Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Đọc "Chiếu Dời Đô" bằng đôi mắt hiện tại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.65 KB, 7 trang )

Đọc “Chiếu dời đô” bằng đôi mắt hiện tại
02-10-2010
Trong giai đoạn mới của sự phát triển đất nước, khi mà việc xây dựng nổi
lên hàng đầu – "phát triển thật ra là một cách tốt nhất để bảo vệ một quốc
gia" – thì việc trở lại với Chiếu dời đô lại có một ý nghĩa riêng - Nhà văn hóa
Vương Trí Nhàn đặt vấn đề.

LTS - Hà Nội đang bắt đầu chuỗi 10 ngày tưng bừng kỉ niệm Đại lễ Nghìn năm
Thăng Long – Hà Nội. Nhân dịp Đại lễ, nhà văn hóa Vương Trí Nhàn đọc và
luận giải văn bản cổ "Chiếu dời đô" của tiền nhân Lý Công Uẩn bằng ngôn ngữ
văn hóa chính trị thời hiện đại. Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng bạn
đọc.
So với Bình Ngô đại cáo thì Chiếu dời đô thường chỉ được chúng ta quan tâm ở
một mức khiêm tốn, sự phân tích văn bản cũng sơ sài. Điều này có thể giải
thích là do cảm hứng chính chi phối xã hội Việt Nam từ sau 1945 đến nay là
cảm hứng chiến thắng mà Bình Ngô đại cáo diễn tả rất hoàn hảo. Thói quen tìm
thấy mình trong lịch sử và hơn thế, thích diễn tả mình bằng ngôn ngữ lịch sử,
đã xui con người hiện đại đồng lòng làm việc đó.
Tuy nhiên, trong giai đoạn mới của sự phát triển đất nước, khi mà việc xây
dựng nổi lên hàng đầu – "phát triển thật ra là một cách tốt nhất để bảo vệ
một quốc gia" – thì việc trở lại với Chiếu dời đô lại có một ý nghĩa riêng.
Dám thay đổi, lấy sự thịnh vượng của xứ sở làm trọng
Mặc dù không được triển khai kỹ lưỡng và viết bằng một thứ "thiên cổ hùng
văn" như Bình Ngô đại cáo, song Chiếu dời đô vẫn là – xin phép được sử dụng
ngôn ngữ của văn hóa chính trị hiện đại – một thứ cương lĩnh chính trị nghiêm
túc, bao quát nhiều vấn đề lớn của thời đại.
Sau khi đã nắm chính quyền, Ban lãnh đạo đất nước thấy việc cần kíp nhất là có
những quyết sách lớn cho việc xây dựng đất nước (việc đặt kinh đô ở đâu thuộc
loại quyết sách lớn đó).
Chỗ dựa để đưa ra những quyết sách này không chỉ là những kinh nghiệm của
bản thân. Trong hoàn cảnh một miền đất mới tuyên bố về sự tồn tại của mình


như một quốc gia, việc tham khảo kinh nghiệm của các xứ sở khác trở thành bắt
buộc.
Một điều quan trọng hơn, cần xác định nội dung chủ yếu trong kinh nghiệm
nước ngoài là gì.
Theo thói quen bảo thủ đã thành nếp nghĩ phổ biến, chúng ta dự đoán khi noi
gương người xưa, Ban lãnh đạo thời Lý sẽ chỉ nhìn thấy sự trung thành với
truyền thống. Nhưng chúng ta nhầm. Cùng với việc mạnh dạn phê phán tiền
nhân – chê Đinh – Lê là cạn nghĩ, không thức thời, không chịu học hỏi – Chiếu
dời đô sớm đặt vấn đề về sự thay đổi mà các triều đại nổi tiếng ở phương Đông
trước đó đã trải qua.
Ngay lúc ấy, kinh nghiệm quốc tế lớn nhất đã là không được đi theo những lối
mòn, mà phải luôn luôn đổi mới. Dường như Chiếu dời đô muốn kêu lên như
vậy (chỉ thiếu một sự quả quyết theo kiểu Trung Quốc hiện nay : "Thay đổi hay
là chết!").
Thế đâu là chỗ dựa để đánh giá một sự thay đổi là đúng hay là sai?
Câu trả lời của Chiếu dời đô : Phải mang lại cho xứ sở sự thịnh vượng.
Khi xem xét lý do đã được Chiếu dời đô nêu lên để làm rõ chỗ khác nhau giữa
kinh đô cũ và kinh đô mới, các nhà nghiên cứu thời nay thường chỉ chú ý tới
yếu tố phong thủy : Thăng Long là nơi trung tâm trời đất, có thế rồng lượn hổ
chầu…
Nhưng điều mà trong bài này chúng tôi muốn bạn đọc chú ý là yếu tố địa lý ở
đây không có tính thần bí, mà mang ý nghĩa thiết thực. Một bên đất trũng tối
tăm, một bên cao mà thoáng mát. Một bên trăm họ hao tổn, muôn vật tiêu điều;
một bên không những không khổ vì ngập lụt, mà muôn vật lại rất phồn thịnh
(1).
Rõ là một thứ địa lý học được nhìn dưới góc độ kinh tế.
Thuật lại việc Lý Thái Tổ đưa Chiếu dời đô ra để hỏi ý kiến các quan – một cử
chỉ có ý nghĩa rất hiện đại – Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng : "Bầy tôi đều
tâu : Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu, để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh
vượng, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế ai dám

không theo".
Hai tiếng giàu có gần như không có trong kho từ vựng của vua quan phong kiến
ở ta suốt trường kỳ lịch sử, kỳ lạ thay lại xuất hiện ở một thời cách xa chúng ta
đã có ngàn năm tuổi này!
Một mầm mống của ý niệm kinh tế như đã nằm trong tư duy con người lúc ấy,
kinh tế được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá sự thịnh trị (vốn là một khao khát
lớn của mọi thời đại).
Thân dân thì có tất cả
Ta hãy chú ý : Trong văn bản, khái niệm thịnh vượng nói ở trên – hay khái
niệm phát triển như tư duy hiện đại – luôn gắn với khái niệm dân. Nỗi khổ
được nói tới là khổ của dân. Mà sự giàu có cũng là của dân.
Như vậy là với Chiếu dời đô, lần đầu tiên ở Việt Nam, một thuật ngữ quan
trọng trong văn hóa quyền lực ở phương Đông đã xuất hiện.
Đọc các tài liệu in trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam – văn tuyển (2), người ta
thấy thời Bắc thuộc, tư tưởng chủ yếu của xã hội vẫn là tư tưởng Phật giáo.
Mặc dù đến triều Lý, đạo Phật vẫn là Quốc giáo, song với việc sử dụng dày đặc
khái niệm dân, hoặc trăm họ (bách tính) trong văn bản, sự có mặt của Nho giáo
trong tư duy nhà cầm quyền ở Việt Nam lúc đó là điều không còn bàn cãi.
Thái độ với dân là một chính sách lớn mà khoa học cai trị của Nho giáo (trị
quốc chi đạo) khẳng định.
Câu mở đầu của sách Đại học đã nói rõ : "Đại học chi đạo tại minh minh đức tại
thân dân". Thân dân ở đây thường được giải thích là yêu mến, vỗ về dân chúng.
Khổng Tử mới nói tới việc làm sao cho dân có được đời sống thuần hậu. Mạnh
Tử đã nói tới việc làm cho dân giàu và xem đấy là một trong những phương
cách hữu hiệu nhất để tạo nên sự hùng hậu của quốc gia. Bằng cách nói về sự
thịnh vượng của dân, Chiếu dời đô đã đi được một đoạn đường khá xa trong
việc chiếm lĩnh kinh điển Nho giáo.
Mối quan hệ giữa dân và nhà cầm quyền
Một bằng chứng khác làm nên vẻ độc đáo của tư tưởng thân dân của Chiếu dời
đô là quan niệm về mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và dân chúng. Điều này

không được diễn tả bằng ngôn từ, nhưng tiềm ẩn ở dạng dưới văn bản.
Thông thường, chúng ta hay nghĩ, công lao đưa khái niệm dân vào các văn kiện
chính trị ở Việt Nam là thuộc về Nguyễn Trãi.
Trong Bình Ngô đại cáo, dân được hiểu là những người dân đen, bị đầy ải dưới
ách ngoại xâm; còn nhà cầm quyền hiện ra như những người giải phóng cho
dân, ban ơn cho dân. Về sau, trong văn thơ Nguyễn Trãi viết khi Lê Lợi đã lên
ngôi vua, dân được đặt trong các mối quan hệ với các biến cố chính trị kiểu
"giữ thuyền là dân, lật thuyền là dân" (ẩn đằng sau đó là lời khuyên vua chúa
phải cảnh giác với dân).
Còn trong Chiếu dời đô, như chúng ta thấy, dân có bóng dáng một thứ chủ thể
quốc gia, với nghĩa nhà cầm quyền nghĩ về dân như những đối tượng mà mình
phải lo lắng, phải chịu trách nhiệm; đời sống của dân cũng là thước đo để nhà
cầm quyền soi vào mà xem xét đánh giá mình. Mối quan hệ ở đây trong sáng và
chưa bị tha hóa.
Cái trong sáng này chính là hợp với Nho giáo ở thời các bậc tôn sư mới dựng
tạo những cơ sở lý thuyết đầu tiên. Theo Đại cương triết học Trung Quốc của
Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (3), đại để Khổng Mạnh đã quan niệm "Trời sinh
dân, nuôi dân, đặt ra vua để làm lợi cho dân, chăn nuôi dân, cai trị dân, do đó
mới có (quan hệ) vua tôi" (sđd, t.II, tr.553); "Cái lợi của dân là cứu cánh quốc
gia" (sđd, tr.555). Trong Kinh Thi đã có những câu cho thấy người dân thời đó
nghĩ rằng "Vua quan phải theo ý dân" (tr.633).
Về sau, trong quá trình phát triển của xã hội phong kiến, nhất là đến thời của
những cuộc chinh chiến liên miên giữa các vương hầu, rồi những tư tưởng như
Nguyễn Trãi dẫn ra mới nổi lên hàng đầu, và truyền đến những xứ sở xa xôi
như Việt Nam.
Đến thời cận đại, các nhà tư tưởng Trung Quốc vẫn còn dựa vào một phần
những mầm mống tư tưởng hồn nhiên trong sáng vừa dẫn ở trên để kết hợp với
các tư tưởng Âu Tây, hình dung ra thế nào là quốc gia và vai trò dân chúng với
quốc gia. Lương Khải Siêu có lần đã diễn tả các quan hệ kinh điển đó dưới một
hình thức rất mô-đéc : "Quốc gia chỉ là một công ty, các nhà cầm quyền chỉ là

×