Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.14 KB, 24 trang )

I – MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Giáo dục Mầm non chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống
Giáo dục quốc dân, là nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục và Đào tạo; như
Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền
giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
các cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.
Giai đoạn phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non có tính quyết định đến
thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí tuệ của trẻ trong suốt cả cuộc đời.
Những kết quả nghiên cứu về sự phát triển đặc biệt của não bộ trong những năm
đầu tiên của cuộc đời, những nghiên cứu về ảnh hưởng và ích lợi của các dịch
vụ giáo dục mầm non có chất lượng đã khiến Chính phủ ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam ngày càng quan tâm, phát triển giáo dục
mầm non. Chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt
sẽ có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở các bậc học tiếp theo, chất
lượng GDMN quyết định tới sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho
trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, trí tuệ và thẩm mỹ. Có thể nói nhân cách con
người trong tương lai như thế nào phụ thuộc lớn vào sự giáo dục của trẻ ở
trường mầm non.
Hiện tại công tác chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non xã Hòa Sơn
còn gặp rất nhiều khó khăn. Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến
chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ phần nào chưa đạt được yêu cầu như mong
muốn, chưa thực sự đáp ứng được sự phát triển của đất nước trong thời đại mới.
Trong những năm học trước, do nhà trường có nhiều điểm trường lẻ, phòng học
chật hẹp, công tác tuyên truyền về công tác bán trú còn hạn chế, phu huynh chưa
tin tưởng gửi con ăn ở trường nên chưa tổ chức cho trẻ ăn bán trú ở các điểm
trường dẫn đến tỷ lệ trẻ ăn bán trú còn thấp, ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ của nhà trường.
Từ thực tiễn cũng như đặc điểm tình hình của nhà trường như trên, bản
thân tôi với vai trò là một Phó hiệu trưởng, tôi xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ
của GDMN và thấy rằng việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mầm non toàn


ngành nói chung và với trường mầm non xã Hòa Sơn nói riêng là vô cùng cần
thiết và quan trọng. Sau thời gian nghiên cứu, tìm tòi biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non, tôi đã mạnh dạn chọn
và xây dựng đề tài “Công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ tại trường mầm non xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn” với
mong muốn góp một phần nhỏ vào việc tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ một cách hợp lý.
2. Mục tiêu của sáng kiến
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ đề xuất
một số công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ tại trường
mầm non xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
1


3. Phạm vi của sáng kiến (đối tượng, không gian, thời gian)
Công tác chăm sóc, giáo dục trẻ của đội ngũ giáo viên, nhân viên tại
trường Mầm non xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn từ tháng 9/2018
đến tháng 4/2019.
II – CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận (khoa học, chính trị, pháp lý)
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển
toàn diện cho trẻ. Vì vậy, cần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, giúp
trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm
và quan hệ xã hội, thẩm mỹ; hình thành yếu tố đầu tiên nhân cách của con
người. Trên cơ sở đó tạo tiền đề, đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn
diện và chuẩn bị tốt các điều kiện cho trẻ bước vào bậc học phổ thông.
Chương trình GDMN cụ thể hoá các yêu cầu về công tác chăm sóc nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ ở từng độ tuổi; quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm
tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, trí tuệ;
hướng dẫn cách thức đánh giá sự phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non. Để đảm

bảo chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ đòi hỏi người GVMN phải có phẩm chất
chính trị, trình độ năng lực, có lương tâm nghề nghiệp và nhân cách nhà giáo, có
lòng nhân ái tận tuỵ, thương yêu trẻ hết mình, tất cả những điều đó được thể
hiện ở tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để cải tiến nội dung, phương pháp chăm
sóc, giáo dục trẻ của mỗi cán bộ, giáo viên.
Như vậy, đội ngũ cán bộ, giáo viên là lực lượng nòng cốt quyết định chất
lượng giáo ở mỗi nhà trường, chính vì vậy mà tôi luôn quan tâm đến việc xây
dựng, bồi dưỡng giáo viên về các phương pháp, kĩ năng giáo dục trẻ, cách sắp
xếp môi trường lớp học theo hướng lấy trẻ làm trung tâm; phối hợp tuyên truyền
với phụ huynh để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường.
2. Cơ sở thực tiễn
Nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ mục tiêu cơ bản
nhất của trường mầm non. Thực hiện được mục tiêu này là góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục mầm non và cũng là những dấu mốc quan trọng cho sự thành
công trong công tác quản lý nhà trường. Song thực tế, trong những năm qua,
việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non xã Hòa
Sơn còn có nhiều hạn chế. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng còn thiếu
thốn, phòng học còn học nhờ nhà văn hóa thôn và trường tiểu học.
Trình độ chuyên môn, tay nghề của giáo viên chưa đồng đều. Có nhiều
giáo viên luôn nhiệt huyết trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, luôn có ý thức
trau dồi học tập, học hỏi kinh nghiệm về chuyên môn để nâng cao trình độ tay
nghề. Hằng ngày, các cô tận dụng những nguyên vật liệu, phế thải ở nhà để làm
thật nhiều đồ dùng phục vụ giảng dạy để thu hút trẻ hứng thú và tích cực trong
các hoạt động. Xây dựng các loại kế hoạch giáo dục theo hướng lấy trẻ làm
trung tâm để phát huy tính tích cực, tò mò, sáng tạo của trẻ.
2


Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên lớn tuổi tiếp cận công nghệ thông
tin chậm nên hạn chế trong công tác, và một số giáo viên mới ra trường chưa có

kinh nghiệm còn bỡ ngỡ trong việc xây dựng các loại kế hoạch giáo dục, sử
dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi, phương pháp, hình thức giảng dạy
còn cứng nhắc, chưa linh hoạt, chưa sáng tạo, chưa phát huy được tính tích cực
của trẻ.
Cơ sở vật chất nhà trường còn gặp nhiều khó khăn, phụ huynh chưa tin
tưởng gửi con ăn ở trường nên nhà trường chưa tổ chức được công tác bán trú ở
các điểm trường, trẻ chủ yếu đi học 2 buổi/ngày lẻ, dẫn đến tỷ lệ trẻ ăn bán trú ở
trường còn thấp. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ của nhà trường.
2.1. Đặc điểm chung:
Trường mầm non xã Hòa Sơn là một trường vùng sâu vùng xa cách trung
tâm huyện Hữu Lũng khoảng 20km. Trường có 1 điểm trường chính và 6 điểm
trường lẻ ở các thôn, trong đó có 2 điểm trường Hố Mười và Suối Trà cách điểm
trường chính 8 km, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, nhất là vào những hôm
trời mưa gió. Đầu năm học 2018-2019 trường có 16 nhóm lớp, trong đó có 07
lớp bán trú và 9 lớp học 2 buổi/ngày, với tổng số trẻ ra lớp là 369 trẻ.
Toàn trường có 37 đồng chí cán bộ giáo viên, nhân viên. Trong đó:
- CBQL: 03/03 đồng chí trình độ trên chuẩn đạt tỷ lệ 100%.
- Giáo viên: 27 đồng chí ( 22 giáo viên trong biên chế, 5 giáo viên hợp
đồng) trong đó:
+ 26/27 đồng chí đạt trình độ chuẩn trở lên đạt tỷ lệ 96,3%.
+ 01/27 đồng chí trình độ khác đạt tỷ lệ 3,7%.
- Nhân viên : 07 đồng chí, trong đó nhân viên nấu ăn 04, kế toán 01, văn
thư 01, bảo vệ 01
2.2. Thuận lợi:
- Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện Hữu Lũng, tạo điều kiện giúp đỡ về chuyên môn và tổ chức tốt
các chuyên đề cho đội ngũ giáo viên
- Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã luôn quan tâm, động
viên các phong trào của nhà trường và được hội cha mẹ học sinh nhiệt tình ủng

hộ, tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện tốt công tác chăm sóc, giáo dục trẻ .
- Ban giám hiệu đoàn kết, nhiệt tình, năng động, sáng tạo.
- ĐNGV hầu hết trẻ, khoẻ, có lòng yêu nghề, mến trẻ và có ý thức học
hỏi, tự bồi dưỡng chuyên môn cho bản thân.
- Cơ sở vật chất ngày càng được hoàn thiện, đồ dùng phục vụ chăm sóc,
giáo dục trẻ được trang bị tương đối đầy đủ.

3


2.3. Khó khăn:
- Trình độ của giáo viên tuy 100% đạt chuẩn và trên chuẩn cao nhưng
năng lực sư phạm không đồng đều, chưa năng động, sáng tạo trong công tác
chăm sóc giáo dục trẻ. Một số giáo viên có kinh nghiệm và có tâm huyết với
nghề thì tuổi lại cao do đó việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
giảng dạy cũng gặp khó khăn. Còn số giáo viên mới ra trường chưa có nhiều
kinh nghiệm đứng lớp, kiến thức, kỹ năng sư phạm còn hạn chế, tác phong lên
lớp còn rụt rè, e ngại và chưa thực sự chú trọng đến việc thay đổi phương pháp
cũng như hình thức lên lớp. Nhiều giáo viên trẻ đang trong độ tuổi sinh đẻ, nuôi
con nhỏ…nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng chung của trường
- Một số giáo viên dạy lớp ghép chương trình giảng dạy cùng một nội
dung, cung một bài giảng, các đồ dùng đồ chơi chuẩn bị như nhau nhưng giáo
viên phải xây dựng mục tiêu theo từng độ tuổi trong cùng một lớp. Vì vậy rất
khó khăn vật vả cho các giáo viên khi xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu cần
đạt ở các chủ đề thực hiện.
- Việc sắp xếp môi trường hoạt động trong và ngoài lớp của giáo viên còn
hạn chế chưa theo hướng lấy tre làm trung tâm, chưa kích thích tính tò mò, tích
cực khám phá của trẻ.
- Trẻ còn rụt rè, nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt
động của trường, lớp.

- Cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều khó khăn thiếu thốn, phòng học
chật hẹp, còn học nhờ trường tiểu học và nhà văn hóa của thôn
- Công tác tuyên truyền phối hợp với phụ huynh chưa thực sự hiệu quả,
nhận thức của phụ huynh về công tác tổ chức bán trú ở các điểm trường lẻ còn
hạn chế.
- Trường có các điểm lẻ đi lại khó khăn nên việc dự giờ, thăm lớp còn gặp
nhiều khó khăn.
Khảo sát chất lượng trẻ đầu năm
Bảng 1. Số lớp và số lượng trẻ tháng 9/2018
Lớp học bán trú, 2
buổi/ngày
Tổng số nhóm, lớp
- Lớp học bán trú
- Lớp học 2 buổi/ngày

Tổng số nhóm lớp

Tổng số trẻ

16
07
09

369
177
192

Bảng 2. Khảo sát chất lượng chăm sóc tháng 9/2018
Nội dung đánh giá
Kết quả

Tổng số trẻ được cân đo: 369/369 = 100%
Cân nặng bình thường
305/369 = 82,7%
4


Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Riêng 5 tuổi
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Riêng 5 tuổi
Chiều cao bình thường
Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Riêng 5 tuổi
Suy dinh dưỡng thể thấp còi
Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Riêng 5 tuổi

15/21 = 71,4%
290/348 = 83,3%
96/109 = 88,1%
64/369 = 17,3%

6/21 = 28,6%
58/348 =16,7%
13/109 = 11,9%
305/369 = 82,7%
15/21 = 71,4%
290/348 = 83,3%
96/109 = 88,1%
64/369 = 17,3%
6/21 = 28,6%
58/348 =16,7%
13/109 = 11,9%

Bảng 3. Chất lượng giáo dục tháng 12/2018:
Nội dung đánh giá
Kết quả
Tổng số trẻ được đánh giá: 396/369 = 100%
Đạt yêu cầu
316/396 = 79,8%
Trong đó:
- Nhà trẻ
35/45 = 77,8%
- Mẫu giáo
281/351 = 80,1%
- Riêng 5 tuổi
96/109 = 88,1%
Chưa đạt
80/396 = 20,2%
Trong đó:
- Nhà trẻ
10/45 = 22,2%

- Mẫu giáo
70/351 = 19,9%
- Riêng 5 tuổi
13/109 = 11,9%
Nhìn vào kết quả bên trên, tôi thấy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ của
nhà trường còn ở mức độ thấp, trẻ ra lớp chưa đủ so với kế hoạch đề ra, tỷ lệ trẻ
suy dinh dưỡng còn chiếm tỷ lệ cao.
III – NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến:
Tôi nhận thấy các giải pháp truyền thống đã và đang áp dụng tại đơn vị
cũng đã mang lại hiệu quả, tuy nhiên trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ giáo
viên chưa linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp, sắp xếp môi trường lớp học
5


chưa khoa học, chưa phát huy được hết tính tích cực của trẻ, trẻ chưa có nhiều
cơ hội được trải nghiệm. Do vậy tôi đã nghiên cứu, tìm tòi và đưa ra sáng kiến
có tính mới, có tính sáng tạo hơn, để nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
tại trường mầm non xã Hòa Sơn.
1.1. Xây dựng kế hoạch chuyên môn
Đứng trước thực trạng tình hình của nhà trường, ngay từ đầu năm học tôi
đã phối hợp với Ban giám hiệu phân công giáo viên dạy các lớp phù hợp với yêu
cầu của từng độ tuổi và xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học phù hợp
vời tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường trình các cấp phê duyệt.
Chỉ đạo các tổ chuyên môn và các giáo viên xây dựng kế hoạch chuyên
môn của tổ, của lớp mình phụ trách và được nhà trường phê duyệt mới thực
hiện. Trong quá trình thực hiện có thể bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với kế
hoạch từng tháng. Qua đó Ban giám hiệu có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và có
biện pháp chỉ đạo kịp thời tốt hơn
Giao chỉ tiêu chất lượng cho từng độ tuổi đê các giáo viên xây dựng kế

hoạch nhiệm vụ năm học cảu lớp mình cho phù hợp, cụ thể:
- Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp tại trường: 415/415 = 100%
Trong đó:
+ Nhà trẻ: 62/62 = 100%
+ Mẫu giáo: 353/353 = 100%
+ Riêng 5 tuổi: 109/109 = 100%
- Chất lượng chăm sóc:
Tổng số trẻ được cân đo: 415/415 = 100%
Trong đó:
+ Số trẻ được theo dõi biểu đồ tăng trưởng: 415/415 = 100%
+ Số trẻ cân nặng bình thường: 392/415 = 94,5%
+ Số trẻ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân: 23/415 = 5,5%
Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân so với đầu năm là: 11,8%
+ Số trẻ cao bình thường: 387/415 = 93,3%
+ Số trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi: 28/415 = 6,7%
Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi so với đầu năm là: 10,6%
- Chất lượng giáo dục:
Tổng số trẻ được đánh giá: 415/415 = 100%
+ Xếp loại đạt yêu cầu: 392/415 = 94,5%
Trong đó: Nhà trẻ: 57/62 = 91,9%
Mẫu giáo: 353/353 = 100%
Riêng 5 tuổi: 109/109 = 100%
+ Chưa đạt: 23/415 = 5,5%
Trong đó: Nhà trẻ: 3/62 = 8,1%
Mẫu giáo: 0
Riêng 5 tuổi: 0
6


Chất lượng giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối

năm. Với biện pháp này sẽ thúc đẩy giáo viên trăn trở, tìm tòi có nhiều phương
pháp linh hoạt sáng tạo trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ để đạt chỉ tiêu đề
ra theo kế hoạch.
1.2. Chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non và đổi mới
phương pháp giảng dạy theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
Nói đến việc giáo dục ở trường thì không thể nào không nói đến việc thực
hiện chương trình, chương trình là phương tiện để giáo dục toàn diện cho trẻ. Để
quản lý tốt việc thực hiện chương trình của giáo viên, BGH cần nghiên cứu các
văn bản về hướng dẫn thực hiện chương trình Giáo dục mầm non theo Thông tư
28/2016/TT-BGDĐT - Sửa đổi Chương trình giáo dục mầm non, riêng đối với
trẻ 5 tuổi cần nghiên cứu thêm quy định về Bộ chuẩn phát triển trẻ em năm tuổi
tại thông tư số: 23/TT-BGD&ĐT ngày 22/7/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Để thực hiện tốt chương trình GDMN theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
đòi hỏi giáo viên phải có nhiều phương pháp, hình thức, thủ thuật hấp dẫn, thu
hút trẻ vào các hoạt động. Cô giáo chỉ là người hướng dẫn cho trẻ được trải
nghiệm, suy ngẫm và tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh. Tạo nhiều tình
huống giúp trẻ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong các hoạt động.
Khi tổ chức tất cả các hoạt động từ: ăn, ngủ, học tập, vui chơi, lao động, vệ
sinh…. của trẻ đều phải hướng về đứa trẻ, vì lợi ích của mỗi đứa trẻ đảm bảo
mỗi đứa trẻ đều có cơ hội được phát triển một cách tốt nhất và thành công. Giáo
viên chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ được chiếm lĩnh kiến
thức. Từ đó nhằm thúc đẩy giáo viên có cơ hội tìm hiểu sâu về phương pháp
giáo dục trẻ qua các hoạt động hàng ngày.
Ngay từ đầu năm học BGH nhà trường đã cùng tổ trưởng chuyên môn xây
dựng kế hoạch giáo dục năm học của nhà trường, Sau đó đã hỗ trợ tài liệu về
việc thực hiện chương trình cho các tổ chuyên môn, các giáo viên lên kế hoạch
cụ thể cho hoạt động chuyên môn, tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên,
hướng dẫn giáo viên cách lập các kế hoạch giáo dục, lựa chọn các mục tiêu đưa
vào từng chủ đề phù hợp.

Chỉ đạo giáo viên lồng ghép các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, vệ
sinh cá nhân, giáo dục kỹ năng sống, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục
sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả vào các hoạt động giáo dục giúp trẻ tăng
cường thực hành trải nghiệm để hình thành những hành vi ứng xử đúng đối với
môi trường, thói quen tiết kiệm điện, nước trong sinh hoạt, thực hiện đúng các
quy định an toàn giao thông. Hướng dẫn giao viên lồng ghép, đưa các trò chơi
dân gian, các bài hát dân ca, hò vè vào các hoạt động mọi lúc mọi nơi.
Ví dụ: Ở chủ điểm Tết và mùa xuân
Khi xây dựng kế hoạch giáo dục chủ đề, tôi hướng dẫn giáo viên đưa các
mục tiêu về các lễ hội của địa phương mình vào thực hiện như hội hát si hát
lượn vào ngày Rằm tháng Giêng ở Bắc Lệ, hội Đền Bắc Lệ, Lễ hội Trò Ngô xã
7


Yên Thịnh, hội đền Kỳ cùng, hội chùa Tân Thanh... và đưa các trò chơi dân
gian, các bài hát dân ca vào các hoạt động hằng ngày để giáo dục trẻ thêm yêu
quê hương và biết giữ gìn bản sắc văn hóa của địa phương.
Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm tích cực hoá các
hoạt động dạy học, khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo, dạy học tập
trung vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm để phát triển mọi khả năng của trẻ, tổ chức
hướng dẫn trẻ học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình và có niềm tin
trong lao động, học tập.
Ví dụ: Hoạt động có mục đích ở giờ hoạt động ngoài trời
Khi cho trẻ ra quan sát vườn hoa, cô giáo có thể chia trẻ thành 3 nhóm để
quan sát, thảo từng khu vực hoa trong vườn cô đã chuẩn bị sẵn các điều kiện. Cô
gợi ý hướng dẫn từng nhóm trẻ thảo luận khoảng 2 phút sau đó mời đại diện
từng nhóm trẻ lên trình bày những hiểu biết của mình về những đối tượng trẻ
vừa quan sát được.Việc làm này đã giúp trẻ được trải nghiệm, khám phá những
tri thức mới giúp trẻ cảm thấy thoải mái và tích cực hoạt động.
Yêu cầu giáo viên khi xây dựng kế hoạch giáo dục, xác định mục tiêu, nội

dung trọng tâm kiến thức, kỹ năng bài học và các hình thức tổ chức hoạt động
trong tiết dạy. Quá trình thực hiện phải xây dựng và lựa chọn hệ thống câu hỏi
và yêu cầu bài tập phù hợp với đối tượng trẻ. Chọn hình thức tổ chức tiết học
phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của lớp, phù hợp với chủ đề và lĩnh vực đã
chọn.
Ví dụ: Với Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ lớp 5 tuổi: Dạy trẻ kể chuyện
sáng thì giáo viên có thể yêu cầu trẻ sắp xếp tranh, kể chuyện theo nội dung
tranh, đặt tên chuyện. Nếu mục đích của bài dạy chủ yếu rèn kỹ năng thì coi
trọng cách học cá nhân của trẻ.
Đổi mới phương pháp là cách học “Lấy trẻ làm trung tâm” dựa trên sự
hiểu biết, hứng thú nhu cầu của trẻ mà ta đưa ra nội dung bài dạy, kiến thức sao
cho phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi. Hình thức tổ chức tiết học đa dạng, phong
phú tuỳ vào sự sáng tạo của giáo viên để tiết học trở nên nhẹ nhàng, không gò
bó, áp đặt trẻ theo đúng tính chất: “Học bằng chơi, chơi bằng học” của trẻ mầm
non. Trong năm học qua, có rất nhiều cô giáo có sự linh hoạt, sáng tạo về
phương pháp giảng dạy theo hướng lấy trẻ làm trung tâm
Ví dụ: Trong hoạt động chung ở lĩnh vực phát triển thẩm mỹ - chủ đề Tết
và mùa xuân, dạy múa bài hát Mùa xuân đến rồi. Cô giáo đã trang trí sân khấu
rất ấn tượng, đẹp mắt phù hợp với chủ đề. Để gây hứng thú cho trẻ cô đã đóng
vai cô tiên Mùa xuân ngủ quên để trẻ đánh thức dậy chào mùa xuân đến. Cô tiên
Mùa xuân rất ngọt ngào, dịu dàng cùng hai bé thể hiện vài điệu múa chào đón
mùa xuân và dẫn dắt vào bài hát rất nhẹ nhàng. Với tác phong sư phạm và
phương pháp giảng dạy sáng tạo này đã kích thích sự tò mò, hứng thú của trẻ
vào giờ dạy, trẻ nhiệt tình hợp tác cùng cô trong suốt tiến trình giờ dạy. Một tiết
học rất sinh động, nhẹ nhàng cuốn hút trẻ, đảm bảo mục tiêu đề ra và đáng để
đồng nghiệp học hỏi (Hình 1).
8


Bên cạnh đó, chỉ đạo giáo viên thường xuyên khuyến khích trẻ mạnh dạn

tham gia các hoạt động cùng cô, giúp trẻ tự tin trong giao tiếp. Tạo sự gần gũi
giữa cô và trẻ, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ khi bước vào hoạt động, trẻ biết hoạt
động theo nhóm. Giúp trẻ chủ động, tích cực trong quả trình chiếm lĩnh tri thức,
tạo cơ hội cho tất cả các trẻ đều được tham gia vào quá trình nhận thức, tìm tòi,
khám phá tri thức, trẻ được thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ của trẻ thông qua các
hoạt động cụ thể. Sau đây là một số hình ảnh về các hoạt động trải nghiệm, thảo
luận theo nhóm của trẻ (Hình 2).
1.3. Tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học và đồ chơi
Như chúng ta đã biết, trẻ mầm non “học bằng chơi, chơi bằng học”, chúng
hiểu và tiếp thu mọi điều về thế giới xung quanh thông qua việc tìm hiểu, khám
phá các sự vật, hiện tượng…Chúng học cách làm người qua việc thể hiện tình
cảm, thái độ đối với các đồ vật, đồ dùng, đồ chơi…
Đối với trẻ mầm non, đồ dùng đồ chơi là thứ không thể thiếu trong cuộc
sống của trẻ. Thông qua đồ dùng đồ chơi trẻ có thể tìm tòi, khám phá, trẻ được
thao tác với các đồ vật… qua đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Khi
được tiếp xúc với đồ dùng đồ chơi trẻ hoạt động một cách chủ động, tích cực và
sáng tạo theo khả năng và nhu cầu của trẻ, kích thích sự tò mò, ham hiểu biết
tìm tòi khám phá các sự vật, hiện tượng và thế giới xung quanh.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động góc:
Để tổ chức giờ hoạt động góc có hiệu quả, chất lượng thì giáo viên cần
chuẩn bị đầy đù các đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động. Các loại đồ dùng đồ
chơi thu nhỏ như các phương tiện giao thông, các con vật, các loại hoa, các đồ
dùng gia đình... khi trẻ được thao tác, được cầm nắm giúp trẻ phát triển về trình
độ nhận thức, tình cảm thẩm mỹ. Ngoài ra trẻ còn hứng thú va tích hoạt động
nếu như có đủ đồ dùng đồ chơi.
Chính vì vậy, là CBQL cần có những biện pháp thiết thực làm tốt công tác
tham mưu và công tác xã hội hoá giáo dục. Trong điều kiện nhà trường còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tôi mạnh dạn đề xuất
ý kiến tham mưu với cấp trên quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, sửa chữa phòng
học, cung cấp thêm trang thiết bị đồ dùng dạy học, đồ chơi để tạo điều kiên cho

trường và giáo viên thực hiện tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ. Tham mưu với
chính quyền địa phương, hội cha mẹ học sinh và các nhà hảo tâm tăng cường
đầu tư trang thiết bị giáo dục, tài liệu, học liệu, phương tiện cho trẻ, đặc biệt đối
với các lớp mẫu giáo 5 tuổi theo danh mục và tiêu chuẩn kĩ thuật Đồ dùng, đồ
chơi, thiết bị dạy học tối thiểu cho giáo dục mầm non do Bộ GD&ĐT ban hành
tại Thông tư số 02/2010/TT-BGDĐT ngày 11/02/2010 và Quyết định số
3141/QĐ-BGDĐT ngày 30/7/2010.
Khuyến khích giáo viên tận dụng những nguyên vật liệu phế thải sẵn có ở
địa phương để làm đồ dùng dạy học, đồ chơi để phục vụ cho các hoạt động giáo
dục trẻ. Trong năm học nhà trường đã tổ chức Hội thi tự làm đồ dùng đồ chơi
9


chào mừng ngày nhà giáo Việt nam 20/11 và phát động phong trào tự làm đồ
dùng hằng tháng, qua đó số lượng đồ dùng đồ chơi tự tạo tăng lên (Hình 3).
Làm tốt công tác tuyên truyền, kết hợp với phụ huynh học sinh quyên góp
những đồ dùng, đồ chơi, những quyển sách, tranh truyện cũ, các nguyên vật liệu
đã qua sử dụng, nguyên liệu có trong thiên nhiên... có thể tái chế làm những đồ
dùng, đồ chơi phong phú. Ví dụ: chai nhựa, vỏ lon, lọ, tre, lốp xe, gỗ...
Chỉ đạo các lớp phối hợp với phụ huynh cùng làm đồ dùng, đồ chơi: Để
làm được những bộ đồ chơi phong phú bền đẹp có hiệu quả cao luôn cần sự
quan tâm giúp đỡ của các đoàn thể đặc biệt là các bậc phụ huynh học sinh. Có
rất nhiều phụ huynh có khả năng vẽ đẹp, phụ huynh làm thợ mộc, phụ huynh
làm thợ hàn, gia đình phụ huynh có tre, gỗ.... Ví dụ: Khi làm bập bênh bằng gỗ
và lốp xe, để chắc chắn và bền đẹp thì các cô giáo nhờ phụ huynh cưa lốp xe ô
tô, cắt ván đủ kích thước rồi dùng khoan gắn đinh, ốc vít tạo thành những chiêc
bập bênh, sau đó, sơn màu cho đẹp mắt. Những đồ chơi lạ này khiến trẻ rất thích
thú khi chơi.
Chỉ đạo giáo viên hướng dẫn trẻ cách sử dụng, bảo quản, biết lấy, cất đồ
dùng, đồ chơi gọn gàng ngăn nắp.

Ví dụ: Khi cho trẻ chơi tự chọn trong lớp hoặc trong giờ hoạt động góc thì
các cô giáo cần giáo dục đạo đức chơi cho trẻ như trước khi chơi càn lấy đồ chơi
nhẹ nhàng, trong khi chơi không được quăng ném đồ chơi, sau khi chơi xong
nhắc trẻ xếp đồ chơi gọn gàng đúng nơi quy định
1.4. Bồi dưỡng về kỹ năng và phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ
Nhà trường không ngừng bồi dưỡng nâng cao năng lực sư phạm, chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên về kỹ năng và phương pháp chăm sóc,
giáo dục trẻ. Việc bồi dưỡng về kỹ năng và phương pháp chăm sóc, giáo dục
phải thông qua hình thức tổ chức các hội thi, hội thảo, thăm lớp, dự giờ đột xuất,
định kỳ. Từ đó, đánh giá phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng thích
hợp, đối với giáo viên có tay nghề còn non, giáo viên mới ra trường trong năm
cần chú trong bồi dưỡng thêm phương pháp, kỹ năng sư phạm, cách tổ chức
hoạt động giáo dục một cách sáng tạo hiệu quả.
Khi tôi đến thăm lớp, dự giờ một số giáo viên mới ra trường, thực sự
chuyên môn của các cô còn rất hạn chế. Tổ chức một hoạt động mà không hề thu
hút được sự chú ý của trẻ, cô nói quá nhiều, trẻ không hứng thú, không tích cực
hoạt động. Tiết học khiến cả người dạy và người dự cảm thấy mệt mỏi, nhàm
chán. Tôi đã tiến hành góp ý về những ưu điểm, nhược điểm của họ, tôi đã tư
vấn cho họ về tác phong sư phạm khi đứng lớp, cách lựa chọn hình thức tổ chức
sao cho phù hợp với từng bài dạy, cách gây hứng thú cho trẻ để trẻ tích cực hoạt
động, không áp đặt trẻ, phải tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, tự tin cùng trải
nghiệm cùng cô và bạn. Sau khi được tư vấn thêm kiến thức, kỹ năng sư phạm
nhiều cô giáo rất tiến bộ về chuyên môn và phương pháp giảng dạy.

10


Ví dụ: Cô giáo Ánh giáo viên chủ nhiệm lớp 3 tuổi A dạy lĩnh vực phát
triển nhận thức bài Một số loại quả, chủ đề Thực vật. Cô tổ chức dưới hình thức
“Hội thi hoa quả tranh tài”, cô chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng, đồ chơi cho giờ dạy.

Hình thức vào bài cô cho trẻ biểu diễn thời trang về các loại quả trên nền nhạc
sôi động, trẻ rất hào hứng tham gia. Trong suốt tiến trình giờ dạy cô dẫn dắt
logic, cuốn hút trẻ vào giờ học làm nổi bật lên chủ đề Hội thi cô đưa ra. Mặc dù
tiết dạy chưa được hoàn hảo, còn vướng mắc về khâu sử dụng đồ chơi cho trẻ
chơi. Nhưng so với các tiết học trước đó cô giáo đã biết cách thu hút trẻ vào giờ
học, tác phong sư phạm linh hoạt hơn (Hình 4.)
Khuyến khích những giáo viên khá, giỏi thường xuyên thăm lớp dự giờ
những giáo viên yếu để giúp đỡ đồng nghiệp về năng lực, kỹ năng, tác phong sư
phạm, cách soạn giáo án sáng tạo theo từng chủ đề và phù hợp với trẻ lớp mình.
Bên cạnh đó, các Hội thi là đỉnh cao của phong trào thi đua dạy tốt, học
tốt. Vì vậy, phải có kế hoạch chỉ đạo thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học
các hội thi như: Hội thi làm đò dùng đồ chơi tự tạo, Hội thi trang trí lớp, Hội thi
Giáo viên dạy giỏi, thi cô nuôi giỏi. Qua các hội thi giúp giáo viên rút ra được
nhiều kinh nghiệm về việc nâng cao chất lượng giáo dục và là dịp để giáo viên
thể hiện những tài năng của mình và có sự học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, việc tổ
chức các hội thi cũng tạo được mối quan hệ thân ái, giúp đỡ nhau trong tập thể
giáo viên nhà trường để cùng nhau tiến bộ.
Để các hội thi thành công và có kết quả tốt, tôi xây dựng kế hoạch cụ thể
cho từng tháng, thông báo với toàn thể giáo viên, nhân viên để họ nắm được nội
dung, thời gian thi.
Ví dụ:
- Thi trang trí nhóm lớp: 2 lần/năm học (tháng 9/2018 và tháng 02/2019)
- Thi Đồ dùng đồ chơi tự tạo: Tháng 10/2018
- Thi giáo viên giỏi, cô nuôi giỏi cấp trường: 2 lần/năm học (tháng
11/2018 và tháng 3/2019)
Sau mỗi hội thi, nhà trường có tổng kết rút kinh nghiệm, khen thưởng các
cá nhân có thành tích xuất sắc. Chính vì làm tốt vấn đề trên nên phần nào cũng
đã động viên tinh thần của giáo viên, nâng dần chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ
trong nhà trường
1.5. Chỉ đạo thực hiện tốt chương trình lớp mẫu giáo ghép

Năm học 2018-2019, trường mầm non xã Hòa Sơn có 7 lớp mẫu giáo
ghép nằm ở các điểm trường lẻ. Một trong những khó khăn lớn nhất của nhà
trường là phòng học ở các điểm trường chật hẹp, phải học nhờ nhà văn hoá của
thôn và trường Tiểu học. Để khắc phục khó khăn này và cũng là tạo điều kiện
thuận lợi để triển khai tốt chương trình, nhà trường đã tuyên truyền với phụ
huynh và kêu gọi sự ủng hộ của các tổ chức doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đầu
tư mua sắm bổ sung các thiết bị, đồ dùng phù hợp với yêu cầu của chương trình.
Đồng thời phát động phụ huynh, giáo viên tích cực làm đồ dùng đồ chơi, sửa
chữa cơ sở vật chất để đảm bảo cảnh quan sư phạm, làm phong phú hơn phương
11


tiện để trẻ tham gia hoạt động. Năm học qua điểm trường Hố Mười được các
nhà hảo tâm ủng hộ một máy lọc nước, mười chiếc chăn len và một số đồ dùng
đồ chơi cần thiết.
Đối với giáo viên ban giám hiệu chúng tôi chọn những giáo viên có trình
độ, có kinh nghiệm để giáo viên thực hiện tốt chương trình GDMN với lớp ghép
có hiệu quả hơn
Trên cơ sở kế hoạch chung của nhà trường, tôi đã chỉ đạo các tổ chuyên
môn, các cá nhân tự xây dựng kế hoạch giáo dục ghép của lớp mình phù hợp với
các độ tuổi ở lớp mình, lựa chọn các mục tiêu từng độ tuổi đưa vào các chủ đề
phù hợp. Trong quá trình thực hiện, giáo viên có thể thay đổi, điều chỉnh, bổ
sung kế hoạch lại cho phù hợp mà vẫn phải đảm bảo thực dạy đủ 35 tuần.
Ví dụ: Đối với lớp Mẫu giáo lớn ghép ba độ tuổi (3,4,5 tuổi) khi xây
dựng kế hoạch với lĩnh vực phát triển thể chất: Nhóm 5 tuổi: Bật xa 50cm;
Nhóm 4 tuổi: Bật xa 35-40cm, nhóm 3 tuổi: Bật xa 20-25cm. Điều quan trọng
nhất khi xây dựng kế hoạch đối với lớp ghép là chọn các nội dung phải mang
tính tương đồng cho dễ thực hiện.
Ở mỗi chủ đề chúng tôi luôn khuyến khích giáo viên phối hợp với nhau
trong lớp cùng lựa chọn các chủ đề nhánh, chọn các nội dung trong một hoạt

động sao cho phù hợp với nhu cầu và nhận thức của trẻ ở lớp. Trong quá trình
khám phá chủ đề giáo viên tăng cường cho trẻ tham gia các hoạt động khám
phá, trải nghiệm. Trong quá trình khám phá chủ đề, Ban giám hiệu luôn quan
tâm đến các hoạt động giáo viên triển khai dưới lớp và góp ý, rút kinh nghiệm
kịp thời. Cuối mỗi chủ đề chúng tôi lại ngồi lại với nhau để rút kinh nghiệm xem
các mục tiêu, nội dung và hoạt động giáo viên lựa chọn đối với trẻ ở từng độ
tuổi có phù hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ không và hướng điều chỉnh.
Bên cạnh đó, tôi cùng các tổ trưởng chuyên môn tăng cường đi thăm lớp,
dự giờ các lớp ghép để tư vấn giúp cho giáo viên thấy những mặt được và những
mặt hạn chế của mình trong việc vận dụng phương pháp và cách chọn nội dung
để tổ chức cho trẻ ở các độ tuổi vào quá trình giảng dạy. Qua đó giúp giáo viên
hiểu sâu hơn về về đổi mới phương pháp đối với lớp ghép sao cho hiệu quả, để
100% trẻ trong lớp đều được học kiến thức phù hợp với sự phát triển trẻ từng độ
tuổi, giúp giáo viên chủ động, mạnh dạn, tích cực, sáng tạo hơn trong hoạt động
giảng dạy
1.6. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá, thăm lớp dự giờ giáo viên
Kiểm tra đánh giá là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng nhiều
hình thức, kiểm tra theo kế hoạch, kiểm tra đột xuất. Kiểm tra theo kế hoạch
được100% giáo viên; kiểm tra đột xuất giáo viên khi có những biểu hiện bất
thường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ trình
Phòng giáo dục và Đào tạo huyện ký duyệt. Kế hoạch vừa đảm bảo quy định của
ngành, vừa phù hợp với tình hình chất lượng đội ngũ. Đảm bảo số lượng giáo
12


viên được kiểm tra theo kế hoạch. Nội dung kiểm tra khá phong phú và đa dạng
như kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo viên, kiểm tra công tác bán trú, kiểm
tra hoạt động chuyên môn của các tổ, kiểm tra các hoạt động học tập của trẻ....
Các nội dung kiểm tra theo kế hoạch đều được niêm yết công khai hằng tháng để

mọi người cùng nắm được tình thần và chuẩn bị.
Ví dụ về kiểm tra hoạt động sư phạm của giáo viên:
Mỗi một giáo viên được kiểm tra 1 lần/học kỳ. Kiểm tra đủ 4 nội dung:
Việc thực hiện quy chế chuyên môn, trình độ tay nghề, kết quả giảng dạy, việc
thực hiện các công tác khác. Sau mỗi lần kiểm tra cán bộ kiểm tra đều chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế từng nội dung và có những tư vấn kịp thời với đối
tượng kiểm tra để có những biện pháp khắc phục những thiếu xót trong công
việc và thực hiện tốt hơn trong lần kiểm tra sau.
Chỉ đạo tổ kiểm tra nội bộ tăng cường kiểm tra đột xuất các hoạt động học
tập của trẻ để đánh giá về nền nếp, chế độ sinh hoạt và việc bảo quản đồ dùng,
sách vở, sản phẩm của trẻ. Với việc làm này giúp giáo viên luôn nêu cao tinh
thần làm việc, không cắt xén chế độ sinh hoạt của trẻ; thường xuyên rèn luyện
nền nếp cho trẻ trong các hoạt động, nâng cao hiệu quả chăm sóc giáo dục trẻ.
Qua công tác kiểm tra, dự giờ đã uốn nắn một số sai lệch của giáo viên
trong công tác giáo dục. Từ đó, có biện pháp tư vấn cụ thể giúp cho giáo viên
sữa chữa kịp thời. Trình độ tay nghề của đội ngũ được nâng lên rõ rệt. Nền nếp
lớp học được duy trì ổn định, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được chuyển
biến đáng kể, càng tăng thêm niềm tin yêu của phụ huynh đối với nhà trường.
1.7. Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm
Môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với việc học tập và tiếp thu kiến thức của trẻ. Trẻ em vốn rất hiếu kỳ, chúng
tò mò mong muốn được khám phá tất cả mọi vật xung quanh chúng. Những hình
ảnh, những ấn tượng mà trẻ thu nhận được trong những năm tháng tuổi thơ sẽ
hằn sâu trong trí nhớ suốt cả cuộc đời của trẻ. Những điều đó ảnh hưởng rất
nhiều đến sự phát triển sau này của trẻ. Chính vì vậy, cần phải trang bị cho trẻ
một thế giới tự nhiên, một môi trường học tập tốt nhất ở ngay tại khu vực lớp và
trường của trẻ.
Từ đầu năm học, ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo các giáo viên cùng
làm những chiếc đèn lồng từ ống hút, dây thép để trang trí sân trường, tạo một

môi trường không gian ngoài lớp học thêm sinh động thu hút ánh mắt của trẻ
ngay khi tới cổng trường học (Hình 5).
Đối với các lớp, thường xuyên nhắc nhở các giáo viên bố trí, sắp xếp các
góc, trưng bày đồ dùng, đồ chơi sao cho hấp dẫn đẹp mắt mà vẫn gọn gàng ngăn
nắp. Bố trí góc yên tĩnh xa góc hoạt động ồn ào. Góc xây dựng và góc phân vai
ở gần nhau và xa góc học tập, góc tạo hình, góc văn học và góc âm nhạc ở gàn
nhau, góc thiên nhiên ở ngoài hiên. Các góc có khoảng rộng, cách nhau hợp lý
13


để bảo đảm an toàn và vận động của trẻ. Đồ dùng đồ chơi trong từng góc được
trưng bày sao cho trẻ dễ thấy, dễ lấy, dễ lựa chọn, những đồ chơi gồm nhiều bộ
phận cần phải để theo bộ với nhau. Có thể thay đổi vị trí hoặc sắp xếp lại một số
góc sau mỗi chủ điểm để tạo cảm giác mới lạ kích thích sự hứng thú của trẻ.
Việc đặt tên cho góc cần phải đơn giản, dễ hiểu phù hợp với nội dung từng chủ
điểm đang thực hiện.
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề bản thân thì góc học tập sách có thể đặt tên
là “Thư viện của bé” nhưng ở chủ đề “Thế giới thực vật” góc học tập sách có thể
đổi tên là "Thư viện về các loài cây và hoa" sang chủ “Động vật” thì góc này có
thể đổi tên là “Thư viện về các con vật đáng yêu”
Đồ dùng trang trí các góc phải đẹp, hấp dẫn và được thay đổi theo nội
dung của từng chủ đề, sử dụng các khoảng trống của mảng tường để trang trí,
không trang trí làm che khuất cửa sổ, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu vào, các
mảng tường nhà trường thường quét vôi màu sáng tạo cảm giác ấm áp, dễ
chịu… Đặc biệt phát huy sự linh động sáng tạo của từng giáo viên trong công
tác xây dựng môi trường lớp học nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất.
1.8. Tổ chức tốt Hội thi “Trải nghiệm cùng Bé yêu”.
Hoạt động trải nghiệm là một cách học thông qua thực hành, với quan
niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa
trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Như

vậy, thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ được cung cấp kiến thức, kỹ năng
từ đó hình thành những năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm.
Năm học 2018-2019, trường mầm non xã Hòa Sơn đã tổ chức Hội thi
“Trải nghiệm cùng Bé yêu” nhằm cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về
phong tục, tập quán của cha ông về ngày tết Hàn thực 03/3 âm lịch. Kích thích
trẻ tư duy, chủ động, tích cực như: tìm tòi, khám phá, trải nghiệm, thực hành
sáng tạo, hợp tác trò chuyện và chia sẻ ý tưởng cùng các bạn.
Mở đầu buổi trải nghiệm là các tiết mục văn nghệ dự thi của 15 lớp mẫu
giáo trong nhà trường. Các tiết mục được các cô giáo tập luyện cho các con công
phu và đặc sắc. Qua đó giúp trẻ thêm mạnh dạn, tự tin thể hiện mình trên sân
khấu, đặc biệt là các bé đến từ điểm trưởng xa xôi (Hình 6).
Sau đó là phần thực hành trải nghiệm, trong buổi trải nghiệm, cô và trò
nhà trường đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo địa
phương, các nhà đền ủng hộ tiền, hoa trang trí sân khấu, đặc biệt là sự quan tâm
ủng hộ của các bậc phụ huynh học sinh. Các giáo viên đã kêu gọi phụ huynh ủng
hộ các nguyên vật liệu như gạo nếp, đỗ xanh, lá chuối, lá cẩm các màu, gấc,
nghệ để làm thêm một số loại xôi cẩm, bánh dày, bánh rợm. Trước ngày thi nhờ
phụ huynh rửa lá chuối, lá cẩm sạch sẽ, ngâm gạo, nghiền bột, mượn bếp ga để
đun nấu. Mỗi một lớp cử 5 phụ huynh khéo tay đến cùng hỗ trợ giúp đỡ cô và
trẻ trong hoạt động trải nghiệm. Các phụ huynh chủ yếu giúp cô giáo làm xôi,
làm bánh dày, bánh rợm và hỗ trợ trẻ luộc bánh trôi, bánh chay (Hình 7).
14


Mỗi nhóm, lớp tổ chức theo các hình thức khác nhau nhưng đã tạo cho trẻ
có 1 sân chơi vui vẻ, thoải mái, trẻ được hóa thân làm những công việc bắt
chước người lớn, được rèn luyện và củng cố những kĩ năng đã học, trẻ được
thực hành trải nghiệm làm bánh trôi bánh chay như: Nhào, nặn bột, lăn bột, véo
bột, làm lõm để cho nhân rồi dùng kỹ năng xoay tròn để xoay những chiếc bánh
thật tròn đều. Sau khi được người lớn hỗ trợ luộc bánh và bày ra đĩa trẻ bắt đầu

trang trí hoa, quả cắm thìa, dĩa... Qua hoạt động mà trẻ được trải nghiệm trong
ngày hội, trẻ đã lĩnh hội được kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống như: Kĩ
năng lao động, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác trong nhóm
bạn bè..., trẻ vui tươi, sảng khoái, phấn khởi với sản phẩm do chính bàn tay
mình tạo ra (Hình 8).
Sau khi hoàn thành, các lớp trưng bày các sản phẩm ra sân khấu rất đẹp
mắt và hết sức phong phú. Ban giám khảo đã tiến hành tham quan, chấm điểm
và chọn ra được rất nhiều giải thưởng, để tạo sự công bằng về trình độ nhận thức
của trẻ từng lứa tuổi, ban giám khảo hội thi đã thống nhất lựa chọn mỗi khối lớp
gồm một giải nhất, một giải nhì và một giải ba, kết quả cụ thể:
- Giải nhất: Lớp 5 tuổi C, 4 tuổi E, 3 tuổi B
- Giải nhì: Lớp 5 tuổi B, 4 tuổi G, 3 tuổi A
- Giải ba: Lớp 5 tuổi D, 4 tuổi B, 3 tuổi D
Giải tiết mục văn nghệ xuất sắc nhất: Lớp 5 tuổi C
Cuối cùng, các cô giáo cùng các bậc phụ huynh cùng trưng bày thành một
bữa tiệc thịnh soạng để toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên, các bậc phụ huynh
và các bạn nhỏ cùng thưởng thức những món ăn truyền thống trong dịp tết. Đây
là cơ hội để cô và trẻ được giao lưu, học hỏi các cô, các bạn của mình (Hình 9).
Có thể thấy, qua buổi trải nghiệm các bé được làm quen với rất nhiều các
loại bánh, xôi của địa phương, được cùng cô làm một số loại bánh đơn giản và
được cùng bố mẹ, ông bà tham gia vào các hoạt động tập thể, từ đó các con có
được một số kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp trong các hoạt động tập thể. Các
bé, các bậc phụ huynh thực sự rất hào hứng với buổi trải nghiệm này, được
chứng kiến sự trưởng thành của các con, từ đó tạo thêm lòng tin yêu, sự ủng hộ
nhiệt tình của phụ huynh đối với trường mầm non, với ngành giáo dục.
1.9. Tăng cường công tác bồi dưỡng và tuyên truyền cho đội ngũ giáo
viên, nhân viên về kiến thức nâng cao chất lượng dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm trong trường mầm non
Nhà trường tạo điều kiện cho 100% nhân viên nấu ăn được tham gia tập
huấn kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm do Phòng giáo dục và Đào tạo tổ

chức.
Tuyên truyền bồi dưỡng kiến thức, cập nhập thông tin về vệ sinh dinh
dưỡng an toàn thực phẩm thường xuyên cho đội ngũ cấp dưỡng, giáo viên mầm
non. Tập luyện bồi dưỡng và chỉ đạo thực hiện tốt các công tác nâng cao chất
15


lượng giáo dục và vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh nhóm lớp, cá nhân và vệ sinh môi
trường.
Chỉ đạo tổ chức tốt hội thi cô nuôi giỏi cấp trường (Hình 10) và giúp đỡ tổ
nuôi tham gia hội thi Cô nuôi giỏi cấp huyện. Bằng những kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn, cả ba cô nuôi tham gia hội thi cấp huyện đều đạt được ba giải cá
nhân gồm hai giải A và một giải B. Đó là niềm vinh dự rất lớn của nhà trường trong
năm học 2018-2019 (Hình 11).
Chỉ đạo giáo viên tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng vào chương trình
giảng dạy theo các chủ đề và các môn học, các hoạt động hằng ngày.
Ví dụ 1: Tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng – sức khỏe vào chủ đề Thế
giới thực vật. Ở chủ đề này chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp những nội dung
sau:
- Nhận thức: Làm quen với các món ăn từ rau, củ, quả, các chất dinh dưỡng
từ các món ăn.
- Hành vi văn minh trong ăn uống: Biết mời cô, mời các bạn trước khi ăn;
ngồi ăn ngay ngắn, không co chân lên ghế; cầm thìa bằng tay phải tự xúc ăn gọn
gàng, tránh làm rơi vãi thức ăn, nếu lỡ đánh rơi cơm thì nhặt cơm vào đĩa, ăn từ
tốn, nhai kỹ, ăn hết suất ăn, không nói chuyện trong khi ăn, không chạy nhảy sau
khi ăn.
- Thói quen tự phục vụ trong sinh hoạt hàng ngày tại trường: Tự cất, dọn đồ
dùng ăn uống sau khi ăn, biết lau miệng, xúc miệng
- Thói quen tốt về vệ sinh cá nhân: Đi vệ sinh đúng nơi qui định, giữ gìn vệ
sinh môi trường như không khạc nhổ nơi công cộng, không vứt rác bừa bãi

Ví dụ 2: Khi tổ chức hoạt động chung ở chủ đề: Thế giới thực vật
Giáo viên có thể cho trẻ chơi, hát múa, đọc thơ, câu đố về các loài rau, củ,
quả để gây hứng thú cho trẻ, cô va trẻ cùng trò chuyện về các chất dinh dưỡng
trong các loại quả, rau, củ. Qua đó để trẻ biết được ích lợi của các món ăn từ thực
vật.
Ví dụ 3: Thông qua giờ ăn trưa
Cô có thể giáo dục dinh dưỡng cho trẻ như: Chúng mình hãy ngửi thật tinh
xem hôm nay lớp mình có những món ăn gì? Trong cơm có chứa chất gì? Thịt cung
cấp chất gì cho cơ thể nhỉ, còn canh bí đỏ có nhiều chất gì?... Các con thấy có ngon
không? Bạn nào ăn giỏi?... Từ những biện pháp nhỏ này đã giúp trẻ cố gắng ăn hết
suất ăn của mình.
Bên cạnh đó, nhà trường thường xuyên kiểm tra đánh giá theo dõi việc thực
hiện của giáo viên, nhân viên có đánh giá xếp loại hàng tháng. Phân công giáo viên
có tay nghề vững kèm giúp đỡ giáo viên còn hạn chế về chuyên môn, những cô
nuôi giỏi kèm những cô nuôi còn chưa có kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác
chăm sóc giáo dục trẻ.
16


Thường xuyên trao đổi thông báo tình hình sức khỏe của trẻ cho phụ
huynh được biết để phối hợp điều chỉnh chế độ ăn uống nhất là đối với trẻ
suy dinh dưỡng, trẻ biếng ăn.
1.10. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với gia đình trẻ
Công tác tuyên truyền ở bậc học mầm non đóng vai trò rất quan trọng,
việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, chăm sóc, nuôi dạy trẻ góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Tuyên truyền để họ hiểu được
trẻ ở lứa tuổi càng nhỏ thì sự tác động để phát triển trí tuệ, thể lực của trẻ sẽ tốt
hơn so với trẻ lớn, từ đó họ sẽ phối kết hợp với nhà trường để giáo dục trẻ.
Vì vậy, tôi đã chỉ đạo các lớp xây dựng kế hoạch tuyên truyền, tích cực
công tác tuyên truyền tới phụ huynh và cộng đồng về nội dung chương trình

chăm sóc, giáo dục trẻ, phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ theo khoa học; các chính
sách của đảng và Nhà nước liên quan đến Giáo dục mầm non. Chỉ đạo các lớp
tuyên truyền qua các cuộc họp phụ huynh; xây dựng góc tuyên truyền của các
nhóm lớp, thường xuyên trao đổi nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ với phụ huynh
trong giờ đón trả trẻ hằng ngày, qua sổ bé ngoan hằng tháng.
Tuyên truyền về công tác tổ chức bán trú ở trường mầm non đồng thời
phổ biến kiến thức nuôi con theo khoa học, về quá trình phát triển của trẻ em,
chế độ ăn như thế nào là đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, công tác vệ sinh an toàn
thực phẩm. Các loại dịch bệnh theo mùa, cách phòng chống tại nạn thương tích
thường gặp ở trẻ. Nâng cao chất lượng tổ chức công tác bán trú, nâng cao chất
lượng bữa ăn, giấc ngủ cho trẻ. Tránh xảy ra ngộ độc, tạo cảm giác yên tâm cho
trẻ và cha mẹ trẻ.
Ví dụ: Qua các góc tuyên truyền tại mỗi nhóm lớp có thông tin, hình ảnh
tuyên truyền tới phụ huynh về các kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ hoặc thông
báo về nội dung hoạt động, các yêu cầu của nhà trường đối với gia đình, hoặc
những nội dung mà gia đình cần phối hợp với cô giáo trong việc thực hiện
chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Hằng ngày, phụ huynh đưa đón con em đến
trường được đọc các bảng tin, cùng thảo luận về các nội dung trong bảng tin
tuyên truyền sẽ nắm rõ các nội dung chăm sóc, giáo dục trẻ để chủ động phối
hợp với nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Bên cạnh đó, yêu cầu giáo viên thường xuyên trao đổi nội dung chăm sóc,
giáo dục trẻ với phụ huynh trong giờ đón trả trẻ hằng ngày, qua sổ bé ngoan
hằng tháng.
2. Đánh giá kết quả thu được
2.1 Tính mới, tính sáng tạo
Tôi nhận thấy sáng kiến mà tôi đưa ra có nhiều tính mới mẻ, trong công
tác chỉ đạo có nhiều sáng tạo góp phần giải quyết những khó khăn, hạn chế trong
công tác chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường.

17



Giáo viên mạnh dạn, tự tin, linh hoạt, sáng tạo không bị gò bó khi tổ chức
các hoạt động cho trẻ, giáo viên có thể sử dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu sẵn có
ở địa phương, để làm phong phú các hoạt động của trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được tìm
tòi, khám phá phát huy năng lực sẵn có của mình, trẻ được hoạt động một cách
thoải mái, kích thích sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ.
Xây dựng các loại kế hoạch giáo dục trẻ có sự sáng tạo, lồng ghép các nội
dung giáo dục trẻ phù hợp để thu hút trẻ. Đặc biệt có sự quan tâm nhiều hơn đối với
các lớp mẫu giáo ghép, các giáo viên xây dựng, thiết kế các hoạt động chia theo từng
độ tuổi để giảng dạy đảm bảo kiến thức phù hợp với độ tuổi của trẻ.
Ngoài công tác tham mưu với các cấp để tăng cường đồ dùng, đồ chơi thì
BGH nhà trường đã chỉ đạo tốt các phong trào tự làm đồ dùng đồ chơi và phát động
các hội thi để giáo viên phát huy sự sáng tạo của mình, qua đó giúp giáo viên có cơ
hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau về chuyên môn.
Việc sắp xếp môi trường học tập trong và ngoài lớp theo hướng lấy trẻ
làm trung tâm được trú trọng và thực hiện có hiệu quả, tạo được môi trường thân
thiện giữa cô và trẻ, trẻ với các bạn, với môi trường xung quanh trẻ, giúp trẻ
thêm yêu quý bạn, cô giáo, yêu trường lớp và thích đi học mỗi ngày.
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để nâng cao
tỷ lệ trẻ ăn bán trú ở trường. Các hoạt động, phong trào của nhà trường đều có
sự chung tay, đóng góp, ủng hộ của các bậc phụ huynh và các nhà hảo tâm đã
góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường, giúp trẻ phát
triển toàn diện về mọi mặt.
Đội ngũ giáo viên, nhân viên có nhận thức đúng đắn của việc giáo dục
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non, lồng ghép các
nội dung giáo dục dinh dưỡng và các hoạt động một cách tích cực, các cô nuôi
đạt thành tích cao trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
Việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non hiện
nay là rất cần thiết và không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục

mầm non nói chung và của mỗi nhà trường nói riêng. Tôi khẳng định sáng kiến
“Công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mầm
non xã Hòa Sơn” góp phần quan trọng để tăng hiệu quả công tác chăm sóc giáo
dục trẻ ở trường mầm non, nó thực sự rất đáng quý và cần được phổ biến, nhân
rộng.
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến:
a) Khả năng áp dụng hoặc áp dụng thử, nhân rộng:
Qua việc triển khai và áp dụng sáng kiến “Công tác chỉ đạo nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ tại trường mầm non xã Hòa Sơn, huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn”, tôi thấy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ được nâng lên. Trẻ
phát huy được khả năng độc lập, sáng tạo của mình và những thói quen hành vi
tốt để sau này trẻ thực sự trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước, vững
bước tiếp nhận những tri thức mới, góp phần xây dựng một xã hội công bằng,
18


dân chủ, văn minh. Vì vậy, sáng kiến này được nhà trường đánh giá cao và công
nhận, triển khai tới toàn thể cán bộ, giáo viên và nhân viên trong trường Mầm
non xã Hòa Sơn.
Ngoài ra, đề tài sáng kiến này còn có thể áp dụng rộng rãi đối với ở các
trường mầm non trên địa bàn tỉnh, vì sáng kiến dễ thực hiện, phù hợp với điều
kiện của các trường mầm non, chi phí thấp, đem lại hiệu quả thiết thực. Tuy
nhiên, tùy theo điều kiện của từng trường mà việc áp dụng sáng kiến đưa vào
thực hiện sẽ có cách làm và hiệu quả khác nhau.
Những điều kiện cần thiết để có thể áp dụng sáng kiến một cách hiệu quả:
+ Cơ sở vật chất: Đảm bảo các điều kiện về đồ dùng, đồ chơi, tài liệu, học
liệu cho trẻ. Ngoài đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị, thiết bị điện tử được cấp phát,
giáo viên tích cực làm nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc,
giáo dục trẻ.
+ Giáo viên: Có kiến thức, kỹ năng và áp dụng các giải pháp thường

xuyên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ; nâng cao hiệu quả giảng dạy theo
hướng lấy trẻ làm trung tâm, góp ý trao đổi kinh nghiệm để sử dụng tốt các biện
pháp gây hứng thú phù hợp với độ tuổi trẻ trong toàn trường
+ Phụ huynh: Quan tâm ủng hộ, chăm lo thường xuyên cho hoạt động
giáo dục của nhà trường, phối hợp cùng nhà trường tổ chức cho trẻ các hoạt
động trải nghiệm, trò chuyện về nội dung hoạt động có hiệu quả tại gia đình và ở
trường.
+ Trẻ: 100% trẻ ở các nhóm lớp tích cực tham gia hoạt động và được đảm
bảo an toàn về thể chất và tình thần.
b) Khả năng mang lại lợi ích thiết thực
Thời gian thực hiện sáng kiến được tôi triển khai áp dụng tại trường mầm
non xã Hòa Sơn bắt đầu từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 4 năm 2019. Qua quá
trình áp dụng các biện pháp trên vào thực tế, đến nay đã đạt được những hiệu
quả sau:
* Hiệu quả kinh tế
Sáng kiến này đều xuất phát từ thực tiễn công việc, được ứng dụng hiệu
quả, mang lại lợi ích thiết thực trong công tác quản lý chỉ đạo. Không chỉ có sự
đầu tư từ các cấp, các ngành mà còn có sự chung tay, quyên góp ủng hộ của các
nhà hảo tâm, các bậc phụ huynh trong các hội thi, các hoạt động của nhà trường.
Những bộ đồ dùng, đồ chơi tự tạo qua những đôi bàn tay khéo léo cùa các
cô giáo được trẻ sử dụng một cách tích cực, sáng tạo hàng ngày, kích thích tính
tò mò và ham hiểu biết của trẻ. Đáng lưu ý là những đồ dùng, đồ chơi được làm
chủ yếu từ nguyên vật liệu phế thải ở địa phương không chỉ mang ý nghĩa to lớn
góp phần quan trọng trong giáo dục, giúp trẻ phát triển toàn diện, mà còn mang
lại lợi ích kinh tế, hiệu quả, thân thiện với môi trường. Phụ huynh học sinh
quyên góp những đồ dùng, đồ chơi, những quyển sách, tranh truyện cũ, các
19


nguyên vật liệu đã qua sử dụng, nguyên liệu có trong thiên nhiên... và phối hợp

cùng giáo viên làm những bộ đồ dùng, đồ chơi phong phú cho trẻ vui chơi, trải
nghiệm. Qua đó thấy được sự quan tâm và những hành động thiết thực của phụ
huynh đến công tác chăm sóc, giáo dục trẻ trong nhà trường.
Tóm lại, sáng kiến đã mang lại hiệu quả cao cho nhà trường nhưng giá
thành lại thấp, phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và của nhân dân địa
phương.
* Hiệu quả về mặt xã hội:
Thu hút được các tổ chức xã hội, đoàn thể và nhân dân, cha mẹ học sinh
tham gia vào các hoạt động của nhà trường, nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ toàn diện.
- Đối với trẻ:
+ Qua các hoạt động trẻ được trải nghiệm trẻ rút ra được cho bản thân mình
những kinh nghiệm sống đẹp và có ích hơn. Trẻ tích cực, năng động, mạnh dạn,
có thói quen lao động, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng hợp tác trong nhóm bạn qua
các hoạt động hàng ngày. Trẻ chủ động, tự tin hơn khi giao tiếp với người lớn kĩ
năng và có những hành xử khiến người lớn nhiều khi còn phải nhìn nhận lại bản
thân mình.
+ Trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường lớp học, vệ sinh cá nhân.
+ Trẻ đi học đều, đúng giờ và có ý thức nền nếp hơn khi tham gia vào các
hoạt động của trường, lớp. Trẻ biết quan sát, chú ý lắng nghe và thực hiện các
yêu cầu của người khác một cách tích cực. Vui sướng, thoải mái, thưởng thức
các sản phẩm do chính tay mình làm ra.
+ Tăng tỷ lệ trẻ ăn bán trú ở trường và 100% trẻ được đảm bảo an toàn về
thể chất lẫn tinh thần.
Kết quả so sánh, đánh giá sau khi áp dụng sáng kiến như sau (Tính đến
thời điểm ngày 31/3/2019):
Tỷ lệ huy động trẻ ra lớp tại trường: 418/415 = 107% (so với kế hoạch)
Trong đó:
- Trẻ nhà trẻ: 65/62 = 104,8%
- Mẫu giáo: 353/353 = 100%

- Riêng 5 tuổi: 109/109 = 100%
Bảng 4. Số lớp và số lượng trẻ tháng 3/2019
Lớp học bán trú, 2
buổi/ngày
Tổng số nhóm lớp

Tổng số
nhóm lớp
16

Tăng, giảm so
Tăng, giảm
với đầu năm Tổng số trẻ so với đầu
(+, -)
năm (+, -)
0
418
+49
20


- Lớp học bán trú
- Lớp học 2 buổi/ngày

11
05

+04
-04


287
131

+110
-61

Bảng 5. Chất lượng chăm sóc tháng 3/2019
Tăng, giảm so với
đầu năm (+, -)
Tổng số trẻ được cân, đo: 418/418 = 100%
Cân nặng bình thường
404/418 = 96,7%
+14%
Trong đó:
- Nhà trẻ
61/65 = 93,8%
+22,4%
- Mẫu giáo
343/353 = 97,2%
+13,9%
- Riêng 5 tuổi
107/109 = 98,2%
+10,1%
Suy dinh dưỡng thể nhẹ cân
14/418 = 3,3%
- 14%
Trong đó:
- Nhà trẻ
4/65 = 6,2%
-22,4%

- Mẫu giáo
10/353 = 2,8%
-13,9%
- Riêng 5 tuổi
2/109 = 1,8%
-10,1%
Chiều cao bình thường
402/418 = 96,2%
+13,5%
Trong đó:
- Nhà trẻ
61/65 = 93,8%
+22,4%
- Mẫu giáo
341/353 = 96,6%
+13,3%
- Riêng 5 tuổi
106/109 = 97,2%
+9,1%
Suy dinh dưỡng thể thấp còi
16/418 = 3,8%
-13,5%
Trong đó:
- Nhà trẻ
4/65 = 6,2%
-22,4%
- Mẫu giáo
12/353 = 3,4%
-13,3%
- Riêng 5 tuổi

3/109 = 2,8%
-9,1%
Nội dung đánh giá

Kết quả

Bảng 6. Chất lượng giáo dục tháng 3/2019
Tăng, giảm so với
đầu năm (+, -)
Tổng số trẻ được đánh giá: 418/418 = 100%
398/418 = 95,2%
+15,4%

Nội dung đánh giá
Đạt yêu cầu
Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo
- Riêng 5 tuổi
Chưa đạt
Trong đó:
- Nhà trẻ
- Mẫu giáo

Kết quả

58/65 = 89,2%
340/353 = 96,3%
108/109 = 99,1%
20/418 = 4,8%


+ 11,4%
+16,2%
+11%
-15,4%

7/65 = 10,8%
13/353 = 3,7%

-11,4%
-16,2%
21


- Riêng 5 tuổi

01/109 = 0,9%

-11%

Nhìn vào chất lượng trên, ta thấy số lượng trẻ đến lớp tăng so với khảo sát
đầu năm và giữa năm, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được nâng lên. Mức độ
đạt được cuối năm so với đầu năm cao hơn rất nhiều. Điều này chứng tỏ các
công tác chỉ đạo đưa ra có tác dụng rất to lớn.
- Đối với giáo viên, cô nuôi:
+ Đội ngũ giáo viên trong nhà trường đã biết lập kế hoạch chăm sóc, giáo
dục trẻ phù hợp với trường, lớp, có ý thức tốt trong việc tổ chức các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ, phối hợp nhịp nhàng với phụ huynh để tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho trẻ được phát triển toàn diện, tạo cơ hội cho trẻ khám ph, tìm tòi
phát huy tính tích cực, sáng tạo.

+ Các cô nuôi đã có kiến thức về dinh dưỡng, biết kết hợp các món ăn cho
trẻ nấu ăn đảm bảo đầy đủ các chất dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm, đạt thành tích cao trong hội thi Cô nuôi giỏi cấp huyện.
+ Giáo viên biết cách lồng ghép các nội dung giáo dục dinh dưỡng vào
các chủ đề, các hoạt động hằng ngày phù hợp.
+ Giáo viên biết cách xây dựng môi trường trong và ngoài lớp phù hợp
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm để làm phong phú các hoạt động của trẻ.
+ Biết ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác soạn giảng và tìm
kiếm, khai thác, xử lí các thông tin phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động giáo
dục.
+ Các giáo viên dạy lớp ghép hiểu và biết cách xây dựng kế hoạch giáo
dục lớp ghép phù hợp với diều kiện thực tế của lớp mình phụ trách.
- Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường phấn khởi, vui mừng khi
kết quả chăm sóc giáo dục trẻ được nâng lên rõ rệt.
+ Đã huy động trẻ nhà trẻ ra lớp vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra
+ Huy động trẻ mẫu giáo và trẻ 5 tuổi ra lớp 100%.
+ Mở được thêm 4 lớp bán trú ở điểm trường.
+ Huy động được sự ủng hộ, giúp đỡ của các các nhà hảo tâm và các bậc
phụ huynh trong việc tổ chức các phong trào thi đua và các hoạt động của nhà
trường.
+ Nâng cao được chất lượng chăm sóc, giáo dục rõ rệt, giảm tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng 13,5% so với đầu năm.
+ Làm tốt công tác tham mưu với chính quyền địa phương, hội cha mẹ
học sinh và các nhà hảo tâm tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo
dục, tài liệu, học liệu, phương tiện cho trẻ hoạt động.
- Đối với phụ huynh:
22


+ Phụ huynh học sinh phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục và đào tạo

của nhà trường, yên tâm khi gửi con em đến trường, ủng hộ và đồng tình với các
quy định của nhà trường đề ra.
+ Thu hút được sự tham gia của các bậc phụ huynh trong công tac chăm
sóc, giáo dục trẻ cũng như hướng dẫn trẻ tham gia hoạt động một cách đạt kết
quả.
+ Nhiệt tình ủng hộ giáo viên trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu làm đồ
dùng đồ chơi tự tạo, phối hợp cùng giáo viên làm thêm nhiều đồ dùng đồ chơi để
trẻ có nhiều cơ hội được trải nghiệm.
III – KẾT LUẬN
Công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ là một việc
làm không hề đơn giản, đòi hỏi người quản lý phải năng động, sáng tạo, có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức lối sống, chủ động trong công
tác chỉ đạo chuyên môn, chất lượng chăm sóc, giáo dục trong nhà trường.
Trong quá trình chỉ đạo nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở
trường mầm non, người làm công tác quản lý phải luôn tận tuỵ và nhạy bén
trong quán xuyến các hoạt động của trường từ khâu chăm lo cơ sở vật chất đến
việc tổ chức các hoạt động dạy học, hoạt động cho trẻ trải nghiệm, đồng thời
làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ
giáo viên trong nghà trường.
Tích cực tham mưu cho các cấp lãnh đạo và phối hợp chặt chẽ với các ban
ngành, đoàn thể, Hội phụ huynh học sinh trong việc huy động trẻ trong độ tuổi
mầm non ra lớp và huy động các nguồn lực đầu tư cho bậc học. Có như vậy mới
từng bước đưa phong trào giáo dục mầm non xã nhà ngày một tiến triển đi lên
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

TÁC GIẢ
(Ký tên)


23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo. Điều lệ trường mầm non, 2008 (các quy đinh
sửa đổi bổ sung điều lệ mầm non)
2. Bộ Giáo dục và đào tạo. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên nâng cao
năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cán bộ quản lí giáo
viên mầm non năm học 2018-2019. NXB Giáo dục Việt Nam, 2018
3. Luật Giáo dục Việt Nam. NXB Chính trị Quốc Gia, 2006.
4. Thái Duy Tuyên. Giáo dục học hiện đại. NXB Đại Học Quốc Gia, 2001

24



×