Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM CHI NHÁNH BẮC ĐĂK LĂK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.61 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

NGUYỄN XUÂN QUANG

GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH BẮC ĐĂK LĂK

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

ĐÀ NẴNG, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

NGUYỄN XUÂN QUANG

GIẢI PHÁP XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH BẮC ĐĂK LĂK
Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
Mã số

: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. HỒ VĂN NHÀN


ĐÀ NẴNG, NĂM 2019


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn Thầy hướng dẫn khoa học TS.
Hồ Văn Nhàn đã tận tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn luận văn này. Tôi cũng
xin gửi lời tri ân đến quý thầy, cô trường Đại học Duy Tân – những người đã
nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu trong quá trình học
tập.
Trong quá trình thực hiện, mặc dù đã cố gắng hoàn thiện luận văn, trao
đổi và tiếp thu các ý kiến đóng góp của Quý thầy, cô và bạn bè, song cũng
không thể tránh khỏi những hạn chế trong nghiên cứu. Tôi rất mong sẽ nhận
được những ý kiến đóng góp và thông tin phản hồi quý báu từ Quý thầy, cô
cùng bạn đọc!
Học viên

NGUYỄN XUÂN QUANG


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, khảo sát tình hình
thực tiễn và dưới sự hướng dẫn của thầy hướng dẫn khoa học. Các nội dung
trích của cả các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn
nguồn đầy đủ, theo đứng quy định.
Tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên và xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Học viên

NGUYỄN XUÂN QUANG



MỤC LỤC


6

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

KÝ HIỆU

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17

NHNN
NHTM
NHTW
VAMC
AMC
CIC
DATC
DNNN
DPRR
DPRRTD
M&A
AFTA
EURO
EU
FDI
FED
IMF

Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Thương Mại
Ngân hàng Trung ương
Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam
Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản
Trung tâm thông tin tín dụng
Công ty mua bán Nợ và Tài sản tồn đọng
Doanh nghiệp nhà nước
Dự phòng rủi ro
Dự phòng rủi ro tín dụng

Mua bán và sáp nhập
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Đồng tiền chung Châu Âu
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cục dự trữ liên bang
Quỹ tiền tệ quốc tế

18

TCTD

Tổ chức tín dụng

19

TMCP

Thương mại Cổ phần

20

TSĐB

Tài sản đảm bảo

21

WB


Ngân hàng thế giới

22

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

23

VEPR

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách

24

ROAE

Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu

25

KAMCO

Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc

26

AGRIBANK


Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn


7

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ


8

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã và đang có những bước
tiến vượt bậc trong công cuộc hội nhập sâu rộng với thế giới. Một trong
những lĩnh vực then chốt trong việc đưa Việt Nam trở thành một điểm đến tin
cậy, hấp dẫn cho các nhà đầu tư chính là tài chính Ngân hàng. Bên cạnh
những thành tích nổi bật đã đạt được, các ngân hàng thương mại ở nước ta
vẫn còn đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức đặc biệt là trong hoạt
động tín dụng do sự chuyển đổi còn chậm, trình độ còn non kém chưa theo
kịp những diễn biến ngày một phức tạp của tình hình quốc tế. Điều này đã
làm nảy sinh ra một vấn đề hết sức nan giải đó là tình trạng nợ xấu. Nợ xấu là
một vấn đề không mới của các ngân hàng thương mại. Nó đã phát sinh từ lâu
nhưng bắt đầu được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011 sau cuộc khủng
hoảng toàn cầu, gây nên sự sụp đổ hàng loạt các định chế tài chính lớn trên
thế giới, rung động không chỉ nền kinh tế số một thế giới là Hoa Kỳ mà toàn
bộ các khu vực khác cũng phải chịu hậu quả nặng nề từ nó. Từ đó đến nay, nợ
xấu tại các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra và ngày càng
có những diễn biến khó lường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động kinh doanh, tính cạnh tranh với nước ngoài của các ngân hàng khi làm

giảm cũng như nền kinh tế của cả nước bởi hệ thống ngân hàng chính là cầu
nối để chuyển vốn trong nền kinh tế đồng thời là công cụ vĩ mô để Chính phủ
và Nhà nước có thể quản lý nền kinh tế.
Nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại, Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk không thể
tránh khỏi những vướng mắc trong công tác kiểm soát cũng như hạn chế tình
trạng nợ xấu ngày một gia tăng.


9

Với mong muốn hiểu rõ về thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk, từ đó
nhằm đề xuất các giải pháp giúp ngân hàng tăng nâng cao công tác xử lý các
khoản nợ xấu góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính, tăng năng lực cạnh
trạnh cho ngân hàng trong quá trình hội nhập, tác giả chọn chủ đề “Giải pháp
xử lý nợ xấu tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Bắc Đăk Lăk” làm đề tài nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục tiêu sau đây:
Một là: nghiên cứu những lý luận cơ bản liên quan đến nợ xấu trong hệ
thống NHTM.
Hai là: phân tích và đánh giá một cách đúng đắn, khách quan nhất thực
trạng nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam –
Chi nhánh Bắc Đăk Lăk giai đoạn 2016 – 2018.
Ba là: đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xử lý nợ xấu tại
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc
Đăk Lăk trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: vấn đề lý luận và thực trạng liên quan đến công

tác xử lý nợ xấu của NHTM.
Phạm vi nghiên cứu: Do khuôn khổ luận văn có hạn nên đề tài chỉ tập
trung nghiên cứu tình hình xử lý nợ xấu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk trong giai đoạn từ năm
2016– 2018.

4. Phương pháp nghiên cứu


10

Để thực hiện các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đặt ra, luận văn sử
dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp tổng hợp: nhằm kế thừa những lý luận cơ bản về nợ xấu
tại các Ngân hàng, từ đó hình thành cơ sở lý thuyết cho đề tài luận văn.
- Phương pháp thống kê: thu thập số liệu về tổng quan tình hình hoạt
động, thực trạng nợ xấu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk.
- Phương pháp so sánh, phân tích dữ liệu và suy luận trên cơ sở số liệu
thực tế đã thu thập và tổng hợp được và các chỉ tiêu căn cứ để đánh giá chất
lượng các khoản vay.
Để có những kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các
chỉ tiêu định lượng cụ thể bao gồm các chỉ tiêu lên quan đến hoạt động cho
vay nợ của ngân hàng như: chỉ tiêu về dư nợ, các chỉ tiêu đánh giá tình trạng
nợ quá hạn, chỉ tiêu đánh giá nợ xấu... Thực tế, xử lý nợ xấu là một vấn đề rất
nhạy cảm liên quan đến rất nhiều các chủ thể: ngân hàng, khách hàng và nền
kinh tế. Do đó để công tác xử lý nợ xấu mang lại hiệu quả thì cần phải có sự
kết hợp linh hoạt các phương pháp trên.

5. Tổng quan nghiên cứu

Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nợ xấu luôn tồn tại như một điều
hiển nhiên, không thể tránh khỏi. Do đó, việc phân tích tìm ra nguyên nhân
dẫn đến nợ xấu, biện pháp hạn chế sự xuất hiện nợ xấu, và biện pháp để xử lý
nợ xấu là những vấn đề luôn được quan tâm, nghiên cứu ở cả trong và ngoài
nước.

• Nghiên cứu nước ngoài
Nhìn chung, trong việc nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, các tài liệu

chính chủ yếu là các bài báo hoặc tạp chí được trình bày dưới dạng nêu vấn đề
và sự việc, cũng có một số ít đề tài nghiên cứu về nợ xấu ở Việt Nam, nổi bật:


11

Trần Bảo Toàn (2007), đề tài “Analysis of the Vietnamese Banking
Sector with special reference to Corporate Governance”, Luận án tiến sĩ kinh
tế bảo vệ thành công tại trường Đại học Kinh tế St. Gallen Thụy Sĩ. Nghiên
cứu này đã đặt trọng tâm vào phân tích quản trị ngành ngân hàng tại Việt
Nam. Trong đó tại chương 3, tác giả đã đề cập đến vai trò thị trường thứ cấp
để xử lý nợ xấu. Đó là nguồn để xử lý nợ xấu phải theo nguyên tắc lấy thị
trường nuôi thị trường bằng cách tạo ra thị trường nợ thứ cấp để sử dụng đồng
bộ các thiết chế quản trị nợ sẵn có như các Công ty Quản lý nợ và khai thác
tài sản (AMC) ở các Ngân hàng thương mại, Công ty mua bán nợ và tài sản
tồn đọng (DATC) của Bộ Tài chính, thị trường chứng khoán…, các công cụ
tài chính phi tiền tệ, công cụ tiền tệ và cả phương tiện phi vật chất như không
gian, thời gian, kinh nghiệm và uy tín để tạo nguồn xử lý nợ xấu [13].
Ngân hàng Thế giới (2013), báo cáo của Tổ chức: "Taking Stock
Presentation Dec 2013 VN’’ trong đó có để cập đến vấn đề cải cách khu vực
ngân hàng. Báo cáo cũng nêu rõ những rào cản khiến cho khu vực ngân hàng

còn mong manh. Đó là: nợ xấu còn cao do quan ngại về công khai tài chính
và minh bạch; phân loại nợ chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế; Nhà nước còn
nắm giữ cổ phần lớn trong các ngân hàng; cần quan tâm các quy định về phá
sản, vỡ nợ và quyền của người cho vay [8].

• Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, có nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu về các biện pháp
xử lý nợ xấu tại một số ngân hàng cụ thể và đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả trong công tác xử lý nợ xấu:
- PGS. TS. Trần Huy Hoàng (2013), khủng hoảng kinh tế, quản trị ngân
hàng và vấn đề nợ xấu. Bài viết đề cập đến khái niệm nợ xấu theo cách hiểu
của các nhà hoạch định chính sách ở các NHTW, các tổ chức tài chính quốc tế


12

như IMFD, Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng;
chỉ ra các nguyên nhân gây ra nợ xấu từ môi trường kinh tế và những bất cập
trong quản trị ngân hàng. Từ đó gợi ý các chính sách giảm nợ xấu [9].
- PGS. TS. Trầm Thị Xuân Hương cùng cộng sự, 2013, giải pháp xử lý
nợ xấu trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Nghiên cứu này
nhằm đánh giá thực trạng nợ xấu phát sinh trong hệ thống NHTM Việt Nam
giai đoạn 2009-2012, phân tích chi tiết nguyên nhân phát sinh nợ xấu trong
các tập đoàn nhà nước cũng như trong lĩnh vực bất động sản và chứng
khoán… Với mục đích làm sáng tỏ mức độ và tính chất nghiêm trọng của nợ
xấu trong hệ thống NHTM, nguyên nhân phát sinh nợ xấu như: hệ quả của gói
kích cầu, các chính sách nới lỏng tín dụng cũng như công tác quản trị điều
hành hệ thống NHTM được sử dụng trong thời gian qua còn nhiều bất cập. Từ
đó, đề xuất hai nhóm giải pháp xử lý nợ xấu từ Chính phủ, NHNN Việt Nam
và bản thân các NHTM phát sinh nợ xấu. Đây là tiền đề cơ bản thực hiện

thành công tái cấu trúc hệ thống NHTM.
- Ths. Nguyễn Thị Mỹ Phượng, Ths. Lê Thị Mỹ Ngọc (2014), xử lý nợ
xấu trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Bài viết này phân tích
thực trạng nợ xấu và xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam nói chung
và NHTM nói riêng trong giai đoạn 2007-2013. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
được những nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu và những vấn đề còn tồn tại
trong công tác xử lý nợ xấu tại các NHTM Việt Nam trong thời gian qua. Từ
đó, gợi ý một số chính sách nhằm thúc đẩy quá trình xử lý nợ xấu, góp phần
tái cơ cấu thành công hệ thống NHTM theo Đề án 254 trong giai đoạn 20112015.
- Tập thể tác giả, 2012, Sách Nợ xấu ngân hàng: Giải quyết bằng cách
nào. 2 Nội dung sách nghiên cứu về nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam từ


13

sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đến năm 2012: nguồn gốc
phát sinh, hệ lụy của nó, và qua đó đề xuất biện pháp khắc phục giải quyết
vấn đề từ gốc rễ để tránh đi lại vết xe đổ đồng thời phát triển hệ thống ngân
hàng Việt Nam bền vững.
Đặng Thị Thanh Nga (2014): Luận văn thạc sỹ kinh tế “Nợ xấu tại
ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam”. Luận văn đã tập trung nghiên
cứu những nội dung sau: Thứ nhất, làm rõ các vấn đề cơ bản về nợ xấu trong
hệ thống ngân hàng thương mại; hai là, thực trạng nợ xấu của ngân hàng
Vietcombank, đặc biệt luận văn đưa ra được số liệu thu nợ của từng biện
pháp xử lý nợ xấu tại ngân hàng, điều này chỉ ra được hiệu quả của từng
biện pháp để từ đó làm bài học kinh nghiệm của những ngân hàng khác; thứ
ba, đưa ra những biện pháp để xử lý nợ xấu trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy
nhiên, nghiên cứu này chưa đi sâu vào từng biện pháp xử lý nợ xấu của
Ngân hàng, và đưa ra giải pháp chưa được cụ thể để giảm thiểu nợ xấu của
ngân hàng [1].

Tạp chí ngân hàng (2014): “Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam” của tác giả Đào Thị Hồ Hương do Ngân
hàng nhà nước Việt Nam phát hành. Bài nghiên cứu này đã chỉ ra được các
nội dung nợ xấu như sau: Một là, những gợi ý hướng xử lý nợ xấu từ kinh
nghiệm quốc tế; Hai là, đề xuất hướng xử lý nợ xấu cho NHTM sau khi phân
tích thực trạng nợ xấu. Tuy nhiên bài viết này chỉ đưa ra hướng xử lý cho nợ
xấu xuất phát từ một số nguyên nhân nhất định. Bài nghiên cứu chưa đưa ra
được tổng thể giải pháp cho việc xử lý nợ xấu của Ngân hàng.
Tạp chí ngân hàng (2014): “Chứng khoán hóa – một phương thức giải
quyết nợ xấu của các tổ chức tín dụng” của tác giả Hoàng Lan do Ngân hàng
nhà nước Việt Nam phát hành. Bài viết này đưa ra giải pháp xử lý nợ xấu


14

bằng chứng khoán hóa, tác giả cũng đưa ra những lợi ích của phương pháp
này. Tác giả đã mạnh dạn đề xuất một giải pháp mới cho Việt Nam, biện pháp
này đã được các nước trên thế giới sử dụng và mang lại những tích cực nhất
định. Trong thời gian tới khi sự hội nhập của VN ngày càng mở rộng, thị
trường tài chính phát triển thì có thể đây sẽ là một giải pháp hay, hiệu quả cho
việc tháo gỡ nợ xấu.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được kết
cấu thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ xấu và xử lý nợ xấu trong ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng xử lý nợ xấu Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk.
Chương 3: Giải pháp tăng cường xử lý nợ xấu tại Ngân hàng nông

nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Bắc Đăk Lăk.


15

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Cơ sở lý luận về nợ xấu
1.1.1. Khái niệm nợ xấu
Nợ xấu được hiểu là những khoản nợ bị vỡ nợ hoặc trong tình trạng gần

kề vỡ nợ. Nhiều khoản nợ trở thành nợ xấu sau khi vỡ nợ 90 ngày. Theo Peter
Rose, nợ xấu là những khoản nợ không còn thu nhập lãi tích lũy, hoặc phải tái
cơ cấu để phù hợp với hoàn cảnh thay đổi của người đi vay. Nợ được xếp vào
loại này khi bất cứ khoản trả nợ theo lịch trình bị quá hạn hơn 90 ngày. Khi
đó, bất cứ khoản tiền lãi tích lũy theo sổ sách phải được giảm trừ khỏi thu
nhập từ cho vay. Các ngân hàng bị cấm ghi nhận bất cứ khoản thu nhập từ lãi
bổ sung từ nợ này cho đến khi có dòng thu tiền mặt.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Một khoản cho vay được coi là không
sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90
ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái
cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các
nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ được thực hiện đầy đủ" (IMF’s
Compilation Guide on Financial Soundnees Indicators 2004, 84). Với quan
điểm này, nợ xấu được nhận dạng qua hai giác độ: thời gian quá hạn và khả
năng trả nợ đáng nghi ngờ.
Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS) không đưa ra định nghĩa

cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên trong các hướng dẫn về thông lệ chung tại nhiều
quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là
không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện xảy ra: (i)


16

ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng
chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi; (ii) người vay đã quá hạn trả
nợ quá 90 ngày (BCBS’s Sound Practices for Loan Accounting and
Disclosure 1999, 107). Dựa trên hướng dẫn này, nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ
các khoản cho vay đã quá hạn 90 ngày và có dấu hiệu người đi vay không trả
được nợ. Như vậy, quan điểm về nợ xấu của Ủy ban Basel cũng dựa vào hai
giác độ: thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng.
Từ những định nghĩa trên có thể thấy được sự tương đồng trong cách
nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một
khoản nợ được coi là nợ xấu nó xuất hiện 1 trong 2 dấu hiệu sau: Quá hạn trả
nợ gốc và lãi; khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng (TCTD) coi là
không có khả năng trả nợ. Bản chất của một khoản nợ xấu là một khoản tiền
cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh
sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.
Theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (SBV)
Theo điều 6 hoặc điều 7 của Quyết định 493 ngày 22/04/2005 và sửa đổi
trong Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 và gần đây nhất theo
Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 Quy định về phân loại tài sản
có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài thì nợ xấu được định nghĩa như sau [6]:
“Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn)”.

Các khoản nợ được thực hiện phân loại đồng thời theo Điều 10 và Điều
11 thông tư này. Trong đó:

- Phân loại nợ theo Điều 10 là phân loại theo phương pháp định lượng, tức là
chủ yếu dựa trên thời gian quá hạn của các khoản nợ (Nhóm 3: thời gian quá


17

hạn từ 91-180 ngày; Nhóm 4: Thời gian quá hạn từ 181-360 ngày; Nhóm 5:
Thời gian quá hạn lớn hơn 360 ngày).

- Phân loại nợ theo Điều 11 là phân loại theo phương pháp định tính, tức là chủ
yếu dựa trên khả năng trả nợ của khách hàng (Nhóm 3: Các khoản nợ được
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản
nợ này được đánh giá là có khả năng tổn thất; Nhóm 4: Các khoản nợ được
đánh giá là có khả năng tổn thất cao; Nhóm 5: Các khoản nợ được đánh giá là
không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Như vậy, nợ xấu theo quan điểm của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
cũng được xác định dựa trên hai yếu tố: (i): quá hạn trên 90 ngày; (ii): khả
năng trả nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được
thanh toán đầy đủ (hay khả năng tổn thất của các khoản nợ).
Qua những định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái
quát nợ xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn
hoặc không trả nợ như đã cam kết dẫn đến gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi xem xét định nghĩa nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam và thông lệ
quốc tế thì có thể thấy mặt định lượng thời gian quá hạn 91 ngày là khá tương
đồng.Về mặt định tính, Việt Nam cũng có những dấu hiệu giống khái niệm
của quốc tế là khả năng trả nợ của khách hàng. Việc cho phép phân loại nợ
theo phương pháp định tính hay định lượng cho thấy Việt Nam có sự thống

nhất với nhiều quốc gia trên thế giới (Mỹ, Nhật, Singapore).
1.1.2. Phân loại nợ xấu
Theo Quyết định số 22/VBHN - NHNN ngày 04/6/2014 của ngân hàng
nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì nợ


18

xấu được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn nợ và khả năng thu hồi ở Việt
Nam hiện nay phổ biến thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm như sau:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn), bao gồm :
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản nợ quá thời hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá
là cókhả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ cả gốc
và lãi đúng thời hạn còn lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại
Khoản 2, Điều 6.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý), bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày.
- Các khoản nợ điều chỉnh kì hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng có đánh giá khách hàng và khả
năng về trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kì hạn được điều chỉnh lần đầu).
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3
Điều 6.
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), bao gồm :
- Các khoản nợ quá thời hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kì hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b

khoản này.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3
Điều 6.
Nợ xấu thuộc nhóm này được xem là các khoản nợ có khả năng thu hồi
nợ cao nhất. Ngân hàng sẽ trích lập 1 tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là
20% dư nợ của nhóm.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ), bao gồm :
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.


19

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3
Điều 6.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi nợ thấp
hơn sovới các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những
khoản nợ mà ngân hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỉ lệ trích lập
DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm :
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3
điều này.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỉ lệ
trích lập DPRR tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm. Còn riêng đối với
các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể
theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Theo quy định, nợ xấu là nợ được phân vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu
chuẩn),
nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Trên cơ sở kết
quả phân loại nợ, TCTD chủ động thực hiện hạch toán, trích lập dự phòng rủi
ro theo quy định [7].
Tuy nhiên, trên thực tế các TCTD xem xét nợ xấu chủ yếu dựa trên các
đánh giá về khả năng thu hồi các món vay.
Nợ xấu trong cho vay của NHTM gây hậu quả lớn đối với cả khách
hàng vay và ngân hàng, nền kinh tế. Đối với khách hàng vay, nợ xấu tạo áp
lực trả nợ buộc kháchhàng phải giải quyết nợ trong tình trạng tài chính không
tốt, khách hàng bị mất uy tín (cá nhân khách hàng hoặc doanh nghiệp). Đối


20

với NHTM, nợ xấu làm giảm thu nhập của ngân hàng, thua lỗ và ngân hàng
rơi vào tình trạng phá sản vì mất uy tín hiệu ứng rút tiền ồ ạt... Nợ xấu còn
ảnh hưởng đến nền kinh tế giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn, tăng chi phí sử
dụng vốn hoạt động kinh doanh của khách hàng. Để hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng tốt, các NHTM cần có các giải pháp ngăn ngừa và xử lý nợ
xấu.
1.1.3. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
Phân tích nguyên nhân phát sinh nợ xấu là một trong những điểm quan
trọng cần phải làm để từ đó đưa ra được chiến lược cũng như phương pháp

quản lý và xử lý phù hợp, khả thi và có hiệu quả.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian,
do vậy hoạt động của Ngân hàng thương mại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Môi
trường pháp lý, môi trường kinh tế cũng như môi trường thiên nhiên, tình
hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, đạo đức khách hàng và các yếu tố
thuộc về chính bản thân ngân hàng…
1.1.3.1 Nguyên nhân khách quan
Môi trường thiên nhiên
Thiên tai, bão lụt, hoản hoạn, mất mùa, dịch bệnh,… Đây là những
nguyên nhân khách quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên đã gây ra
sự hoạt động thất bại của khách hàng vay, nhất là các khoản cho vay nông
nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nguyên nhân này nằm ngoài tầm kiểm soát
và mong muốn của cả NH và các khách hàng vay. Đây là nguyên nhân gây ra
rủi ro không thể tránh được, những mất mát do nguyên nhân này gây ra cần
được sự hỗ trợ của nhà nước, và của cả xã hội.
Môi trường kinh tế
Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị
trường chưa thực sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao


21

sẽ dẫn đến việc các cá nhân và tổ chức cũng như các doanh nghiệp không có
tiềm lực tài chính đủ mạnh. Mặt khác, với sự thay đổi liên tục trong các chính
sách kinh tế vĩ mô như sự thay đổi về cơ chế lãi suất, tỷ giá... chính sách xuất
nhập khẩu, hàng tiêu dùng... thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ
chế tài chính, cơ chế sử dụng đất đai… cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào
thế bị động, do đó nó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối
tượng này tại NH.

Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là một trong
các nguyên nhân góp phần gây ra nợ xấu. Sự bất cập và chồng chéo của các
luật sẽ khiến cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài
sản bảo đảm, các quy định về kế toán kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực hiện
sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho vay.
Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không cao ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của
chủ doanh nghiệp vay vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém
hiệu quả từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng.
Đạo đức khách hàng
Một số doanh nghiệp cố ý thông báo số liệu tài chính của doanh nghiệp
không chính xác, gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín dụng đã dẫn đến
khó khăn trong việc thu hồi nợ ngân hàng.
Hoặc bản thân doanh nghiệp/cá nhân thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng
vốn vay và trả nợ, không lo lắng, không quan tâm đến món nợ đối với ngân
hàng mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có. Một số doanh nghiệp/cá
nhân thì lại có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính toán, chụp giựt,
lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích để kiếm lời, vay không có ý


22

định trả nợ.
1.1.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
Một là, chính sách tín dụng của ngân hàng không hiệu quả, không
phù hợp với nền kinh tế, quy chế tín dụng không chặt chẽ để khách hàng
chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế có sự thay đổi thì chính

sách tín dụng cũng thay đổi để phù hợp nhưng một số ngân hàng do không
nhạy bén nên chính sách không phù hợp. Ví dụ trước kia một số ngân hàng
thương mại nhà nước có thể cho vay chủ yếu ở khối khách hàng doanh
nghiệp nhà nước, hạn chế cho vay khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường, thì khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát
triển, khối các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trì trệ, không phát huy
hiệu quả của đồng vốn dẫn tới không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Hai là, cán bộ tín dụng không chấp hành đúng quy trình tín dụng như
không đánh giá đầy đủ chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay
khống, thẩm định hời hợt, cho vay vượt tỷ lệ an toàn. Đặc biệt khâu thẩm
định hời hợt của cán bộ tín dụng dẫn tới nợ xấu rất cao. Trừ một số ít khách
hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: kinh
doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính
sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ
khâu thẩm định quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy
mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng
đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được
nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay
và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong
phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn


23

của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được
kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự
vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng,
thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ,
không còn nguồn khác `để trả nợ ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt

khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả
tiền vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban
đầu.
Ba là, cán bộ tín dụng không kiểm tra, giám sát chặt chẽ về việc sử
dụng vốn vay và tình hình kinh doanh của khách hàng. Thông thường sau khi
cho vay, cán bộ tín dụng phải kiểm tra xem khách hàng đã dùng tiền vay đúng
mục đích hay chưa, kiểm tra tình hình kinh doanh của khách hàng, yêu cầu
khách hàng nộp báo cáo tài chính định kỳ để nhận biết những rủi ro sớm xảy
ra, từ đó kịp thời có những biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải cán bộ tín
dụng nào cũng tuân thủ đúng các yêu cầu kiểm soát khoản vay như trên, đến
khi khách hàng không trả được nợ mới phát hiện ra việc sử dụng vốn vay
không đúng mục đích hoặc tình hình kinh doanh đã xấu đi…
Bốn là, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng yếu kém
dẫn đến việc đánh giá tư cách khách hàng, phương án SXKD/ dự án không
chính xác, nên xảy ra tình trạng phương án/ dự án không khả thi nhưng vẫn
cấp tín dụng.
Năm là, cán bộ tín dụng thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức
nghề nghiệp: thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, nể nang
trong quan hệ khách hàng, nhận quà biếu hay hối lộ của khách hàng.
Sáu là, do áp lực cạnh tranh nên ngân hàng đã nới lỏng các điều kiện
tín dụng để thu hút khách hàng. Cạnh tranh thu hút khách hàng buộc các
ngân hàng phải nới lỏng điều kiện tín dụng: tỷ lệ cho vay/ trị giá TSĐB, tín
chấp, cầm cố hàng hóa không giám sát chặt món vay; tỷ lệ cho vay/nhu cầu


24

vốn…cụ thể: Áp lực tăng trưởng nóng buộc một số ngân hàng nới lỏng
điều kiện tín dụng để cạnh tranh thu hút khách hàng về và kết quả là sau đó
tỷ lệ nợ xấu tăng đột biến.

Một ví dụ điển hình cho việc cho vay dưới chuẩn là cuộc khủng
hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn của Mỹ năm 2008, để thấy được hậu
quả nặng nề của việc nới lỏng điều kiện phê duyệt tín dụng gây ảnh hưởng
nặng nề không chỉ tới Ngân hàng và tới cả sự vận hành của nền kinh tế.
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là các khoản cho vay chất lượng thấp với
mức rủi ro cao. Các khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và
thường được đảm bảo bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh năng lực
tài chính của người vay.
Tại Mỹ, các Ngân hàng đầu tư đã bơm tiền cho các công ty để cho
vay mua bất động sản. Điều kiện vay dễ đến mức không cần tài sản thế
chấp, không cần vốn tự có, thậm chí thất nghiệp…cũng được vay. Đổi lại
lãi suất vay khá cao để bù đắp rủi ro. Nhiều người không có khả năng trả
nợ đã vay tiền mua nhà, dùng tiền thuê nhà để trả lãi vay chờ BĐS tăng bán
hưởng chênh lệch. Giữa năm 2007 thị trường BĐS Mỹ đóng băng, lãi suất
vay tăng lên, bài toán tài chính bị phá vỡ, không bán được nhà, người vay
không trả được nợ... Hệ quả này dẫn tới sự sụp đổ của nhiều ngân hàng lớn
của Mỹ như đầu tiền là Ngân hàng Lehman Brothers, tiếp theo là các ngân
hàng khác. Sự sụp đổ của một loạt ngân hàng dẫn tới khủng hoảng nên kinh
tế mỹ năm 2008. Từ kinh nghiệm của Mỹ ta thấy, việc cho vay dưới chuẩn,
cho vay khi khách hàng không chứng minh được khả năng trả nợ dẫn tới
hậu quả to lớn, thậm chí là sụp đổ ngân hàng. Vì vậy, trong các chính sách
tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng bao giờ cũng kèm theo việc nâng
cao chất lượng tín dụng để tránh nợ xấu gia tăng. Tuy nhiên thực tế không
phải tất cả các ngân hàng đều thực hiện đúng mục tiêu đề ra vừa tăng
trưởng tín dụng vừa đảm bảo chất lượng khoản vay.


25

Nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng

Nguyên nhân gây ra nợ xấu trong ngân hàng phát sinh từ phía khách
hàng bao gồm:
- Sau khi vay được vốn, khách hàng tự ý thay đổi mục đích sử dụng vốn, sử
dụng vào các hoạt động có rủi ro cao dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho
ngân hàng. Ngoài ra, trong một số trường hợp, khi đã có vốn trong tay khiến
cho đạo đức khách hàng thay đổi không còn thiện chí trả nợ cho ngân hàng.
- Năng lực quản lý kinh doanh yếu kém, khả năng tổ chức điều hành sản xuất
kinh doanh không bắt kịp thay đổi của thị trường.
- Doanh nghiệp dùng nợ vay ngắn hạn để đầu tư vào tàn sản dài hạn trong khi
không có chức năng chuyển hóa kỳ hạn.
- Sức ì lớn trong sản xuất kinh doanh, thiếu vắng sự linh hoạt cần thiết, không
cải tiến quy trình công nghệ, không đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại,
không cải tiến mẫu mã... Các nguyên nhân này dẫn tới hàng hóa sản xuất ra
thiếu sự cạnh tranh, tồn kho do không tiêu thụ được, không tạo ra dòng tiền để
hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Doanh nghiệp chủ ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng, làm giả hồ sơ
giấy tờ, con dấu, nhất là giấy từ TSBĐ và tư cách pháp nhân. Hiện nay ở Việt
Nam, có nhiều vụ án kinh tế thì có tới 4-5 vụ là có liên quan tới ngân hàng.
Có nhiều hình thức doanh nghiệp lừa đảo ngân hàng, ví dụ là thành lập nhiều
công ty giả: không có địa chỉ, con dấu …Họ lập các hợp đồng mua bán hàng
hóa giả rồi vay vốn ngân hàng.
1.1.4 Ảnh hưởng của nợ xấu
Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng:
Trước hết, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của của ngân hàng. Lợi nhuận
được hình thành từ những khoản thu của ngân hàng mà những khoản thu này
chủ yếu thu từ lãi cho vay. Nếu những khoản cho vay không thu hồi được thì


×