Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.97 KB, 14 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước quyết định chuyển cơ chế nền kinh tế từ
nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đất nước ta ngày càng có nhiều cơ
hội hòa nhập với thế giới. Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là vô số thách thức cần phải vượt
qua. Vậy nên, để phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), vai trò của
Nhà nước trong việc điều hành và quản lý càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị,
có chức năng và nhiệm vụ đặc thù trên mọi mặt đời sống xã hội, được thể hiện qua mối quan
hệ giữa Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách để làm công cụ quảy lý đối với mọi lĩnh
vực của đời sống nhân dân. Vậy vai trò của nhà nước cụ thể là như thế nào? Nhà nước đã có
những biện pháp gì để nâng cao vai trò của mình? Nhà nước đã đạt được những kết quả như
thế nào trong thời gian qua?
em nhận thấy điều trên là một vấn đề đáng được lưu ý trong giai đoạn hiện nay, vậy
nên em đã lựa chọn đề tài “Nhà nước và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong
điều kiện nước ta hiện nay” để nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện, em sẽ không tránh
khỏi việc mắc phải những sai sót trong việc chọn lọc và tổng hợp thông tin. Do đó em rất
mọng nhận được sự đóng góp ý kiến của giảng viên và các bạn để hoàn thiện bài làm của
mình. Em xin chân thành cảm ơn!

3


PHẦN NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC
Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin, vấn đề nhà nước là vấn đề then chốt
trong toàn bộ hệ thống chính trị. Và để có sự hiểu biêt đúng đắn về bản chất của nhà nước,
chúng ta phải dựa trên quan điểm lịch sử, tức là phải bắt đầu phân tích nguồn gốc lịch sử và
điều kiện lịch sử làm xuất hiện nhà nước. Trong bài tiểu luận này, em sẽ chỉ tìm hiểu về quan
điểm lịch sử của Marx – Lenin về nhà nước.
1. Thời kỳ Cộng sản nguyên thủy


Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do sức lao động còn thấp kém, công cụ lao động
còn thô sơ, cơ sở của lao động sản xuất là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không có giai
cấp nên không có mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Do đó thời kỳ này chưa có nhà nước.
2. Sự tan rã của chế độ Cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện của nhà
nước 2.1. Nguồn gốc của nhà nước
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội loài người đã trải qua ba lần
phân công lao động xã hội, làm cho chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời và dần dần thay
thế cho chế độ cũ. Bên cạnh đó, sản xuất phát triển đã tạo ra tài sản dư thừa, hiện tượng
chênh lệch về của cải đã đưa công xã đến tình trạng phân hóa thành các giai cấp luôn mâu
thuẫn với nhau. Khi mâu thuẫn này phát triển tới mức không thể điều hòa được, tổ chức xã
hội Cộng sản nguyên thủy không đủ sức quản lý và buộc phải xây dựng một tổ chức bạo lực
mới, đó chính là nhà nước. Lenin đã kết luận như sau: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện
của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, lúc nào và chừng
nào mà về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà
nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn
giai cấp là không thể điều hòa được”.

4


2.2. Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước, bất kể là nhà nước của giai cấp nào, cũng đều là công cụ, cơ
quan, bộ máy áp bức giai cấp, là chuyên chính giai cấp. Nhà nước có 3 đặc trưng cơ bản:
 Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định: Nhà nước được hình
thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà học cư trú. Quyền lực nhà nước
có hiệu lực với mọi thành vien trong lãnh thổ. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan
hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng
một biên giới quốc gia nhất định.
 Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi
thành viên trong xã hội: Nhà nước của giai cấp nào cũng có một bố máy quyền lực

chuyên nghiệp, bao gồm các đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, nhà tù, viện
kiểm sát) và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên
cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật
của mình được thực thi trong thực tế.
 Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị: Nhà
nước tồn tại dựa vào thuế khóa, quốc trái và các hình thức khác. Đó là những chế độ
đóng góp có tính chất cưỡng bức để duy trì bộ máy cai trị, tồn tại gắn liền với hình
thái tổ chức nhà nước.
2.3. Các kiểu và hình thức của nhà nước
 Kiểu nhà nước: Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin, kiểu nhà nước là khái
niệm dùng để chỉ những nhà nước cùng ra đời trên một cơ sở kinh tế và cùng có một
bản chất giai cấp nhất định. Kiểu nhà nước do kiểu quan hệ sản xuất và do bản chất
giai cấp của nhà nước quyết định. Từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện giai cấp
và đấu tranh giai cấp, trong xã hội có bốn kiểu nhà nước tương ứng với bốn cơ sở
kinh tế khác nhau kế tiếp, thay thế nhau: kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ (cơ sở kinh
tế chiếm hữu nô lệ), kiểu nhà nước phong kiến (cơ sở kinh tế phong kiến), kiểu nhà
nước tư bản chủ nghĩa (cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa) và kiểu nhà nước XHCN (cơ
sở kinh tế XHCN). Mỗi kiểu nhà nước này lại có bản chất giai cấp khác nhau.
5


 Hình thức của nhà nước: Hình thức nhà nước có liên quan chặt chẽ với kiểu nhà
nước. Cùng một kiểu nhà nước có thể có nhiều hình thức khác nhau và một hình thức
có thể áp dụng trong nhiều kiểu nhà nước khác nhau. Nhà nước có hai loại hình thức:
hình thức tổ chức và hình thức chính thể. Về hình thức tổ chức nhà nước có hai loại là
nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang. Về hình thức chính thể, người ta chia hình
thức nhà nước thành hai loại cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa.
2.4. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong từng
thời kỳ nhất định. Nhà nước có hai chức năng cơ bản, có liên quan chặt chẽ với nhau, tác

động qua lại với nhau và biểu hiện bản chất của nhà nước:
 Chức năng đối nội: trấn áp sự phản kháng của giai cấp đối lập, tổ chức xây dựng kinh
tế phục vụ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị, tổ chức giáo dục văn hóa nhằm
đảm bảo sự thống trị của hệ tư tưởng của giai cấp đó.
 Chức năng đối ngoại: bảo vệ đất nước, chống sự xâm lăng của nước ngoài và thi hình
chính sách đối ngoại phục vụ quyền lực của giai cấp thống trị.

6


II.

NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

1. Nhà nước XHCN
1.1. Khái niệm nhà nước XHCN
Nhà nước XHCN là tổ chức mà thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện
vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng
tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
1.2. Bản chất chuyên chính vô sản
Chủ nghĩa Marx – Lenin khẳng định rằng chuyên chính vô sản nghĩa là giai cấp vô
sản phải trở thành giai cấp thống trị. Tức là, chuyên chính vô sản là chuyên chính của giai
cấp công nhân – giai cấp nắm quyền lãnh đạo nhân dân lao động trên cơ sở liên minh công
nông, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất và tàn dư của chế độ người bóc lột người, xóa dần sự phân chia giai cấp
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể rút ra được các đặc trưng sau đây của chuyên
chính vô sản:
 Chuyên chính vô sản trước hết là bạo lực dối với giai cấp tư sản và các giai cấp bóc
lột khác, là cuộc đấu tranh giai cấp tiếp tục dưới hình thức mới.

 Chuyên chính vô sản là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản chiến thắng đã nắm được
chính quyền trong tay và giai cấp tư sản chiến bại nhưng chưa bị tiêu diệt, chưa thôi
phản kháng mà ngược lại, còn tăng cường phản kháng mạnh hơn.
 Liên minh công nông là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản.
 Chuyên chính vô sản còn nhằm mục đích đặc biệt lớn lao là xây dựng một xã hội mới
tốt đẹp hơn chế độ cũ, không có người bóc lột người, một xã hội ấm no và hạnh phúc.
1.3. Chức năng của nhà nước XHCN
 Chức năng đối nội: tổ chức xây dựng nền kinh tế, nền văn hóa và xây dựng cong
người theo hướng XHCN; trấn áp giai cấp bóc lột, các phần tử phản động, tay sai đế
quốc phá hoại, bảo vệ chế độ XHCN trên mọi lĩnh vực.
7


 Chức năng đối ngoại: sẵn sang đập tan mọi hành động xâm lược và âm mưu gây
chiến của chủ nghĩa đế quốc, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới; ủng hộ
về mọi mặt phong trào đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập, hòa bình, dân chủ
và tiến bộ xã hội; tổ chức hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước anh em XHCN,
thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường với các nước có chế độc chính trị - xã hội
khác nhau trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyèn và hai bên cùng có lợi;
tích cực tham gia vào tiến trình toàn cầu hòa và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Nhà nước XHCN Việt
Nam 2.1. Hoàn cảnh ra
đời
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà chính đảng của
nó là Đảng Công sản Đông Dương (sau này là Đảng Lao động Việt Nam và ngày nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam), nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, đánh đổ bộ máy nhà nước của bọn thực dân phong kiến, giành độc lập
tự do cho Tổ quốc, thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với việc hoàn thành
thống nhất đất nước năm 1975, nhân dân ta đã có một nhà nước theo kiểu XHCN – Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền XHCN
Nhà nước Việt Nam được xây dựng theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà
nước pháp quyền XHCN là một tổ chức pháp lý nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân,
bảo vệ con người, điều tiết kinh tế và duy trì trật tự vì lợi ích của con người. Nhà nước, theo
tư tưởng của Hồ Chí Minh, là một nhà nước mang tính dân tộc, tính nhân dân, là nhà nước
của nhân dân, dựa trên nền tảng khối liên minh công – nông và do giai cấp công nhân lãnh
đạo thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là nhà nước chỉ có một mục đích là làm cho
mọi người “ai cũng có cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành”, một nhà nước trong đó
“dân làm chủ, chính phủ là đầy tớ”.
 Nhà nước của dân: Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền
lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm của Người được
thể hiện rõ trong bản Hiến pháp năm 1946: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn

8


thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”. Tất cả công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, đều
được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo khả năng và đức hạnh
của mình. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm
chủ của dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền
lực xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng.
 Nhà nước do dân: Nhà nước do dân có nghĩa là dân không chỉ lập ra nhà nước mà còn
phải tham gia vào công việc quản lí nhà nước, mọi công việc xây dựng đất nước là
trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là dân tự làm, tự lo công việc thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn
thể, chứ không phải do nhà nước bao cấp, lo cho dân, làm cho dân thụ động, chờ đợi,
ỷ lại. Chính vì vậy, nhà nước do dân còn là nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi
dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của nhà
nước thì việc gì cũng làm được.

 Nhà nước vì dân: Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân
làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích
nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kì một đặc quyền, đặc lợi nào.
Một nhà nước vì dân theo quan điểm của Người là từ chủ tịch nước đến công chức
bình thường đều phải làm công bộc, đầy tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan
cách mạng” để đè đầu cưỡi cổ nhân dân như dưới thời đế quốc thực dân.
Sau đây là một số trích dẫn về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
 Điều 4, Hiến pháp 1959: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đều thuộc về nhân dân”.
 Điều 6, Hiến pháp 1980: “Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân”.
 Đại hội VI, 1986: “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể XHCN.
Trong thời kì quá độ, đó là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân
chủ XHCN”.
9


 Đại hội VII, 1991: “…xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân”.
 Điều 2, Hiến páp 1992: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.

 Đại hội VIII, 1996: “…tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà nước pháp
quyền”.
 Đại hội X, 2006: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức…”
 Điều 2, Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
3. Vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước
ta 3.1. Vai trò của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta
Trong hệ thống chính trị nước ta, nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là trụ cột, là tổ

chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Đảng lãnh đạo nhà nước thực hiện và đảm bảo
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Những đặc trưng của nhà nước tạo nên những nét khác biệt nhất định về tổ chức và
phương thức hoạt động giữa nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của nhà
nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ
thống, khắc phục sự chồng chéo giữa các thành tố trong hệ thống, nhất là trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

10


3.2. Tính cấp thiết của việc nâng cao vai trò của nhà nước
 Nâng cao via trò của nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại:
Một là, khoa học công nghệ có bước phát triển nhảy vọt, đạt nhiều thành tựu, đặc biệt
trong các lĩnh vực điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng và hàng không vũ trụ.
Hai là, kinh tế tri thức ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất. Trong các thế kỷ trước, những yếu tố tạo ra sự phát triển lực lượng sản xuất là lao động,
vốn và công nghệ thì hiện nay thêm một yếu tố nữa là kinh tế tri thức. Sang thế kỷ XXI, lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển, trong đó kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật.

Ba là, toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan và thiết yếu đối với mọi quốc

gia trên thế giới, tiêu biểu là sự kiện Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế và ký kết
nhiều hiệp định quan trọng trong thời gian qua. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa là một quá
trình vô cùng phức tạp, vừa là cơ hội, đồng thời cũng là thách thức to lớn.
Bốn là, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ
khác nhau vẫn tồn tại, phát triển và có mặt sâu sắc hơn. Từ trước tới nay, Đảng ta vẫn xác
định có các mâu thuẫn cơ bản là: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau và mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc. Bên cạnh
đó, những tranh chấp về lãnh thổ gần đây giữa Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông
Nam khiến tình hình an ninh trong khu vực vô cùng căng thẳng. Các thế lực phản động cũng
nhân cơ hội mà tuyên truyền những thông tin sai lệch khiến cuộc đấu tranh bảo về nền
XHCN diễn ra ngày càng quyết liệt.
Trước những thời cơ và thách thức của thời đại, vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà
nước đòi hỏi phải được nâng cao hơn nữa nhằm đưa đất nước ta phát triển nhanh chóng,
vững chắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống.
 Nâng cao vai trò của nhà nước để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
Chúng ta vẫn đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một tất yếu của
lịch sử, đặc biệt là trong hoàn cảnh nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên XHCN thì
thời kỳ quá độ là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp và lâu dài. Theo quan điểm của tư tưởng
Marx – Lenin, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ
cao của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy đối với nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa

tiến lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam thì thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất –
11


kỹ thuật có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công nghiệp hóa XHCN. Để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trước mắt chúng ta còn rất nhiều công việc khó khăn, bề
bộn, đòi hỏi sự dẫn dắt soi đường đúng đắn của Đảng và vai trò tích cực của nhà nước.
 Nâng cao vai trò của nhà nước để khắc phục những hạn chế của nhà nước hiện nay:
Trong thực tế 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể không

chỉ nhờ vào bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và đóng góp
to lớn của toàn dân mà còn phải kể đến những cố gắng trong điều hành và quản lý của nhà
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu còn tồn tại không ít những hạn chế cần khắc
phục. Đó là sự cồng kềnh không cần thiết của bộ máy nhà nước; các thủ tục hành chính
rườm rà, bất hợp lý gây khó khăn cho nhân dân; tình trạng chủ quan, tùy tiện, tham nhũng,
quan liêu trong tổ chức và hoạt động cũng như trình trạng vừa chồng chéo, vừa bỏ sót chức
năng, nhiệm vụ trong nội bộ cơ quan quyền lực nhà nước.
3.3. Một số biện pháp giúp nâng cao vai trò của nhà nước
Đề nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của nhà nước, điều trước tiên là nhà nước phải
tập trung làm tốt các chức năng của một nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời nội dung và
cách thức thực hiện phải đổi mới so với thời kế hoạch hóa tập trung quan liêu trước đây.

Một là, nhà nước cần định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, kế hoạch và các
chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Cụ thể là nhà nước không
buông lỏng hay thả nổi công tác quy hoạch, kế hoạch, nhưng phải đổi mới công tác đó cho
phù hợp với yêu cầu xã hội nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế của quốc gia và địa phương, thu hút mọi nguồn
lực tham gia phát triển kinh tế xã hội.
Hai là, nhà nước nên tạo môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi để phát
huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch có trật tự kỷ cương.
Ba là, nhà nước phải hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội. Về mặt này, chắc chắn không ai trong chúng ta phủ

12


nhận những cố gắng của nhà nước trong thời gian qua nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận
khách quan rằng đó chưa phải là đủ.
Bốn là, nhà nước phải bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ

mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Sự tác động của nhà nước
đến thị trường chủ yếu là thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, đồng thời
cũng sử dụng kịp thời, có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị trường trong nước hoạt
động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới có biến động lớn. Ở đây, cũng
cần nhấn mạnh đến việc tiếp tục đổi mới các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm tính ổn định
và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
 Về phương thức, nhà nước có thể thực hiện sự quản lý của mình bằng hệ thống pháp
luật, giảm thiểu tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh
nghiệp; tách chức năng quản lý hành chính của nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quan”; tách hệ thống cơ quan hành
chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng
như giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao…
 Về mặt tổ chức, cần phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ
và các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà
nước về kinh tế và xã hội.
Quy trình thực hiện đầy đủ các quyết định nêu trên là một quá trình phấn đấu quyết
liệt, đòi hỏi phải dứt bỏ một số nhận thức lỗi thời. Song, với việc thực hiện đúng các nội
dung ấy, nhà nước ta sẽ phát huy mạnh mẽ vai trò quản lý của mình, vừa là người hậu thuẫn
cho kinh tế thị trường phát triển tối đa sức mạnh và mặt tích cực của nó, vừa là người hướng
dẫn cho kinh tế thị trường khắc phục các mặt tiêu cực để tiến lên một cách lành mạnh.
Không phải ngẫu nhiên mà sau khi nước ta gia nhập WTO, nhiều nước thành viên không chỉ
thừa nhận những thành tựu kinh tế to lớn của chúng ta mà cũng ghi nhận những tiến bộ đáng
kể của nhà nước ta trong quản lý kinh tế, mặc dự vẫn còn có một số sự bảo thủ. Càng không
phải ngẫu nhiên mà trong những tháng qua, trong khi hiểu rõ hệ thống quản lý của chúng ta,
các nước phát triển và đặc biệt là ASEAN đã công nhận hoặc ủng hộ công nhận kinh tế nước
ta là một nền kinh tế thị trường đầy đủ.
13


14



Phần kết luận
Từ những vấn đề trên ta có thể khẳng định sự xuất hiện của bộ máy nhà nước XHCN
đối với tinh hình nước ta hiện nay có vai trò vô cùng to lớn. Trải qua bao năm hoạt động,
nhà nước đã chứng minh được tầm quan trọng của mình qua hàng loạt đóng góp quan trọng
cho xã hội hiện nay dù rằng vẫn có những điểm yếu phát sinh trong suốt quá trình hoạt động
và quản lý. Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế đạt được sau 30 năm nỗ lực đổi mới đã
chứng minh được sự trưởng thành trong việc quản lí và cơ chế hoạt động của nền kinh tế của
nhà nước nhà. Có thể trong một tương lai không xa, với những thay đổi cần thiết nhà nước ta
sẽ ngày càng hoàn thiện về chất, làm bệ đỡ kinh tế đất nước ta đi lên.
Với tư cách là một sinh viên trường đại học Ngoại Thương, em tự thấy được trách
nhiệm của mình cần phải gắng học tập, chủ động nghiên cứu, tích cực tu bổ đạo đức, rèn
luyện bản thân và hăng say cống hiến trí tuệ cũng như sức lực mình vào công việc chung để
trong tương lai có thể góp phần phát triển nền kinh tế đất nước, biến giấc mơ sánh ngang với
các cường quốc năm châu của nhân dân Việt Nam thành hiện thực.

15


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lenin, TS Phạm Mạnh
Sinh – GS.TS Phạm Quang Phan (đồng chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, 2012.
2. Giáo trình pháp lý đại cương, GS.TS.NGND Nguyễn Thị Mơ (chủ biên), NXB Hồng
Đức, 2012.
3. Hiến pháp Việt Nam và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, NXB Lao động xã
hội, 2002.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, NXB.Chính trị quốc gia, 1995.
5. V.I.Lenin: Nhà nước và cách mạng, NXB Sự thật, 1960, tr.178
6. />c_quan_ly_nha_nuoc_o_Viet_Nam


7. />
8. />9. />10. />
16



×