Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Luận văn: Sử dụng sơ đồ tư duy trong hình thức xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.59 KB, 116 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
--------

NGUYỄN HỮU KIỀU

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG XÊMINA CÁC MÔN
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC
MÃ SỐ: 60 14 01 01

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN: TS PHAN VĂN TỴ

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNGSƠ ĐỒ TƯ DUY
TRONG XÊMINA CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ
HỘIVÀ NHÂN VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2. Nội dung sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị
1.3. Các yếu tố tác động đến sử dụng sơ đồ tư duy trong
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học
viện Chính trị
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ
DUYTRONG XÊMINA CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂNỞ HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


2.1. Khái quát chung về đặc điểm giáo dục và đào tạo ở
Học viện Chính trị
2.2. Thực trạng hình thức xêmina và sử dụng sơ đồ tư duy
trong xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở
Học viện Chính trị
Chương 3. YÊU CẦU VÀ QUY TRÌNH SỬ DỤNG SƠ ĐỒ
TƯ DUY TRONG XÊMINA CÁC MÔN KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂNỞ HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ
3.1. Yêu cầu sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị
3.2. Quy trình sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị
3.3. Thử nghiệmsư phạm sử dụng sơ đồ tư duy trong
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học
viện Chính trị
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

14
14
31

35

41

41

43

60
60
63

73
86
88
93


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dưới sự tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ, xu thế toàn cầu
hoá và kinh tế tri thức dẫn đến những thay đổi to lớn về mặt xã hội đang đặt
ra cho giáo dục và đào tạo những yêu cầu mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII đã xác định: “Phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc
đại học” [24, tr.296]. Như vậy, trong quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo,
chúng ta cần phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, tiếp cận với những mô hình và
cách làm mới; những tri thức và kinh nghiệm về giáo dục của bạn bè quốc tế
để sử dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta. Trong đó, việc nghiên cứu, ứng
dụng các lý thuyết hiện đại là một trong những giải pháp quan trọng góp phần
thực hiện thành công đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục ở nước ta hiện
nay. Để thực hiện được mục tiêu trên giáo dục đào tạo phải có sự đổi mới một
cách toàn diện, cả về mục tiêu, nội dung phương pháp, hình thức và công tác
quản lý. Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp,
kỹ thuật dạy học hiện đại được coi là một nội dung quan trọng của việc đổi

mới giáo dục ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Lý luận dạy học đã chỉ ra bản chất quá trình dạy học là quá trình nhận
thức có tính chất nghiên cứu của học viên dưới sự tổ chức, điều khiển của người
dạy. Chính vì vậy nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phải phù
hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhận thức của người học, khắc phục
hiện tượng truyền thụ tri thức một chiều, theo kiểu thầy giảng - trò ghi nhớ.
xêmina là một hình thức tổ chức dạy học góp phần thực hiện tốt yêu cầu trên.
Là một hình thức tổ chức dạy học được tiến hành sau bài giảng, xêmina
là một hình thức giúp học viên cùng nhau làm sáng tỏ một chủ đề học tập
dưới sự điều khiển của giảng viên. Đây là một hình thức tổ chức dạy học giúp
cho người dạy nắm được năng lực học tập của người học, tạo điều kiện để
người dạy đổi mới, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, đồng thời

3


góp phần nâng cao trách nhiệm của người dạy trong quá trình dạy học; giúp
cho học viên nắm được kiến thức môn học, phát triển tư duy sáng tạo, khả
năng nghiên cứu khoa học, các phẩm chất nhân cách cần thiết, đồng thời giúp
cho học viên kiểm tra được trình độ, khả năng của bản thân.
Sơ đồ tư duy là phương pháp dễ nhất để truyền tải thông tin vào bộ não
của con người rồi đưa thông tin ra ngoài; một phương tiện ghi chép đầy sáng
tạo, rất hiệu quả. sơ đồ tư duy có vai trò hết sức to lớn tập trung nhất ở hiệu
quả hoạt động học tập của học viên và hiệu quả giảng dạy của giảng viên
cũng như hoạt động giáo dục của nhà trường.
Học viện Chính trị - nơi đào tạo đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy cấp
trung, sư đoàn và giảng viên khoa học và xã hội nhân văn cho toàn quân.
Trong quá trình đào tạo, Học viện luôn quan tâm đến giảng dạy các môn khoa học
xã hội và nhân văn, giảm tỷ lệ lên lớp lý thuyết, tăng cường các hình thức sau bài
giảng như: Xêmina, tự học, làm bài tập, thu hoạch, thực hành, thực tập... Trong

các hình thức sau bài giảng đó, hình thức xêmina các môn khoa học xã hội nhân
văn ở Học viện Chính trị được thực hiện tương đối tốt, thông qua các buổi xêmina
ngoài việc củng cố, đào sâu, mở rộng kiến thức, đã góp phần giúp học viên phát
triển mạnh mẽ tư duy lý luận, tư duy lôgíc, óc phê phán, kỹ năng giao tiếp, năng
lực tổ chức hoạt động, thói quen làm việc và tranh luận khoa học… Tuy nhiên,
bên cạnh đó vẫn còn nhiều chủ đề xêmina kết quả chưa cao, nặng về củng cố kiến
thức cho học viên, chưa phát huy được vai trò, tác dụng của hình thức
xêmina.Trong xêmina còn sử dụng cách thức cũ, chuẩn bị nội dung sau đó
đọc, chưa vận dụng những cách thức giúp học viên phát triển tư duy.Giảng
viên và học viên nắm về lý thuyết và kỹ năng sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy
và học còn hạn chế.Vì vậy, cần khái quát và đưa ra quy trình sử dụng sơ đồ tư
duy để giúp giảng viên và học viên nâng cao chất lượng xêmina các môn khoa
học xã hội và nhân văn ở Học viện.
Những nghiên cứu về đặc điểm của sơ đồ tư duy, cũng như các đặc
điểm của hình thức xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện

4


Chính trị cho thấy: sơ đồ tư duy hoàn toàn có thể được sử dụng một cách có
hiệu quả trong xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện
Chính trị. Như vậy, việc nghiên cứu sử dụng sơ đồ tư duy trong hình thức
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị là hết sức
cần thiết và hoàn toàn có thể thực hiện được. Tuy nhiên, cho đến hiện nay
chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề này.
Xuất phát từ những lý do trên đây tôi chọn đề tài: “Sử dụng sơ đồ tư
duy trong xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính
trị” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Những công trình nghiên cứu về sơ đồ tư duy

Những công trình nghiên cứu về sơ đồ tư duy ở nước ngoài
Trong lịch sử phát triển, người được xem sáng lập ra sơ đồ tư duy là
Tony Buzan (người Anh). Tony Buzan là một trong những số ít người dành
nhiều thời gian nghiên cứu, tìm ra quy luật hoạt động của bộ não và làm việc
theo quy luật đó để đạt những thành công trong công việc. Tony Buzan là tác
giả nhiều cuốn sách nổi tiếng trên thế giới viết về sơ đồ tư duy như “How to
Minmap”, “Mindmap for kids” và “Head Strong”. Là giảng viên hàng đầu
trên thế giới về sơ đồ tư duy, ông đã đi thuyết giảng khắp nơi trên thế giới và
các xêmina này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, sử dụng rộng rãi trong giáo
dục và áp dụng rộng rãi vào thực tiễn công việc [8,9,10,1112,13,14,15].
Tác giả Joyce Wycoff với cuốn sách “Mindmapping” (Ứng dụng của
bản đồ tư duy) đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể trong hành trình khám phá
khả năng của bộ não, khám phá bản thân, đồng thời cung cấp những gợi mở
thiết thực, có thể áp dụng tức thì, giúp ghi nhớ, quản lí, thuyết trình, lập kế
hoạch… trong công việc cũng như trong cuộc sống bằng cách lập bản đồ tư
duy – một hệ thống có sức mạnh vô cùng hiệu quả nhằm khai thác tối đa khả
năng của bộ não [55].

5


Tác giả Adam Khoo trong cuốn sách “I am gifted, so are you” (Tôi tài
giỏi, bạn cũng thế), đã chỉ ra Minmapping – công cụ ghi nhớ hiệu quả chính
là những phương pháp học tập siêu đẳng, đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh
về Mind Map [31].
Các công trình trên đều cho thấy ảnh hưởng tích cực của việc sử dụng
bản đồ tư duy vào dạy học với nhiều đối tượng khác nhau. Sơ đồ tư duy đã
được ứng dụng vào giảng dạy và học tập mang lại chất lượng và hiệu quả dạy
học rất cao.
Những công trình nghiên cứu về sơ đồ tư duy ở Việt Nam

Tại Việt Nam, sơ đồ tư duy đã được nhiều người Việt Nam biết đến từ năm
2007 khi Giảng sư Tony Buzan đến Việt Nam và giảng dạy cho các doanh nhân về
phương pháp này trong khơi dậy khả năng sáng tạo, tạo lợi thế cạnh tranh. Cuốn
sách “Mindmap at work” (tiếng Việt là “sơ đồ tư duy trong công việc”) có những
chỉ dẫn cụ thể về cách thức sử dụng sơ đồ tư duy . Hoạt động nghiên cứu, ứng
dụng và phổ biến sơ đồ tư duy đã được thực hiện ở Việt Nam với dự án “Ứng
dụng công cụ hỗ trợ tư duy - Bản đồ tư duy” cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà
Nội do nhóm Tư duy mới thực hiện. Dự án đã nhận được sự ủng hộ sâu rộng từ
lãnh đạo Đại học Quốc gia Hà Nội, lãnh đạo Viện Nghiên cứu Con người, các
thầy cô giảng và đông đảo học sinh, sinh viên. Những đề tài nghiên cứu khoa học
về ứng dụng sơ đồ tư duy trong làm việc theo nhóm, trong học tậpđã đạt giải cao
tại các trường thành viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, sơ đồ tư duy
được ứng dụng hiệu quả trong việc nâng cao khả năng khởi tạo ý tưởng và
“Teamwork” (làm việc theo nhóm) của sinh viên.
Trong những năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung làm rõ lý
luận và ứng dụng nhân rộng dần phương pháp này với hy vọng sẽ giúp học
sinh thoát khỏi lối học vẹt, đóng góp phần mình vào công việc chung của
ngành giáo dục. Tác giả Trần Đình Châuvà Đặng Thu Thuỷ với cuốn sách
“Dạy tốt- học tốt các môn học bằng sơ đồ tư duy ” đã nghiên cứu khá kỹ về sơ

6


đồ tư duy trong dạy học cho học sinh từ lớp 4 đến lớp 12. Đây là những công
trình thu hút sự quan tâm của các cấp quản lý giáo dục và đội ngũ thầy cô
giảng, phụ huynh và các em học sinh phổ thông [18].
Nhóm tác giả Nông Khánh Bằng, Phạm Anh Tuấn, Trần Nữ Mai Thy với
công trình “Tìm hiểu biểu hiệu quả học tập của việc sử dụng Mind Map điện tử
đối với thành tích học tập và thái độ đối với học tập Tâm lý học” đã chỉ rõ bản đồi
tư duy không chỉ tác dụng cho trí nhớ mà còn thúc đẩy việc học mang tính phản

biện, tăng ý nghĩa của nội dung học tập, thúc đẩy động cơ bên trong, tăng tính tích
cực học tập của sinh viên [5].
Tác giả Lê Công Chiêm và Lương Thị Lệ Hằng với bài báo “Hệ thống
hoá bài học Vật lý với sơ đồ tư duy ” đã kết luận Mind Map là công cụ để phát
triển tư duy được nhiều người sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau cần
quan tâm áp dụng vào dạy và học [19].
Tác giả Phạm Thị Thuý Hằng với công trình “Sử dụng bản đồ tư duy
(Mind Map) trong dạy học môn học Giáo dục học ở trường đại học Sư phạm
Huế - Đại học Huế” đã đưa ra những lý luận cơ bản của phương pháp dạy của
giáo viên có sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn học [25].
Nhìn chung, các tác giả đã ứng dụng các nghiên cứu về bản đồ tư duy
của nước ngoài vào quá trình nghiên cứu dạy và học ở Việt Nam. Tuy nhiên,
các tác giả đã tập trung chủ yếu nghiên cứu sơ đồ, bản đồ tư duy trong dạy
học các môn khoa học tự nhiên ở bậc học phổ thông, ít nghiên cứu các môn
khoa học xã hội ở bậc đại học.
* Những công trình nghiên cứu về hình thức xêmina
Tác giả B.P. Êxipốp với công trình “Những cơ sở của lý luận dạy học”
đã quan niệm xêmina là một hình thức dạy học lý thuyết trong đó học sinh
báo cáo kết quả nghiên cứu của mình, trả lời các câu hỏi, thảo luận các báo
cáo dưới sự chỉ dẫn, điều khiển của giáo viên.

7


Tác giả A.G. Calasnhikốp với cuốn sách “Dạy học nêu vấn đề trong xêmina”
đã quan niệm muốn nâng cao chất lượng xêmina cần phải tích cực hoá xêmina bằng
cách vận dụng dạy học nêu vấn đề.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu về
hình thức tổ chức xêmina. Tiêu biểu là những công trình nghiên cứu của các
tác giả sau đây:

Tác giả Lê Khánh Bằng với công trình “Tổ chức quá trình dạy học
đại học” đã nghiên cứu những thành tựu lý luận và thực tiễn thuộc lĩnh vực
dạy học đại học trong nước cũng như trên thế giới. Tác giả đã làm rõ một
số vấn đề cơ bản của xêmina như: xêmina là gì? vị trí và tác dụng của nó
như thế nào trong quá trình dạy học, yêu cầu của xêmina ở đại học ra sao,
chuẩn bị và tiến hành xêmina.
Tác giả Phan Trọng Ngọ trong cuốn “Dạy học và phương pháp dạy
học trong nhà trường” đi sâu vào nghiên cứu các kĩ thuật dạy học nhằm nâng
cao chất lượng xêmina. Tác giả quan niệm trong xêmina hội tụ tổng hợp nhiều
kỹ thuật dạy học, như: “Các phương pháp dùng lời (người học phải học cách
thuyết trình vấn đề được chuẩn bị), các kĩ thuật trao đổi, vấn đáp (người học
phải trả lời các câu hỏi, chất vấn của lớp); các kỹ thuật làm việc trực tiếp với
đối tượng (tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, ghi chép, thực hành, thực nghiệm v.v);
các kỹ thuật thảo luận (thảo luận trong nhóm, chuẩn bị bài thuyết trình, thảo
luận trong hội trường) …”[25, tr.234-235].
Công trình nghiên cứu “Lý luận dạy học đại học quân sự” của tác giả
Đặng Đức Thắng đã làm rõ những vấn đề cơ bản của xêmina ở đại học quân sự,
đồng thời chỉ ra những yêu cầu có tính chất bắt buộc đối với giảng viên và học
viên khi chuẩn bị và tiến hành xêmina ở đại học quân sự. Giáo trình đã trở thành
“cẩm nang” không thể thiếu được cho giảng viên và học viên khi tổ chức xêmina
trong các trường đại học quân sự.

8


Tác giả Lê Minh Vụ trong cuốn sách “Tổ chức quá trình dạy học các
môn khoa học xã hội và nhân văn ở đại học quân sự” đã thể hiện sự nghiên
cứu lý luận và thực tiễn về hình thức tổ chức xêmina trong dạy học các môn
khoa học xã hội nhân văn.
Tác giả Ngô Minh Tuấn với nghiên cứu “Nâng cao tính tích cực nhận

thức của học viên trong xêmina” đã luận giải một số vấn đề lý luận về tính
tích cực nhận thức, khái quát những đặc trưng tâm lý cơ bản của xêmina, đề
tài xác định những yêu cầu đối với giảng viên và học viên để nâng cao tính
tích cực nhận thức của học viên trong xêmina.
Tác giả Hà Minh Phương nghiên cứu “Nâng cao chất lượng hình thức
tổ chức xêmina trong dạy học các môn khoa học xã hội - nhân văn ở Học viện
Chính trị quân sự” đã đưa ra quan niệm và các đặc điểm của xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn; đồng thời, tác giả đã đề xuất các biện pháp nâng
cao chất lượng hình thức tổ chức xêmina trong dạy học các môn khoa học xã
hội và nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự.
* Những công trình nghiên cứu ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học
trong nhà trường quân sự
Nhận thức rõ được vai trò, ý nghĩa cực kỳ quan trọng các hình thức
dạy học nói chung và hình thức xêmina trong các nhà trường quân sự nói
chung và Học viện Chính trị nói riêng. Bằng nhiều các hoạt động khác
nhau như tổ chức rút kinh nghiệm các bước tiến hành một buổi xêmina, tọa
đàm, nói chuyện, trao đổi các kinh nghiệm, phương pháp dạy học tiên tiến.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đi vào làm rõ các hình thức sau bài giảng
Có nhiều bài báo khoa học bàn về sơ đồ tư duy được đăng tải trên các tạp
chí khoa học.
Tác giả Bùi Tuấn Anh đã tập trung nghiên cứu “Bản đồ tư duy - nguyên
lý và ứng dụng trong dạy học” đã khái quát những vấn đề cơ bản về bản đồ tư
duy trong dạy học. Tác giả cho rằng, người học biết cách sử dụng sơ đồ tư
duy là đã phát triển các kỹ năng và phương pháp học tập tích cực [1].
Tác giả Lưu Hoàng Tùng với công trình “Xây dựng và sử dụng bản đồ tư duy
trong dạy học môn Giáo dục học ở nhà trường trong quân đội” đã khái quát những

9



vấn đề cơ bản về lý thuyết xây dựng bản đồ tư duy trong dạy học môn Giáo dục học
ở các học viện, trường sĩ quan trong quân đội [50].
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu,chúng tôi nhận thấy:
Thứ nhất, nghiên cứu về sơ đồ tư duy trong dạy học. Các tác giả nước
ngoài, trong nước và quân đội chủ yếu nghiên cứu sơ dồ tư duy trong học tập
các môn khoa học tự nhiên, ít có nghiên cứu về dạy học các môn khoa học xã
hội và nhân văn. Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu cơ bản về sử dụng sơ
đồ tư duy trong dạy học môn khoa học xã hội và nhân văn.
Thứ hai, các tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về
xêmina, quy trình và cách thức chuẩn bị và tiến hành xêmina. Những nghiên
cứu này đưa ra những vấn đề xêmina theo cách thức truyền thống, chưa vận
dụng những cách thức của dạy học hiện đại hiện nay.
Thứ ba, các nghiên cứu của các tác giả trong quân đội về sử dụng sơ đồ
tư duy chủ yếu mới dừng lại ở các hình thức: Bài giảng, tự học, tự nghiên
cứu... Chưa có tác giả nào bàn đến việc sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina
các môn khoa học xã hội và nhân văn.
Những vấn đề luận văn cần tiếp tục giải quyết:
Một là, nghiên cứu cơ bản về sơ đồ tư duy và xêmina các môn khoa
học xã hội và nhân văn.
Hai là, đưa ra những vấn đề chung về sử dụng sơ đồ tư duytrong
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị.
Ba là, trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn, xây dựng quy trình
sử dụng sơ đồ tư duytrong xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở
Học viện Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Khái quát hoá, hệ thống hoá lý luận và thực trạng về sơ đồ tư duy và
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn, trên cơ sở đó đề xuất các yêu
cầu, quy trình sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn khoa học xã hội


10


và nhân văn, nhằm góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị hiện
nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những cơ sở lý luận về sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các
môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị.
- Đánh giá thực trạng xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn
cũng như sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn khoa học xã hội và
nhân văn ở Học viện Chính trị.
- Đề xuất các yêu cầu, xây dựng quy trình sử dụng sơ đồ tư duy trong
hình thức xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị
và thử nghiệm một bước trong quy trình đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Hình thức xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện
Chính trị.
* Đối tượng nghiên cứu
Sử dụng sơ đồ tư duy trong hình thức xêmina các môn khoa học xã hội
và nhân văn ở Học viện Chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn của học viên đào tạo chính ủy, cán bộ chính trị
và giảng viên ở Học viện Chính trị; không nghiên cứu với đối tượng học viên
cao học và nghiên cứu sinh.
Phạm vi điều tra khảo sát: Khảo sát hoạt động dạy học các môn khoa
học xã hội và nhân văn ở Học viện.
Các số liệu được sử dụng từ năm 2010 đến nay.

5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng, hiệu quả hình thức xêmina các môn khoa học xã hội và nhân
văn ở Học viện Chính trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó việc sử dụng

11


phương pháp điều khiển của giảng viên và phương pháp trình bày của học viên
phù hợp đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu trong hình thức xêmina các môn
khoa học xã hội và nhân văn, giảng viên và học viên biết cách sử dụng sơ đồ tư
duy với màu sắc, hình ảnh và sự liên kết trong thực hiện quy trình chuẩn bị và
tiến hành xêmina thì chất lượng, hiệu quả hình thức xêmina các môn khoa học
xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị sẽ được nâng cao.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Đồng
thời, trong nghiên cứu, tác giả tiếp cận vấn đề theo các quan điểm: hệ thống –
cấu trúc; lịch sử – lô gíc; quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết như: phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá về hệ thống hoá các tài liệu lý luận thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài cụ thể là:
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các tài liệu về lý luận sơ đồ tư duy
và hình thức xêmina của các tác giả trong và ngoài nước.
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các chỉ thị, nghị quyết về đổi mới
giáo dục và đào tạo của Đảng và của quân đội.
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát và hệ thống hoá các văn
bản tổng kết về giáo dục và đào tạo của Đảng uỷ quân sự Trung ương; của

Học viện Chính trị.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: Quan sát, trao đổi,
phương pháp điều tra trưng cầu ý kiến và thử nghiệm sư phạm.

12


Trao đổi với giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, học viên về sơ đồ tư
duy và việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, quy trình chuẩn bị và tiến
hành xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn.
Điều tra bằng phiếu hỏi cho các đối tượng giảng viên, học viên đang
đào tạo tại Hệ 1, Hệ 2 và Hệ 5 thuộc Học viện Chính trị.
Quan sát một buổi xêmina của học viên năm thứ 2 theo lịch huấn luyện
của Học viện.
Thử nghiệm sư phạm một buổi xêmina môn Giáo dục học.
Các phương pháp hỗ trợ:
Phương pháp xin ý kiến chuyên gia.
Tiến hành xin ý kiến đóng góp của một số nhà khoa học giáo dục, các
nhà quản lý giáo dục, các nhà sư phạm có kinh nghiệm về hình thức xêmina
và sơ đồ tư duy ở trong và ngoài quân đội.
Phương pháp toán học: Sử dụng thống kê toán học để tính toán số liệu.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần hệ thống hoá và khái quát hoá lý luận về sơ đồ tư duy,
lý luận về xêmina và sử dụng sơ đồ tư duy trong xêmina các môn khoa học xã
hội và nhân văn..
- Đề xuất các yêu cầu, xây dựng quy trình sử dụng sơ đồ tư duy trong
xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn ở Học viện Chính trị.
- Đề tài là một trong những công trình góp phần thực hiện đề án đổi
mới phương pháp dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn, là thực tiễn

thực hiện chủ trương gắn đổi mới nội dung và đổi mới phương pháp theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện lần thứ XV.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng viên và học viên ở Học
viện Chính trị.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm: phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

13


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG
SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG XÊMINA CÁC MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm sơ đồ tư duy
Theo từ điển tiếng Việt (2005), sơ đồ có nghĩa là bản vẽ đơn giản chỉ ghi
những nét chính [24, tr.430]; tư duy là “Từ triết học dùng để chỉ những hoạt
động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo, làm cho
người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật” [24, tr.567]. Tư duy bao giờ cũng là
sự giải quyết vấn đề thông qua những tri thức đã nắm được từ trước.
Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều các khái niệm khác nhau về sơ đồ tư
duy nhưng đều thống nhất ở các điểm sau:
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, thể hiện tư duy tự nhiên
của bộ não cũng như hình thức nhận thức. Sơ đồ tư duy là một sơ đồ dùng để
thể hiện những từ ngữ, ý tưởng, nhiệm vụ và những thành phần khác có liên
quan, được sắp xếp xung quanh một ý tưởng, hay một từ trung tâm nào đó. Sơ
đồ tư duy luôn sử dụng đồng thời phong phú các hình ảnh, đường nét, màu
sắc, chữ viết… để thể hiện nội dung. Phương pháp này dùng để xây dựng,

hình ảnh hóa, cấu trúc và phân loại các ý tưởng, và là phương pháp hữu hiệu
để học tập, quản lý thông tin, giải quyết vấn đề, đưa ra kết luận, kể cả việc
viết lách, sáng tác. Mỗi yếu tố trong một sơ đồ tư duy được sắp xếp một cách
trực quan tùy thuộc vào tầm quan trọng của mỗi ư tưởng, nó có thể được chia
thành các nhóm, các nhánh, các khu vực, với mục đích trình bày rõ ràng về
ngữ nghĩa và các phần thông tin khác nhau.

14


Có thể khái quát khái niệm về sơ đồ tư duy như sau:
Sơ đồ tư duy (còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy,…) là hình thức
ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ
đề hay một nội dung kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời
hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực nhằm đạt mục
tiêu đề ra.

Hình 1.1. Minh họa cho khái niệm sơ đồ tư duy
Thực chất sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là phương pháp
dễ nhất để truyền tải thông tin vào bộ não của con người rồi đưa thông tin ra
ngoài; một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo, rất hiệu quả theo đúng nghĩa
“sắp xếp” ý nghĩ của con người một cách đúng đắn và đầy đủ nhất.

15


Hình 1.2. Minh họa cho cách thức nhận thức và trình bày vấn đề
Về bản chất, sơ đồ tư duy là phương pháp nhận thức và trình bày vấn
đề trên một bình diện phẳng dựa vào các mối liên hệ (đường dẫn) có tính
lôgíc giữa các yếu tố cấu thành, thay cho hình thức cũ chủ yếu theo trình tự

thời gian. Nhờ đó, giúp chúng ta giải quyết mọi vấn đề trong công việc một
cách đồng bộ, toàn diện và hiệu quả hơn rất nhiều so với phương pháp
thông thường.
Về nguyên lý hoạt động, sơ đồ tư duy dựa theo nguyên tắc liên tưởng “ý
này gọi ý kia” của bộ não. Trong sơ đồ tư duy, việc sử dụng các từ khoá, chữ số,
màu sắc và hình ảnh, với mạng lưới liên tưởng (các nhánh)… đã huy động cả bán
cầu não trái và phải cùng hoạt động. Sự kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên
kết giữa hai bán cầu não và kết quả là tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ
nhân bộ não.

Hình 1.3. Minh họa cho các liên tưởng của não bộ

16


* Cấu trúc của sơ đồ tư duy
Cấu trúc của sơ đồ tư duy gồm có hình ảnh; màu sắc; sự liên kết, tưởng
tượng; nhịp điệu, kích cỡ và từ then chốt, ký tự, ký hiệu(Sơ đồ 6). Trong đó, ở
vị trí trung tâm của sơ đồ tư duy là một hình ảnh hay từ khoá thể hiện một ý tưởng
hay khái niệm chủ đạo. Ý tưởng trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ
khoá cấp I bằng các nhánh chính, từ các nhánh chính này lại có sự phân nhánh đến
các từ khoá cấp II để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh tiếp tục làm cho
các khái niệm hay hình ảnh luôn được kết nối với nhau. Chính sự liên kết này tạo
nên một “bức tranh tổng thể” mô tả mối quan hệ các ý thứ cấp với ý trung tâm một
cách đầy đủ, rõ ràng và trọn vẹn nhất.

.
Sơ đồ 1.4. Minh họa cho cấu trúc của sơ đồ tư duy
Hình ảnh: Hình ảnh của sơ đồ tư duy là bộ phận quan trọng, giữ vị trí
hàng đầu trong sơ đồ tư duy. Hình ảnh luôn được sử dụng hình ảnh ở trung

tâm và ở nơi cần thiết của sơ đồ tư duy. Hình ảnh sẽ tạo nên thu hút sự tập
trung của mắt và não, kích hoạt vô số liên kết đồng thời giúp ghi nhớ hiệu
quả. Hình ảnh hấp dẫn làm học viên cảm thấy thích thú và tập trung chú ý.
Yêu cầu về hình ảnh phải rõ ràng, hình thức mạch lạc giúp cho tư duy
sáng tỏ. Một sơ đồ tư duy rõ ràng trông đẹp mắt, thu hút và tạo cảm giác dễ
chịu khi sử dụng. Một hình ảnh có giá trị ghi nhớ bằng nghìn từ. Dùng nhiều
kích cỡ cho hình ảnh và xung quanh từ sẽ giúp thông tin trở nên nổi bật và
làm học viên dễ nhớ.

17


Màu sắc: Màu sắc là một trong những công cụ hiệu quả nhằm tăng cường
trí nhớ và phát huy sức sáng tạo hiệu quả nhất của người học trong sử dụng sơ
đồ tư duy. Chọn các màu sắc khác nhau làm ký hiệu riêng sẽ giúp học viên tăng
tốc độ sử lý thông tin trong sơ đồ tư duy và dễ nhớ chúng hơn. Sử dụng màu sắc
làm ký hiệu đặc biệt hữu ích khi xêmina có sử dụng sơ đồ tư duy.
Sự liên kết, tưởng tượng: Sự liên kết, tưởng tượng là một nội dung
quan trọng trong sơ đồ tư duy, tạo cho người học gắn kết các thông tin lĩnh
hội và tiếp thu được. Yêu cầu khi liên kết cần phải đạt:
Sử dụng mũi tên khi học viên muốn tạo mối liên hệ cùng hoặc khác
nhánh. Nhờ mũi tên chỉ dẫn học viên có thể quan sát và kết hợp thông tin với
nhau. Mũi tên còn biểu thị sự chuyển động, vật trợ giúp quý giá để nhớ và
nhớ lại hiệu quả. Mũi tên có thể chạy theo một hay nhiều hướng khác nhau và
mang đủ hình dạng lẫn kích cỡ.
Mỗi đường liên kết chỉ dùng một từ then chốt. Ở mỗi từ riêng biệt sẽ gợi
lên vô số những hàm ý và liên tưởng mang tính sáng tạo của tư duy người học,
học viên sẽ thỏa sức liên tưởng bằng cách viết một từ trên mỗi đường liên kết.
Ngoài ra, mỗi từ đều liên hệ với từ chính hoặc hình ảnh nằm trên đường liên
kết cạnh bên, nhờ vậy não có thể tiếp nhận những ý tưởng mới. Vì mỗi đường

liên kết chỉ có một từ then chốt này và cả não của học viên được tự do mở rộng
theo mọi hướng. Quy tắc này trái ngược với sự hạn chế. Nếu học viên sử dụng
đúng cách, bộ não sẽ tự do phát triển tiềm năng sáng tạo vô tận.
Đường liên kết và từ có độ dài tương đương. Khi từ và đường liên kết
và từ có độ dài tương đương, chúng trông rõ ràng hơn, dễ đặt kề nhau và liên
kết với nhau. Bên cạnh đó học viên có thêm được khoảng trống để bổ sung
thông tin cho sơ đồ tư duy .
Nối các đường liên kết trung tâm với nhau và nối các nhánh chính với
hình ảnh trung tâm. Nối liền các đường liên kết trong sơ đồ tư duy sẽ giúp học
viên liên kết các ý tưởng. Có thể thay đường liên kết bằng mũi tên, đường

18


cung, vòng xoắn, vòng tròn, hình bầu dục, tam giác hoặc bất kỳ hình thù khác
do học viên lựa chọn.
Vẽ nét đậm và dạng cong với đường liên kết trung tâm. Đường liên kết
đậm sẽ làm cho bản thân dễ dàng nhận ra đó là thông tin quan trọng nhất, do
đó hãy dùng nét đậm khi vẽ đường liên kết trung tâm. Nếu lúc đầu học viên
không xác định được ý nào quan trọng nhất thì hãy tô đậm các đường liên kết
khi hoàn tất.
Tạo hình thù và đường ranh giới xung quanh các nhánh của sơ đồ tư
duy. Các hình thù sẽ kích thích trí tưởng tượng của người học. Tạo hình thù
trong sơ đồ tư duy, chẳng hạn quanh một nhánh của sơ đồ tư duy, sẽ giúp học
viên dễ nhờ cụm chủ đề và ý tưởng.
Nhịp điệu, kích cỡ: Kích cỡ chữ sẽ tạo ra sự chú ý cho sơ đồ tư duy.
Dùng nhiều kích cỡ cho chữ in, đường liên kết và hình ảnh, có sự tổ chức lên,
xuống, phân hạng ý tưởng sẽ tạo ra cảm giác thứ bậc tuần tự của các nội dung
học và tâm quan trọng tương đối của các thành phần được liệt kê cũng được
xác định rõ.

Cách dòng có tổ chức, sắp xếp hình dạng các nhánh trên trang giấy sẽ
giúp thứ bậc và sự phân hạng ý tưởng trở nên rõ ràng, dễ đọc và đẹp mắt hơn.
Nên chừa những khoảng trống thích hợp quanh mỗi trục trên sơ đồ tư duy,
phần để học viên dễ quan sát, phần vì bản thân khoảng trống cũng góp phần
quan trọng trong chuyển tải thông tin và tăng cường khả năng nhớ.
Từ then chốt, ký tự, ký hiệu: Từ then chốt và ký tự, ký hiệu là một bộ
phận quan trọng không thể thiếu trong sơ đồ tư duy. Từ then chốt cần được
viết trên đường liên kết để giúp não liên hệ với những thành phần khác
trong sơ đồ tư duy. Sử dụng ký hiệu làm từ then chốt giúp học viên tiết
kiệm thời gian và dễ dàng xác định mối liên hệ giữa các thành phần khác
nhau của sơ đồ tư duy trên mặt một mặt giấy bất kể khoảng cách giữa các
thông tin xa hay gần.

19


* Một số kỹ năng chú ý khi sử dụng sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy phải nằm theo chiều ngang. Bố cục theo chiều ngang sẽ
giúp học viên phát huy tối đa sức sáng tạo khi vẽ sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy
nằm ngang cũng giúp cho học viên dễ đọc hơn.
Sử dụng thứ bậc: Cách trình bày cũng như kết cấu của sơ đồ tư duy có
tác động lớn đến đến việc học viên sử dụng cũng như tính hiệu quả trong thực
tiễn của sơ đồ tư duy.
Sắp xếp thứ tự bằng cách đánh số: Sắp xếp nội dung ôn tập cần nắm bắt
theo theo thời gian hay mức độ quan trọng. Để thực hiện việc này, học viên
chỉ cần đánh số các nhành theo trình tự thực hiện hoặc ưu tiên mong muốn.
Có thể thêm vào một số chi tiết khác như ngày tháng năm nếu muốn. Học
viên cũng có thể đánh dấu bằng chứ cái thay cho số.
Tạo phong cách riêng như hình ảnh, hình vẽ, màu sắc, cách liên kết,
tưởng tượng… Học viên sẽ dễ liên hệ và ghi nhớ các chi tiết do chính mình

tạo ra, mang dấu ấn riêng của bản thân.
* Vai trò của sơ đồ tư duy trong dạy học
Sơ đồ tư duy có vai trò hết sức to lớn tập trung nhất ở hiệu quả hoạt
động học tập của học viên và hiệu quả giảng dạy của giảng viên cũng như
hoạt động giáo dục của nhà trường… Sử dụng sơ đồ tư duy là sử dụng đồng
thời ký tự, hình ảnh, màu sắc, không gian, nhịp điệu, sự liên kết, tưởng tượng
sẽ phát huy tối đa khả năng tư duy của bộ não, giúp học viên nắm chắc kiến
thức trọng tâm, sự kiện nổi bật, biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên
quan với nhau. Hay nói cách khác, sơ đồ tư duy có vai trò rất to lớn trong việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả góp phần nâng cao khả năng tư duy và kết quả
học tập của người học.
Trước hết, sơ đồ tư duy có tác dụng nâng cao hiệu quả tư duy và nhận
thức của người học. Sơ đồ tư duy là một phương pháp thể hiện đúng tư duy
tự nhiên của bộ não cũng như tư duy của con người, từ đó tạo nên sức

20


mạnh trí tuệ trong việc giải quyết các vấn đề học tập. Giúp cho việc nâng
cao trí tuệ, hiểu biết kiến thức và trình bày kiến thức trong xêmina trở nên nhẹ
nhàng và dễ dàng hơn nhiều so với các phương pháp thông thường. Thông qua
việc chuẩn bị nội dung trình bày xêmina học viên luôn có sự tưởng tượng, liên
kết và một tư duy tích cực, hợp quy luật. Do vậy, thông tin mà học viên thu
được và muốn trình bày rất phong phú, đa dạng, nhiều chiều, ở nhiều cấp độ
khác nhau không những từ ngữ, đường thẳng mà còn cả hình ảnh, màu sắc với
trí tưởng tượng và sự liên kết phong phú. Học viên có điều kiện để trải nghiệm,
phát huy tối đa khả năng của bộ não, đánh giá, liên kết các thông tin mà mình
đã thu nhận được. Do vậy, kiến thức học viên thu nhận được không chỉ mang
tính xuôi chiều mà được liên kết và hiểu được bản chất, nắm sự kiện nổi bật
của nội dung học một cách dễ dàng.

Hai là, sơ đồ tư duy có tác dụng rất lớn trong việc phát triển trí tuệ, tư
duy và các phẩm chất nhân cách cần thiết khác cho người học. Trong sơ đồ tư
duy học viên tự tìm lấy kiến thức bằng sự tìm tòi của tư duy, sự tưởng tượng
bởi tư duy mở rộng ra mọi hướng; tự mình khám phá và nắm lấy tri thức cốt lõi
của vấn đề mà không chỉ là thuộc lòng, tái hiện kiến thức. Các hoạt động học
tập đó, đòi hỏi học viên phải sử dụng nhiều thao tác tư duy phức tạp. Đây là
điều kiện tốt để rèn luyện, phát triển các kỹ năng hoạt động tư duy, trí tuệ cho
người học. Cụ thể, thông qua xêmina có sử dụng sơ đồ tư duy giúp học viên có
cơ hội để phát triển các thao tác tư duy như: phân tích, so sánh, tổng hợp, phê
phán, trừu tượng hoá, khái quát hóa; khả năng phát hiện, xử lý, giải quyết các
vấn đề; phát triển các kỹ năng tư duy như: tính linh hoạt, sáng tạo, quyết đoán...
Thuận tiện cho học viên nhìn, đọc, suy nghĩ và ghi nhớ nội dung học tập.
Ba là, sơ đồ tư duy có tác dụng trong việc xây dựng động cơ học tập
đúng đắn cho người học. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong các hình thức
dạy học nói chung và xêmina nói riêng học viên càng có nhiều khả năng đạt
được thành công, thành công đó càng có ý nghĩa quan trọng thì động cơ học

21


tập càng mạnh mẽ. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp học viên nắm kiến thức trong
thời gian ngắn, hiểu bản chất vấn đề, trình bày các nội dung mạch lạc, rõ ràng,
việc học tập trở nên nhẹ nhàng, không gây áp lực cho người học, học tập có
thể diễn ra mọi lúc, mọi nơi, học viên có khuynh hướng vươn lên theo động
lực nội tại của mình để đạt các mục tiêu trong học tập.
1.1.2. Khái niệm về xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn
Trong giáo trình “Lý luận dạy học đại học quân sự” do Đặng Đức
Thắng chủ biên, các tác giả quan niệm: “Xêmina ở đại học quân sự là một
hình thức tổ chức dạy học cơ bản trong đó học viên thảo luận, tranh luận các
vấn đề học tập được kết cấu theo một chủ đề khoa học nhất định, dưới sự điều

khiển trực tiếp của giảng viên”[41, tr.265]. Theo các tác giả xêmina là một
hình thức tổ chức dạy học mang tính tập thể, có sự chuẩn bị chu đáo của cả
người dạy và người học. Trong đó vai trò của người dạy chiếm vị trí chủ đạo
trong việc điều khiển và hướng dẫn người học.
Trong cuốn “Tổ chức quá trình dạy học các môn khoa học xã hội nhân
văn ở đại học quân sự”, tác giả Lê Minh Vụ cũng quan niệm: “ Xêmina là một
hình thức tổ chức dạy học cơ bản, học viên được quyền thảo luận, tranh luận
các vấn đề học tập dưới sự định hướng và điều khiển trực tiếp của giảng
viên”[47, tr.82]. Theo tác giả, xêmina là một hình thức tổ chức dạy học cơ
bản, mang tính tập thể. Dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên, học
viên thực hiện tuần tự các bước xêmina và phát biểu ý kiến của mình.
Như vậy, xêmina là một hình thức tổ chức dạy học tập thể được tiến
hành sau bài giảng, trong đó học viên thảo luận, tranh luận các vấn đề học
tập được kết cấu theo một chủ đề khoa học nhất định, dưới sự điều khiển trực
tiếp của giảng viên nhằm thực hiện mục tiêu dạy học đặt ra.
Phân tích các khái niệm trên chúng tôi nhận thấy xêmina có một số
dấu hiệu đặc trưng sau: Phải có một chủ đề khoa học (những vấn đề học tập)
nhất định; phải có sự chuẩn bị chu đáo của cả người dạy và người học về nội

22


dung, phương pháp, các điều kiện cần thiết; phải có sự hướng dẫn, điều
khiển của giảng viên (người am hiểu về lĩnh vực khoa học đó); mục đích cơ
bản của xêmina là phải làm phát sinh và giải quyết được mâu thuẫn trong
nhận thức của người học.
Là một trung tâm đào tạo cán bộ chính trị, giáo viên khoa học xã hội nhân
văn của quân đội và quốc gia, các môn khoa học xã hội và nhân văn luôn giữ một
vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong chương trình đào tạo dành cho các đối
tượng, các bậc học tại Học viện Chính trị. Điều đó xuất phát từ mục đích của các

môn khoa học xã hội và nhân văn ngoài việc trang bị kiến thức môn học cho học
viên còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành và phát triển các
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa cho người cán bộ
chính trị, người giáo viên khoa học xã hội nhân văn tương lai.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: “Xêmina các môn khoa học xã
hội và nhân văn ở Học viện Chính trị là một hình thức tổ chức dạy học cơ
bản, trong đó dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên, học viên
tranh luận, thảo luận các vấn đề học tập thuộc các môn khoa học xã hội và
nhân văn đã được chuẩn bị từ trước nhằm hiểu rõ bản chất, hình thành
phương pháp tư duy và các phẩm chất chính trị, góp phần thực hiện nội
dung, nhiệm vụ dạy học đáp ứng được yêu cầu đào tạo đội ngũ chính ủy,
cán bộ chính trị và giảng viên các môn khoa học xã hội và nhân văn cấp
trung, sư đoàn”.
Từ cách quan niệm trên, có thể hiểu xêmina các môn khoa học xã hội và
nhân văntrên các khía cạnh chính sau:
Xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn là một hình thức tổ chức
dạy học cơ bản. Xêmina là cách thể hiện, cách tiến hành hoạt động của giảng
viên và học viên, những hoạt động này có sự phối hợp thống nhất, được thực
hiện theo một trật tự, một chế độ nhất định.

23


Trong xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn học viên tranh luận,
thảo luận các vấn đề học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển của giảng viên. Đây
cũng chính là dấu hiệu đặc thù để phân biệt xêmina với các hình thức tổ chức dạy
học khác. Nếu ở hình thức bài giảng, học viên có phần bị động và giảng viên đóng
vai trò chủ động, hoạt động tích cực hơn, thì ở hình thức xêmina học viên được
phát huy đầy đủ tính năng động chủ quan.
Qua xêmina các môn khoa học xã hội và nhân văn, các nhiệm vụ của

quá trình dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn được thực hiện. Hình
thức tổ chức xêmina có nhiệm vụ trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho học
viên, hình thành ở họ thế giới quan khoa học, niềm tin, các phẩm chất nhân
cách tốt đẹp, phát triển trí tuệ, chuẩn bị tâm lý cho học viên, đó cũng chính là
các nhiệm vụ của quá trình dạy học.
Đặc điểm cơ bản của hình thức xêmina các môn khoa học xã hội
và nhân văn:
Thứ nhất, mục tiêu của buổi xêmina luôn bám sát mục tiêu dạy học chung
và mục tiêu của từng môn. Mục tiêu dạy học các môn khoa học xã hội và nhân
văn nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho học viên,
trang bị cho họ hệ thống các tư tưởng và nguyên lý, trên cơ sở đó giúp cho học
viên có khả năng xem xét và giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội phức tạp, xây
dựng lập trường giai cấp công nhân vững chắc. Chính vì thế xêmina các môn khoa
học xã hội và nhân văn ngoài nhiệm vụ trang bị cho học viên những kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo cần thiết của môn học còn phải hình thành thế giới quan khoa học,
trang bị cho họ phương pháp luận khoa học trong xem xét và giải quyết các vấn
đề thực tiễn cách mạng và thực tiễn quân đội. Điều đó có nghĩa là thông qua việc
trang bị kiến thức của môn học mà giúp học viên phát triển năng lực tư duy lý
luận, để họ có thể vận dụng một cách sáng tạo kiến thức đó vào thực tiễn nghề
nghiệp, vào cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

24


Thứ hai, nội dung xêmina trong dạy học các môn khoa học xã hội và
nhân văn luôn gắn chặt với xu hướng chính trị, mang tính tư tưởng sâu sắc.
Dạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn luôn dựa trên cơ sở quán triệt
sâu sắc các nguyên tắc dạy học, đặc biệt là nguyên tắc thống nhất giữa tính
Đảng và tính khoa học. Chỉ có như vậy chúng ta mới thực hiện được mục tiêu
dạy học đề ra là phát triển tư duy lý luận cho học viên. Nội dung các môn

khoa học xã hội và nhân văn luôn chứa đựng các xu hướng chính trị, tư
tưởng. Trong quá trình xêmina các môn này cần phải luyện tập cho học viên
biết cách phát hiện, phân biệt giữa tính giai cấp và tính khoa học khi nghiên
cứu các trường phái khoa học khác nhau, nhất là khi nghiên cứu các lý thuyết
khoa học mới. Phải làm cho học viên biết cách tiếp thu một cách có chọn lọc,
lựa chọn những hạt nhân hợp lý những giá trị khoa học trong các lý thuyết
mới phục vụ cho đường lối chính trị của Đảng, nhiệm vụ của quân đội và đơn
vị. Một yêu cầu có tính chất bắt buộc trong xêmina các môn khoa học xã hội
và nhân văn là khi tranh luận các vấn đề khoa học phải gắn với việc phê phán
các quan điểm sai trái. Phải thường xuyên tổ chức cho học viên tham gia bình
luận các sự kiện chính trị, xã hội có tính thời sự dưới sự điều khiển của giáo
viên, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của Đảng.
Thứ ba, xêmina trongdạy học các môn khoa học xã hội và nhân văn
luôn bám sát sự phát triển của thực tiễn cách mạng, thực tiễn xây dựng và
chiến đấu của quân đội. Tính đặc thù xêmina trong dạy học các môn khoa
học xã hội và nhân văn ở chỗ lý luận phải thống nhất với thực tiễn, theo kịp
sự phát triển của thực tiễn. Nếu thiếu tính thực tiễn, không gắn chặt lý luận
với thực tiễn, chỉ nặng về lý thuyết đơn thuần thì sẽ không thể hấp dẫn, lôi
cuốn được học viên tích cực tham gia tranh luận, thảo luận trong quá trình
xêmina. Đây là vấn đề khó nhất và yếu nhất trong dạy học các môn khoa
học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự thời gian qua.

25


×