Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Nâng cao chất lượng môn ngữ văn bằng phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.4 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN TỪ LIÊM
S¸NG KIÕN KINH
NGHIÖM
Tên sáng kiến:
Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn bằng phương pháp sử dụng
bản đồ tư duy trong dạy học.

Trường THCS Đại Mỗ
GV: Lª ThÞ HuÖ
Năm học: 2011 - 2012
- Hà Nội -
Sáng kiến kinh nghiệm
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo Tony Buzan, người đầu tiên tìm hiểu và sáng tạo ra bản đồ tư duy thì:
“Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay một hình ảnh
trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các
nhánh tượng trưng cho các ý chính và đều được nối với các ý trung tâm. Với
phương thức tiến dần từ trung tâm ra xung quanh, bản đồ tư duy khiến tư duy
con người cũng phải hoạt động tương tự. Từ đó các ý tưởng của con người sẽ
phát triển.
Bản đồ tư duy ( BĐTD) là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh
để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD- một công cụ tổ chức tư duy nền
tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ,
hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của
bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với
các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh)- BĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình
ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến


thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau
mỗi chương…
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ Văn luôn
được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương pháp, biện pháp
mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai
trò của người học không phải là những bình chứa thụ động mà là những chủ thể
nhận thức tích cực trong quá trình học tập. Như vậy dạy Văn là dạy cách tư duy,
dạy cách đi tìm và tự chiếm lĩnh lấy kiến thức. Đó là một định hướng giáo dục
quan trọng hiện nay. Trên cơ sở tổng kết những vấn đề cơ bản của lý thuyết Bàn
đồ tư duy mà Tony Buzan đã tạo dựng vào dạy môn Ngữ văn.
GV: Lê Thị Huệ
2
Sáng kiến kinh nghiệm
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công
cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong
các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học
khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn Điều đó
đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn
kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống .
2. Cơ sở thực tiễn
Năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới
phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngữ văn trong các
nhà trường phổ thông. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại
nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) - một
phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua

việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận
thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học
tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi
trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn
mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là phương pháp dạy học
bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để nâng cao chất
lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ
với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này .
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở
rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có
thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh,
đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não,
giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
GV: Lê Thị Huệ
3
Sáng kiến kinh nghiệm
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn
luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu
quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học
rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học
phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau,
không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn
số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép
để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành
thạo BĐTD trong dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính
độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên
cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do
chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử

dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm
năng của bộ não.
Việc HS vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng…), đường nét
(đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “ sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện
rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em
tự thiết kế nên các em sẽ yêu quý, trân trọng “ tác phẩm” của mình.
BĐTD giúp HS ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của BĐTD nên người
thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin
cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành
cách ghi chép hiệu quả.
GV: Lê Thị Huệ
4
Sáng kiến kinh nghiệm
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Học sinh và giáo viên trường THCS Đại Mỗ.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM
Giáo viên dạy môn Ngữ văn trường THCS Đại Mỗ.
Học sinh trường THCS Đại Mỗ, giúp học sinh học tập một cách tích cực,
huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
V. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Chương trình Ngữ văn THCS và dựa trên kinh nghiệm giảng dạy cùng trên
kết quả đạt được.
Từ ngày 20 tháng 11 năm 2011 đến ngày 22 tháng 03 năm 2012.
GV: Lê Thị Huệ
5
Sáng kiến kinh nghiệm
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. NHẬN XÉT SƠ BỘ VỀ THỰC TRẠNG.
1. Thực trạng của việc học văn hiên nay

Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy
mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn.
Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời
than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn văn và nay đã trở
thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn
của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay
đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng
như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu
hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là:
Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ
với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên
dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội
tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ
huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng
ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã
chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh
còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ
ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
Khả năng trình bày: Khi HS tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết
chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những
bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng Đây là một tình trạng đã trở
nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực
tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ,
GV: Lê Thị Huệ
6
Sáng kiến kinh nghiệm
mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người.

Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội,
không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương
pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho
các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với
công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những
mặt hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ
học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao .
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp
trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học
sinh .
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không
chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn
- Địa phương xã Thọ Nghiệp thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ
huynh đều đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản
thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian
học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức
học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
GV: Lê Thị Huệ
7
Sáng kiến kinh nghiệm
II. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ
1. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD

- BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ
dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu
và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng.
- Dạy học bằng Bản đồ tư duy - một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản
giáo dục.
a. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng:
- Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến
thức cần nhớ. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ
siêu đẳng. Đối với não bộ, BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh
màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán.
- Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng
một cách rất rõ ràng.
- Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sơ BĐTD
cho phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử
dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất
nhiều màu sắc khiến giáo viên và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng
tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây không chỉ là một bức tranh đầy màu
sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức tranh mang tính lý luận,
liên kết chặt chẽ về những gì được học.
b. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc:
BĐTD thật sự giúp bạn tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải
khi học. Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não.
Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng lực tiềm ẩn
trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ
hay thậm chí của một thiên tài.
2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn
a. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
GV: Lê Thị Huệ
8

Sáng kiến kinh nghiệm
- Dùng BĐTD để dạy bài mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến
thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho
các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện BĐTD.
Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cáhc dễ dàng.
- Ví dụ 1: Với văn bản: Thầy bói xem voi (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần
đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm
5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào
nội dung bài học.
Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng
hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức:
+ Bố cục của văn bản: học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính
( Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi,
hậu quả.)
+ Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có
tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy
ra sao, )
Sơ đồ minh hoạ

Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6
- Ví dụ 2: Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ giáo viên
cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi
ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ
GV: Lê Thị Huệ
9
Sáng kiến kinh nghiệm
( nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên
trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó
giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất
hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.

Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6
- Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến
thức sau mỗi chương, phần…: Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để
học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng
cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại
thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một
cách nhanh chóng, dễ dàng.
- Ví dụ 1: Khi dạy phần từ loại tiếng Việt, giáo viên tổ chức cho học sinh
vẽ BĐTD sau mỗi bài học để mỗi em có một tập BĐTD về các từ loại tiếng
Việt: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, quan hẹ tự, trợ từ, thán từ…. Lên
đến lớp 9, trong bài “ Tổng Kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp
kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng BĐTD dựa vào tập BĐTD đã có. Sau khi có
một học sinh hoặc một nhóm học sinh vẽ xong BĐTD sẽ cho một học sinh khác,
nhóm khác nhận xét, bổ sung … Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh
GV: Lê Thị Huệ
10
Sáng kiến kinh nghiệm
khác và ghi thêm các chú thích… rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện,
nâng cao kĩ năng vẽ BĐTD cho các em.
Sơ đồ minh hoạ
Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9
- Ví dụ 2: BĐTD khi tìm hiểu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du:
Giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ
thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho HS
bằng BĐTD.
Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm:
*. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác
*. Tác phẩm:
+ Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và

chữ Nôm)
+ Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên
gúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn
được coi là tác phẩm văn học Việt Nam
+ Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều.
+ Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
GV: Lê Thị Huệ
11
Sáng kiến kinh nghiệm
Sơ đồ minh hoạ

b. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư
duy lôgic.
- Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa…
hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố
khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
- Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap,
phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học
tập.
c. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học
môn Ngữ văn
* BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương
pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm
chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn toán, các em này thường học bài nào biết
GV: Lê Thị Huệ
12
Sáng kiến kinh nghiệm
bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức

với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
Phần lớn số học sinh này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách
tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử
dụng thành thạo BĐTD trong dạy học học sinh sẽ học được phương pháp học,
tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
* BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực:
- Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu,
nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn
ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích
cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
- Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của
học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em
tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức
của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng
“tác phẩm” của mình.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp
học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển
khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội
dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích
cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học
tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm
được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học
GV: Lê Thị Huệ
13
Sáng kiến kinh nghiệm

sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ
của tri thức.
Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước
đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng
dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để
dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học
sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết
sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số HS trung
bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với
môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài
nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
1. Hiệu quả kinh tế
- BĐTD có thẻ sử dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các
trương hiện nay. Có thể thít kế BĐTD trên giấy, bìa, bảng phụ… hoặc cũng có
thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy. Với những trường có điều kiện công
nghệ thông tin tốt, có thể cài đặt phần mềm Mindmap cho GV, HS sử dụng,
bằng cách vào trang wed www.dowload.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ
Mindmap, ta có thể tải về miễn phí ConceptDraw MINMAD 5 professional, việc
sử dụng phần mềm này khá đơn giản.
- BĐTD rất hữu hiệu cho người học khi lập kế hoạch, dự án. Nó cho người
học một cái nhìn tổng thể, cách đánh giá khách quan. Nếu một người nào đó
đang một dự án kinh doanh thì đừng quên sử dụng BĐTD khi làm việc.
- Khi chúng ta chưa định hướng được kế hoạch rõ ràng, vẫn chỉ là những ý
tưởng, sử dụng phương pháp BĐTD chắc chắn sẽ thành công.
- Khi ta bắt đầu cho một dự án kinh doanh khởi nghiệp, ta phải lo quá nhiều
việc một lúc. Có khi nào ta nản trí vì đuối sức? BĐTD sẽ giúp bạn tư duy thông
suốt và biết sắp xếp công việc theo một trật tự ngay từ đầu.
2. Hiệu quả về mặt xã hội
GV: Lê Thị Huệ

14
Sáng kiến kinh nghiệm
a. Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học
sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai
nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung
của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà
Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
b. Sử dụng thành thạo và hiệu quả Bản đồ Tư duy trong dạy học sẽ mang lại
nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học
tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm
được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học
sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ
của tri thức.
c. Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, tôi thấy bước
đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của ứng
dụng BĐTD trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử dụng BĐTĐ để
dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức chương, phần. Học
sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết
sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh
trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản.
Đối với môn Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi
chép bài nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
d. Thực tế kết quả kiểm tra hết học kỳ I năm học 2011 - 2012 cho thấy môn Ngữ
văn khối 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường nói chung đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
- Môn Ngữ văn 6 đạt 80 % xếp thứ 8/16 đơn vị lớp.
- Môn Ngữ văn 7 đạt 89% xếp thứ 5/16 đơn vị lớp.
- Môn Ngữ văn 8 đạt 95 % xếp thứ 4/16 đơn vị lớp.

- Môn Ngữ văn 9 đạt 82 % xếp thứ 7/16 đơn vị lớp. Đó là những kết quả rất khả
thi nhờ áp dụng phương pháp dạy học bằng BĐTD trong dạy học Ngữ văn.
GV: Lê Thị Huệ
15
Sáng kiến kinh nghiệm
C. KẾT LUẬN
Việc ứng dụng BĐTD trong đổi mới PPDH ở trường THCS Đại Mỗ bước
đầu đã có kết quả tuy nhiên đó mới chỉ là kết quả ban đầu, còn rất khiêm tốn.
Để việc ứng dụng BĐTD phát huy hiệu quả lâu dài, bên vững, đòi hỏi người GV
phải nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo hơn nữa. Đồng thời cần có sự ủng hộ, quan
tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo, sự đóng góp ý kiến, rút kinh nghiệm của các
bạn đồng nghiệp trong và ngoài huyện. Tôi rất mong nhận được ý kiến chỉ đạo
của các cấp lãnh đạo và ý kiến đóng góp của đồng nghiệp.
Tôi hy vọng rằng, trong những năm học tới phòng giáo dục đào tạo huyện
Từ Liêm sẽ tiếp tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn nữa để
tôi có được những phương pháp dạy học hay, hiệu quả.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 2 năm 2012
Người viết sáng kiến:
Lê Thị Huệ
GV: Lê Thị Huệ
16
Sáng kiến kinh nghiệm
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy – một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học
sinh học tập môn toán- Tạp chí Giáo dục, kì 2- tháng 9/2009.
2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH
HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009.
3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã hội.
4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2

nd
edition), PalGrave
Macmillian.
5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan).
6. Tài liệu tập huấn chuyên môm do phòng giáo dục đào tạo huyện Từ Liêm tổ
chức.
7. Tham khảo nhóm Ngữ văn 9 trường THCS Đại Mỗ - Từ Liêm – Hà Nội.
GV: Lê Thị Huệ
17
Sáng kiến kinh nghiệm
MỤC LỤC
GV: Lê Thị Huệ
18

×