được thực hiện tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải
Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thực tiễn, Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thi hành pháp luật
an toàn lao động, vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Thủy
Nguyên, thành phố Hải Phòng. Số liệu sử dụng trong phân tích, đánh giá tình hình
được lấy từ kết quả điều tra, khảo sát trực tiếp tại Phòng Lao động- Thương binh và
Xã hội huyện Thủy Nguyên, Liên đoàn Lao động huyện Thủy Nguyên, Công an
huyện Thủy Nguyên…Trong đó, Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội huyện
chịu trách nhiệm chính trước Uỷ ban nhân dân huyện về việc an toàn lao động, vệ
sinh lao động trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

5 . Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam vào việc nghiên cứu
11


pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động và thực tiễn thi hành tại huyện
Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của hệ thống
các quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động của Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được áp dụng để giải quyết các vấn đề
lý luận pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Phương pháp thống kê: Đối chiếu, thống kê, mô hình hóa các số liệu về an
toàn lao động, vệ sinh lao động tại các đơn vị trên địa bàn huyện Thủy Nguyên,
thành phố Hải Phòng .
- Phương pháp chuyên gia: Gặp gỡ để trao đổi trực tiếp, xin ý kiến của các
chuyên gia về lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động đang làm việc tại các cơ
quan, ban ngành trên địa bàn huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng như:
Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên và môi trường, Công
an huyện, Liên đoàn Lao động huyện Thủy Nguyên và lãnh đạo, những cán bộ làm
bảo hộ lao động, công tác công đoàn tại các doanh nghiệp trên địa bàn huyện.
6. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa khoa học: các nghiên cứu, đánh giá, đề xuất trong luận văn góp
phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao
động.
Ý nghĩa thực tiễn: luận văn có thể được phục vụ làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu về những vấn đề có liên quan.
Ngoài ra, luận văn cũng có ý nghĩa tham khảo đối với người lao động,

người sử dụng lao động cần tìm hiểu pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao
động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn được kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về an toàn lao động, vệ
sinh lao động.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động và
thực tiễn thực hiện tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
12


Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Do trình độ và kinh nghiệm bản thân em còn hạn chế nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như hình thức. Em rất mong nhận
được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô giáo, bạn bè cũng như những ai quan
tâm đến vấn đề này để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT AN TOÀN LAO ĐỘNG,
VỆ SINH LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động
1.1.1. Khái niệm an toàn lao động, vệ sinh lao động
An toàn lao động là tình trạng nơi làm việc đảm bảo cho người lao động
được làm việc trong điều kiện không nguy hiểm đến tính mạng, không bị tác
động xấu đến sức khỏe. An toàn lao động luôn gắn với công cụ lao động và
phương tiện lao động cụ thể. Bởi lẽ, để có thể tiến hành sản xuất, kinh doanh thì
13



con người phải sử dụng công cụ lao động, phương tiện lao động để sản xuất ra
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Công vụ và phương tiện lao động bao gồm từ các
công cụ đơn giản đến các máy, thiết bị tinh vi, hiện đại, từ một chỗ làm việc đơn
sơ, thậm chí không có mái che đến những nơi làm việc trong nhà xưởng với đầy
đủ tiện nghi. Chúng ta cần đánh giá, xem xét mức độ ảnh hưởng của các công
cụ, máy, thiết bị, nhà xưởng đối với tính mạng, sức khỏe con người để đảm bảo
môi trường làm việc tốt nhất cho người lao động. Người lao động sử dụng công
cụ, phương tiện lao động gắn với đối tượng lao động, tiến trình công nghệ trong
sản xuất, môi trường lao động [1].
Vệ sinh lao động có thể hiểu như là một lĩnh vực khoa học công nghệ
chuyên ngành nghiên cứu việc quản lý- nhận dạng, đánh giá và kiểm soát nguy
cơ của các tác hại nghề nghiệp, các mối nguy hại đối với sức khỏe con người, đề
xuất các biện pháp cải thiện môi trường, điều kiện làm việc nhằm bảo vệ sức
khỏe, nâng cao khả năng lao động và phòng ngừa bệnh nghề nghiệp cho người
lao động. Vệ sinh lao động có các nhiệm vụ: Nghiên cứu đặc điểm nhận dạng
các tác hại nghề nghiệp, các mối nguy hại đối với sức khỏe người lao động;
nghiên cứu những biến đổi sinh lý, sinh hóa, tâm sinh lý và căng thẳng do các
tác hại nghề nghiệp tác động đến con người; nghiên cứu các biện pháp phòng
ngừa và kiểm soát nguy cơ của các tác hại nghề nghiệp; nghiên cứu xây dựng
các tiêu chuẩn, quy chuẩn vệ sinh sức khỏe môi trường điều kiện làm việc, các
chế độ và kiểm tra việc thực hiện; nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn khám
tuyển, khám sức khỏe định kỳ và khám bệnh nghề nghiệp[2].
Dưới các góc độ xem xét khác nhau, ta có nhiều cách định nghĩa khái
niệm an toàn lao động, vệ sinh lao động. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, an
toàn lao động được hiểu là “tình trạng điều kiện lao động không gây ra sự nguy
hiểm trong sản xuất”. Vệ sinh lao động được hiểu là “tổng thể các tiêu chuẩn
môi trường lao động; bảo hộ an toàn lao động, trang thiết bị bảo hộ lao động,
máy móc sản xuất, thiết bị sản xuất, chế độ ăn uống tối ưu thích hợp với mỗi


1
2

Khoản 2, Điều 3, Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 26/6/2015
Khoản 3, Điều 3, Luật An toàn, vệ sinh lao động số 84/2015/QH13 ngày 26/6/2015

14


loại lao động; vệ sinh cá nhân của người lao động; nhà ở và các tiện nghi sinh
hoạt; quản lý sức khỏe cho người lao động và gia đình…” [3].
Nếu hiểu theo nghĩa là một yêu cầu của quá trình sản xuất thì an toàn lao
động là tình trạng không có các yếu tố nguy hiểm, gây chấn thương hoặc tử
vong cho người lao động, chẳng hạn như: cháy nổ, điện giật, vật rơi, đổ sập,
văng bắn, khí độc…và vệ sinh lao động là yêu cầu về điều kiện, môi trường làm
việc của từng loại công việc, ngành nghề để sức khỏe người lao động không bị ảnh
hưởng xấu. Nếu hiểu theo nghĩa là biện pháp áp dụng trong sản xuất thì an toàn
lao động là tổng hợp các biện pháp nhằm loại trừ các yếu tố nguy hiểm phát sinh
trong quá trình lao động đảm bảo cho người lao động được làm việc trong điều
kiện an toàn. Vệ sinh lao động là hệ thống các biện pháp, phương tiện về tổ chức
và kĩ thuật vệ sinh nhằm phòng ngừa sự tác động của các yếu tố có hại trong sản
xuất đối với người lao động.
Với cùng ý nghĩa là bảo đảm sức khỏe, tính mạng người lao động, công
tác an toàn lao động và vệ sinh lao động luôn được tiến hành đồng thời, hỗ trợ
nhau, tạo nên môi trường lao động thuận lợi. Tuy nhiên, cần hiểu đó là hai
phương diện khác nhau của một vấn đề, chứ không nên đánh đồng, nhầm lẫn
chúng là một. Sự khác nhau chủ yếu đó là mục đích cụ thể của chúng. Việc triển
khai thực hiện các biện pháp an toàn trong quá trình lao động có ý nghĩa quyết
định trong việc ngăn ngừa tai nạn lao động và những sự cố khác có thể phát sinh
trong quá trình làm việc gây thiệt hại trực tiếp cho người lao động. Còn công tác

vệ sinh lao động được đặt ra với các đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích
kiến tạo một môi trường lao động xanh, sạch, trong lành, hạn chế đến mức thấp
nhất các tác nhân vật lí, sinh học, hóa học độc hại, giảm thiểu tình trạng người
lao động mắc các bệnh nghề nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của an toàn lao động, vệ sinh lao động
Một là, an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất khoa học, kĩ thuật rõ nét.
Đây là tính chất cơ bản của công tác này bởi mọi biện pháp nhằm hạn chế,
loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại đều xuất phát trên cơ sở nghiên cứu khoa
học, được thực hiện bằng các giải pháp kĩ thuật, ứng dụng công nghệ. Không
3

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, An toàn và vệ sinh lao động,
ttps://vi.wikipedia.org/wiki/An_to%C3%A0n_v%C3%A0_v%E1%BB%87_sinh_lao_%C4%91%E1%BB%99n
g

15


phải tự nhiên mà người ta đề ra được các nội dung an toàn, vệ sinh lao động.
Các hoạt động điều tra, phân tích điều kiện lao động, khảo sát, đánh giá ảnh
hưởng của các yếu tố độc hại lên cơ thể người lao động, nghiên cứu các giải
pháp đảm bảo an toàn trong từng công việc cụ thể…đều thuộc về lĩnh vực khoa
học. Đồng thời, cũng từ các phát minh, ứng dụng kĩ thuật mà người lao động
được trang bị các phương tiện bảo hộ cá nhân cần thiết, các thiết bị vệ sinh trong
môi trường chung…Đặc biệt, chính những nguyên lí khoa học, kĩ thuật là cơ sở
để đề ra các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh mang tính quốc gia, hoặc trong phạm vi
ngành.
Các biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, có hại đến
sức khỏe người lao động trong môi trường làm việc đều dựa trên cơ sở khoa học
– tự nhiên và được thực hiện bằng các giải pháp kinh tế. Nó bảo gồm các hoạt

động điều tra, kiểm soát điều kiện lao động; phân tích, đánh giá ảnh hưởng các
yếu tố nguy hiểm, có hại đối với người lao động, giải quyết xử lý điều kiện, môi
trường lao động, ban hành các tiêu chuẩn kĩ thuật về an toàn, vệ sinh lao động
đối với từng ngành nghề, lĩnh vực, cải tiến trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ sản
xuất…Theo quy định hiện hành, các bộ ngành chức năng có trách nhiệm phối
hợp với nhau trong việc ban hành và quản lý thống nhất hệ thống tiêu chuẩn,
quy phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Về hình thức, các quy định tiêu
chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động chứa đầy đủ những yếu tố của một
quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung. Bên cạnh đó, về nội dung còn chứa
đựng những yêu cầu về mặt kĩ thuật nghiêm ngặt dựa trên cơ sở nghiên cứu
khoa học về an toàn, vệ sinh lao động. Vì tính chất này mà công tác an toàn vệ
sinh lao động càng phải gắn bó chặt chẽ với hoạt động đầu tư, phát triển nghiên
cứu khoa học, khuyến khích các phát minh phù hợp với thực tế sản xuất, đem lại
an toàn cho người lao động.
Hai là, các yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động mang tính chất pháp lí.
Tính chất pháp lí của công tác an toàn - vệ sinh lao động thể hiện ở chỗ
muốn các giải pháp khoa học kĩ thuật, các biện pháp tổ chức an toàn lao động,
vệ sinh lao động được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, phải thể chế hóa chúng
thành những luật lệ, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, quy phạm, hướng dẫn để
buộc các cấp quản lí, các tổ chức và cá nhân phải nghiêm túc thực hiện. Chính vì
vậy mà công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trở nên bắt buộc phải thực
16


hiện. Mọi vi phạm về tiêu chuẩn kĩ thuật an toàn, tiêu chuẩn vệ sinh lao động
trong quá trình sản xuất đều bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật về an
toàn, vệ sinh lao động và bị xử lí theo quy định tương ứng.
Trong chế định pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động vẫn có
một số quy định mang tính “ định khung” khi xác định quyền lợi tối thiểu của
người lao động trong việc thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật, hay tiền

bồi thường cho người bị tai nạn lao động, những xét một cách khái quát và so
sánh với các cơ chế điều chỉnh của nhiều chế định khác của Luật lao động,có thể
thấy: Các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động mang tính “ cứng
nhắc” hơn và khó có thể có phần linh hoạt để các bên thực hiện trong hợp đồng
lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể. Đó cũng là nguyên nhân khách quan
khiến các chủ thể khi thỏa thuận về điều kiện an toàn, vệ sinh lao động trong
hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động tập thể thường ghi là “theo quy định
của Pháp luật hiện hành”.
Ba là, các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh lao động mang tính xã hội
Việc thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đòi hỏi
sự tham gia rộng rãi của tất cả các chủ thể, bao gồm: người lao động, người sử
dụng lao động, các cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực lao động và các
chủ thể khác (như các tổ chức xã hội và các đoàn thể quần chúng có liên quan).
Việc thực hiện đúng, đủ các quy định, tiêu chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh
lao động cũng chính là hoạt động đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động của mọi chủ
thể tham gia quan hệ lao động. Họ là người thực hiện, giám sát việc thực hiện
các quy định và cũng là người phát hiện các yếu tố nguy hiểm, có hại, từ đó yêu
cầu, đề xuất biện pháp giải quyết nhằm góp phần đảm bảo và cải thiện điều kiện
lao động ngày một tốt hơn.
Do vậy, công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động chỉ có hiệu quả khi
mọi ngành, mọi tổ chức, mọi cá nhân tự giác thực hiện các quy định của pháp
luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đó là lý do tại sao, các quy định về
an toàn lao động, vệ sinh lao động thường mang tính xã hội rộng rãi và liên quan
đến nhiều đối tượng trong xã hội.
Bốn là, an toàn lao động, vệ sinh lao động đóng vai trong đặc biệt quan
trọng trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động.
17


Ngay từ thời sơ khai, con người đã biết cải tiến công cụ, điều kiện lao

động để tự bảo vệ mình. Do hoạt động sản xuất cũng là một trong những nguyên
nhân gây tác hại đến môi trường sống, cùng với sự phát triển của văn minh nhân
loại, những tiến bộ về trình độ khoa học – kỹ thuật, công nghệ sản xuất cũng
tăng lên góp phần đáng kể vào sự tiến bộ của xã hội nhưng mặt khác lại làm cho
môi trường sống, trong đó môi trường lao động ngày càng xấu đi do những tác
động ngày càng nhiều với các yếu tố nguy hiểm độc hại như phóng xạ, tia tử
ngoại….đòi hỏi công tác an toàn, vệ sinh lao động càng phải được quan tâm chú
trọng, phát triển tương xứng.
Lao động an toàn là yêu cầu tất yếu khách quan của quá trình sản xuất.
Khi tiến hành hoạt động sản xuất, người lao động vừa tác động tới môi trường
xung quanh vừa chịu các tác động ngược trở lại của môi trường nơi họ lao động.
Môi trường lao động ngày càng đa dạng, phức tạp, nguy hiểm đòi hỏi công tác
an toàn lao động, vệ sinh lao động phải được quan tâm, phát triển tương xứng.
Điều đó sẽ giảm thiểu các chi phí về y tế và bảo hiểm xã hội không cần thiết đối
với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; cũng như góp phần
bảo vệ môi trường sống của con người. Hiệu quả của việc thực hiện tốt công tác
này góp phần giảm tới mức thấp nhất sự tiêu hao lao động và những tổn thất về
vật chất, con người và môi trường.
An toàn lao động, vệ sinh lao động là chính sách kinh tế- xã hội lớn, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe
người lao động. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của các chủ doanh nghiệp thì vấn đề về
an toàn lao động càng trở lên bức xúc. Điều kiện lao động xấu không chỉ ảnh
hưởng đến người lao động trực tiếp mà còn có tác động xấu đến thế hệ tương lai.
Vì vậy, đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động là đảm bảo sức khỏe, tính mạng
người lao động, duy trì nền sản xuất ổn định và tạo tiền đề góp phần cho sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững.
1.2. Khái niệm, nguyên tắc và nội dung pháp luật về an toàn lao động, vệ
sinh lao động
1.2.1. Khái niệm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động

Căn cứ vào những nội dung phân tích tại phần 1.1, tác giả đưa ra khái
niệm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động như sau: An toàn lao động,
18


vệ sinh lao động có thể hiểu là tổng hợp các giải pháp về pháp luật, khoa học kĩ
thuật, kinh tế - xã hội nhằm ngăn ngừa các nguy cơ xảy ra sự cố làm chấn
thương và đe dọa tính mạng người lao động, hạn chế các yếu tố có hại cho sức
khỏe người lao động trong qúa trình sản xuất, nhờ đó đảm bảo cho người lao
động được làm việc trong điều kiện lao động không có những nguy cơ trực tiếp
gây tai nạn lao động hoặc không có những yếu tố có hại gây bệnh nghề nghiệp.
Các yêu cầu về An toàn lao động, vệ sinh lao động muốn được triển khai
có hiệu quả trong thực tiễn cần được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật.
Tổng hợp các quy phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao động có tính
chất bắt buộc chung đối với các đơn vị sử dụng lao động, quy định các điều kiện
an toàn, vệ sinh lao động trong môi trường làm việc, các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn, khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường làm
việc nhằm bảo vệ sức khỏe người lao động, hạn chế tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp…chính là pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động. Xuất phát từ tầm
quan trọng đặc biệt trong bảo vệ sức khỏe của người lao động nên việc thực hiện
các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động có tính bắt buộc cao đối với
các đơn vị sử dụng lao động, các chủ thể tham gia quan hệ lao động.
Khi nói đến an toàn lao động là phải gắn với vệ sinh lao động vì trong quá
trình lao động tạo ra sản phẩm hai phạm trù này luôn song hành cùng nhau. Sự
phát triển của an toàn lao động phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế,
khoa học công nghệ và yêu cầu phát triển xã hội của mỗi quốc gia. Vào những
thập niên giữa thế kỷ XX, khi yêu cầu tối thiểu cơ bản của người lao động trước
hết là không bị tai nạn, bệnh tật khi làm việc, thì mục tiêu chính của an toàn vệ
sinh lao động là phải áp dụng ngay các biện pháp, nhiều khi là bị động để ngăn
chặn tai nạn, bệnh tật chứ chưa thể nghĩ đầy đủ đến các giải pháp có hệ thống,

chủ động kiểm soát nguy cơ gây ra tai nạn, bệnh tật ngay từ đầu. Cùng với sự
phát triển của kinh tế, khoa học và công nghệ, công tác an toàn vệ sinh lao động
cũng dần chuyển từ đối phó, bị động sang thế chủ động trong việc quản lý và
kiểm soát các nguy cơ một cách có hệ thống, trong đó coi trọng việc nâng cao
văn hóa an toàn và ưu tiên biện pháp phòng ngừa.
Như vậy, có thể thấy pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động là
một chế định trong hệ thống pháp luật lao động. Chế định này có tầm quan trọng
19


đặc biệt trong việc bảo vệ người lao động và được coi là một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống pháp luật lao động ở mọi quốc gia.[4]
1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động là
những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm
về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao
động có các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước thống nhất quản lý về an toàn lao động,
vệ sinh lao động
Công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc bảo đảm an toàn tính mạng và sức khỏe người lao động. Nó là
yếu tố góp phần duy trì sự phát triển bền vững của nền sản xuất cũng như của xã
hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi sự quản lý thống nhất của
Nhà nước đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động quản lý về an toàn
lao động, vệ sinh lao động. Đây là một nguyên tắc mang tính Hiến định, được
quy định tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể tại Bộ luật Lao động
năm 2012: “Chính phủ quyết định Chương trình quốc gia về an toàn lao động,
vệ sinh lao động, đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước đầu tư
nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát triển các cơ sở sản xuất dụng cụ, thiết bị an
toàn lao động, vệ sinh lao động, phương tiện bảo vệ cá nhân, khuyến khích phát

triển các dịch vụ về an toàn lao động, vệ sinh lao động” [5]
Việc thể chế hóa bằng các văn bản dưới luật về pháp luật lao động nói
chung và về lĩnh vực An toàn vệ sinh lao động nói riêng đã được ban hành
tương đối đầy đủ và đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác quản
lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở các Bộ, Ngành, địa phương, các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp và đủ cơ sở pháp lý để
đưa các quy định về An toàn vệ sinh lao động trong Bộ luật Lao động vào cuộc
sống.
Các cơ quan quản lý nhà nước trước hết là Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bộ Y tế và các cơ quan Lao động, Y tế địa phương đã đóng vai trò quan
trọng trong việc thể chế hóa các văn bản dưới luật, tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn
4
5

Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
Điều 134,135 Bộ Luật Lao động năm 2012

20


thi hành. Phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên đoàn lao động
địa phương triển khai các văn bản pháp luật về Bảo hộ lao động, An toàn vệ sinh
lao động, tổ chức các lớp tập huấn cho hầu hết cán bộ chủ chốt của các Bộ,
Ngành, các tỉnh, thành phố, các quận, huyện, cán bộ quản lý các doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức và cán bộ làm công tác Bảo hộ lao động đã từng bước
được củng cố tại các cơ quan quản lý nhà nước. Tại các Bộ và Bộ quản lý
ngành, chức năng quản lý An toàn vệ sinh lao động được giao cho một đơn vị
trực thuộc, tùy theo đặc thù của ngành, lĩnh vực, như: Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội có Cục An toàn lao động là cơ quan tham mưu cho Bộ quản lý
nhà nước về An toàn lao động; Bộ Y tế, chức năng quản lý về sức khỏe nghề

nghiệp được giao cho Cục Quản lý môi trường y tế; Bộ Công Thương, có Cục
Kỹ thuật An toàn – Môi trường công nghiệp; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn là Cục chế biên nông lâm, thủy sản; Bộ Xây dựng là Vụ Quản lý hoạt động
xây dựng; ...
Từ năm 2003, Thanh tra An toàn lao động, Thanh tra vệ sinh lao động (và
Thanh tra chính sách lao động được sát nhập thành Thanh tra lao động thuộc
ngành Lao động – Thương binh và Xã hội. Ngày 10 háng 7 năm 2008, Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội đã phối hợp Bộ Nội vụ xây dựng và ban hành
Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT-BLĐTBXH-BNV, trong đó quy định việc
thành lập bộ phận quản lý nhà nước, chức năng và quyền hạn về An toàn lao
động tại các địa phương (tỉnh/huyện/xã).[6]
Sự quản lý của Nhà nước về An toàn lao động, vệ sinh lao động không chỉ
mang tính thống nhất mà con mang tính chất tập trung dân chủ. Đây là trách
nhiệm của các ngành chức năng và là nghĩa cụ của những chủ thể tham gia quan
hệ lao động. Quyền quản lý cao nhất thuộc về Chính phủ, bên cạnh đó có sự
phân công, phân cấp quản lý giứa các ban ngành chức năng nhằm tạo cơ chế cho
các cấp quản lý được phát huy tính chủ động trong việc thực hiện chức năng
quản lý của mình, mang lại hiệu quả cao nhất. Quản lý Nhà nước về An toàn lao
động, vệ sinh lao động là một tiền đề pháp lý nhằm thiết lập điều kiện vật chất
cho việc thực thi pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thực tế.

6

Thông tư liên tịch số 10/2008/TTLT-BLĐTBXH-BNV, ngày 10/7/2008

21


Với mục đích đảm bảo về tính mạng, sức khỏe người lao động nhằm xây
dựng một nền kinh tế- xã hội phát triển bền vững, Nhà nước ta đã và đang cố

gắng từng bước đảm bảo cho người lao động được làm việc trong môi trường
lao động an toàn và vệ sinh phù hợp với điều kiện hiện có của đất nước.
Nguyên tắc thứ hai: Thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động là
nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong quan hệ lao động.
An toàn, vệ sinh lao động là hoạt động mang tính xã hội. Thiếu sự tham
gia của cá nhân, đơn vị và tổ chức, công tác bảo hộ lao động không thể triển
khai trong thực tế. Đặc biệt, sự tham gia của các bên trong quan hệ lao động là
điều kiện tiên quyết bảo đảm hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hộ lao động. Vì
vậy, nguyên tắc đảm bảo nghĩa vụ bắt buộc của các bên trong việc thực hiện bảo
hộ lao động là điều kiện quan trọng để nâng cao tính khả thi của pháp luật.
Người sử dụng lao động là người đầu tư kinh phí và tổ chức các hoạt
động bảo hộ lao động tại cơ sở. Việc người sử dụng lao động phải chịu chi phí
cải tạo điều kiện lao động đã làm giảm sức cạnh tranh sản phẩm của họ trên thị
trường. Điều này gây lên xu hướng giảm đến mức thấp nhất các chi phí đầu vào
trong đó bao gồm cả chi phí dành cho công tác an toàn, vệ sinh lao động để hạ
giá thành sản phẩm. Xét về lợi ích trước mắt, hoạt động này ảnh hưởng đến lợi
nhuận. Nhưng về lâu dài, bảo hộ lao động mang đến những lợi ích quan trọng
như ổn định sản xuất, tăng năng suất lao động, công nhân yên tâm làm việc,
giảm chi phí khắc phục tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nhưng hiện nay,
không phải mọi chủ sử dụng lao động đều ý thức được vấn đề này nên Nhà nước
nhấn mạnh tính bắt buộc trong việc thực hiện các quy định về An toàn lao động,
vệ sinh lao động, coi đây là nghĩa vụ của người sử dụng lao động và là một
trong những điều kiện để họ được phép sử dụng lao động. Để các quy định của
pháp luật về An toàn lao động, vệ sinh lao động được thực hiện trên thực tế, các
chủ thể tham gia quan hệ lao động bắt buộc phải tuân thủ thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình theo quy định mà pháp luật đã ban hành. Điều đó được quy
định rất rõ tại Khoản 1, Điều 138 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về
Nghĩa vụ của người sử dụng lao động: “Người sử dụng lao động có nghĩa vụ bảo
đảm nơi làm việc đạt yêu cẩu về không gian, độ thoáng, hơi, khí độc; Bảo đảm
các điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với máy, thiết bị, nhà

xưởng; Kiểm tra đánh giá những yếu tố nguy hiểm, có hại tại nơi làm việc; Định
22


kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng’’. Khoản 2, Điều 7
Luật An toàn, vệ sinh lao động (Luật số 84/2015/QH13 của Quốc hội thông qua
ngày 25/6/2015, có hiệu lực từ 01/7/2016) quy định về nghĩa vụ của người sử
dụng lao động: Xây dựng, tổ chức thực hiện và chủ động phối hợp với các cơ
quan tổ chức trong việc bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc thuộc
phạm vi trách nhiệm của mình; Tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các quy định,
nội quy, quy trình, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động….[7]
Người lao động là một bên trong quan hệ lao động, là người hưởng lợi
trực tiếp từ việc thực hiện an toàn vệ sinh lao động. Nhưng do chưa nhận thức
được vấn đề này một cách cụ thể, nghiêm túc nên đôi khi người lao động không
tự giác tuân thủ các quy trình An toàn lao động, vệ sinh lao động. Họ có thể vì
những lợi ích trước mắt như lương cao, chế độ phụ cấp tốt…mà bỏ qua việc thỏa
thuận về điều kiện làm việc trước khi kí kết hợp đồng lao động. Việc thực hiện
các quy định về an toàn vệ sinh lao động phụ thuộc rất lớn vào ý thức của người
lao động. Vậy nên, người lao động cũng cần quan tâm, tìm hiểu các nội dung
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động. Khoản 2,
Điều 138 Bộ Luật lao động năm 2012 và Khoản 2, Điều 6 Luật An toàn, vệ sinh
lao động (Luật số 84/2015/QH13 của Quốc hội thông qua ngày 25/6/2015, có
hiệu lực từ 01/7/2016) quy định về nghĩa vụ của người lao động.
Các quy định về An toàn lao động, vệ sinh lao động không chỉ có ý nghĩa
bắt buộc đối với người sử dụng lao động và người lao động mà còn đặt ra đối
với mọi tổ chức, cá nhân liên quan như các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã
hội…Qua đó cho thấy, các quy định về An toàn lao động, vệ sinh lao động có ý
nghĩa bắt buộc đối với tất cả các bên khi tham gia quan hệ lao động. Nguyên tắc
này được quán triệt xuyên suốt trong quá trình xác lập quan hệ lao động cũng
như quá trình thực hiện quy trình lao động, sản xuất. Thực hiện tốt nguyên tắc

này trên thực tế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và hạn chế
đến mức thấp nhất các tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra.
Nguyên tắc thứ ba: Đảm bảo sự tham gia của tổ chức Công đoàn trong
lĩnh vực an toàn lao động, vệ sinh lao động

7

Khoản 1, Điều 138, Bộ Luật Lao động 2012; Khoản 2, Điều 7 Luật An toàn , vệ sinh lao động 2015

23


Công đoàn là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động. Với quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế hoạt động, Công đoàn là tổ
chức với chức năng đại diện cho người lao động tham gia với cơ quan Nhà nước
xây dựng pháp luật về bảo hộ lao động, tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao
động, phối hợp với Nhà nước đề xuất chương trình nghiên cứu khoa học về bảo
hộ lao động; giáo dục, tuyên truyền vận động người lao động chấp hành quy
định về an toàn lao động, vệ sinh lao động; tham gia xét khen thưởng và xử lý
việc vi phạm pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.[8]
Bộ Luật Lao động năm 2012 đã tách hẳn một chương – Chương XIII từ
Điều 188 đến Điều 193 để quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Công
đoàn. Tại Luật Công đoàn năm 2012 cũng quy định rất rõ trách nhiệm của người
lao động phải tạo điều kiện cho tổ chức Công đoàn được thành lập và đi vào
hoạt động. Điều đó cho thấy vai trò vị trí của Công đoàn trong quan hệ lao động
là vô cùng quan trọng trong việc tham gia, phối hợp kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Công đoàn có quyền yêu cầu
người có trách nhiệm tạm ngưng hoạt động ở những nơi có nguy cơ gây tai nạn
lao động, tham gia điều tra tai nạn lao động và có quyền yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xử lý người có trách nhiệm để xảy ra tai nạn lao động. Bên

cạnh đó, căn cứ tiêu chuẩn của Nhà nước về An toàn lao động, vệ sinh lao động.
Công đoàn thỏa thuận với người sử dụng lao động các biện pháp đảm bảo an
toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động, vận động xây
dựng phong trào đảm bảo an toàn lao động và tổ chức mạng lưới an toàn viên,
vệ sinh viên. Cùng với đó, Công đoàn còn tham gia các hoạt động lớn của quốc
gia, hàng năm phối hợp tổ chức “Tuần lễ Quốc gia An toàn vệ sinh lao độngPhòng chống cháy nổ”.[9]
Như vậy, tổ chức Công đoàn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động bảo
đảm thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động cũng như trong
việc tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người lao động trong việc
yêu cầu và thực hiện pháp luật về An toàn lao động, vệ sinh lao động,trong việc
yêu cầu người sử dụng lao động xây dựng và bảo đảm điều kiện được an toàn,
vệ sinh lao động.
8
9

Luật Công đoàn 12/2012/QH13
Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, định kỳ tháng 3 hàng năm, Ban chỉ đạo Tuần lễ quốc gia ATVSLĐ_PCCN

24


Nguyên tắc thứ tư: Tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn, vệ sinh
lao động trong các Công ước có liên quan đến an toàn, vệ sinh lao động mà Việt
Nam đã phê chuẩn.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia và phê chuẩn rất
nhiều Công ước quốc tế và khu vực, trong đó có nhiều Công ước liên quan đến
việc đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao động. Khi xây dựng khung pháp
lý và chính sách về an toàn lao động, vệ sinh lao động Việt Nam tôn trọng và thể
hiện trong pháp luật của mình đối với các Công ước mà Việt Nam đã phê
chuẩn.[10]

Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước 155 năm 1981
về an toàn lao động, vệ sinh lao động và môi trường lao động. Với một số ngành
nghề kỹ thuật đặc thù, tiềm ẩn nguy cơ cao về tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, ILO đã thông qua một số Công ước – khuyến nghị về an toàn, vệ sinh
lao động như : Công ước 62 năm 1930 về Các quy định an toàn xây dựng; Công
ước 152 năm 1979 về An toàn vệ sinh lao động đối với bốc xếp tại các cảng
biển;..v...v. Đặc biệt, nhằm bảo vệ đặc biệt cho hai nhóm lao động dễ bị tổn
thương, ILO chú trọng đến nhóm người lao động là phụ nữ và trẻ em.[11]
Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn 21 Công ước của tổ chức lao động
quốc tế ILO, chủ yếu tập trung ở nhóm lao động là phụ nữ và trẻ em, các ngành
nghề có kỹ thuật đặc thù, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tai nạn và bệnh nghề
nghiệp.Đặc biệt, hiện nay Việt Nam mới tham gia Công ước số 187 năm 2009
về Khung chính sách thúc đẩy an toàn vệ sinh lao động.[12]Việc gia nhập Công
ước này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Việt Nam, nhằm thúc đẩy những
nỗ lực dần dần của quốc gia trong việc cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thông qua hệ thống chính sách và các
chương trình quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
1.2.3. Nội dung pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Những quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động có vai trò rất quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, bới nó ảnh hưởng trực
10

Tổ chức Lao động quốc tế, />Theo Viện khoa học An toàn và vệ sinh lao động, />
11
12

Quyết định số 232/2014/QĐ-CTN ngày 23/1/2014 phê chuẩn để Việt Nam gia nhập Công ước 187,
/>
25



×