Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BIỆN CHỨNG GIỮA cái CHUNG và cái RIÊNG và vận DỤNG vào VIỆC xậy DỰNG nền KTTT ở nước TA thu phương an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.39 KB, 17 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đã và đang gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng nền kinh tế. Đất
nước ta đã từng trải qua hàng nghìn năm đô hộ, liên tiếp đấu tranh chống kẻ thù
xâm lược, gánh chịu mất mát to lớn cả về vật chất và con người. Giai đoạn đầu xây
dựng XHCN, việc áp dụng nền kinh tế bao cấp làm cho nền kinh tế càng chậm phát
triển. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã quyết định thực hiện bước chuyển
đổi lớn, xây dựng nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN. Bằng cách vận dụng chủ động, sáng tạo, tích cực chủ nghĩa Mác – Lênin,
điển hình là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng vào việc xây dựng
nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước phát triển, đạt được
những mục tiêu và thành quả nhất định; khắc phục những khó khăn, thách thức; chủ
động nắm bắt thời cơ và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Vì vậy, em lựa chọn xây dựng tiểu luận Biện chứng giữa cái chung và cái riêng
và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta với mục đích
phân tích, làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, làm rõ tính
ứng dụng của mối quan hệ biện chứng đó với mục tiêu, đường lối xây dựng nền
kinh tế thị trường Việt Nam của Đảng và Nhà nước.
Do đây là lần đầu tiên trình bày bài tiểu luận và hiểu biết còn nhiều hạn chế nên
bài tiểu luận của em có thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự nhận xét, đánh giá và góp ý chỉnh sửa của cô để bài luận của em được hoàn
thiện hơn.

1


NỘI DUNG
PHẦN I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
1/ Khái niệm cái riêng:
- Phạm trù cái riêng dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình nhất định.


Ví dụ: Mỗi hành tinh trong hệ mặt trời, mỗi thành viên trong lớp
học chính trị của trường Ngoại Thương...
- Phân biệt cái riêng với cái đơn nhất: Cái đơn nhất là những cái
chỉ tồn tại một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở
các sự vật, hiện tượng khác, trong khi giữa các cái riêng lại tồn tại
một số đặc điểm chung nào đó.
Ví dụ: Trong tập thể lớp Anh 6 Kế toán Kiểm toán, mỗi sinh viên
là một cái riêng, tồn tại độc lập riêng rẽ nhưng vẫn có điểm chung
là cùng là sinh viên lớp Anh 6 Kế toán Kiểm toán.
Một ví dụ khác: Đặc điểm chiều cao, cân nặng, tuổi tác của mỗi
sinh viên lớp Anh 6 Kế toán Kiểm toán là khác nhau, chỉ có ở 1
người chứ không lặp lại chính xác ở người khác. Do đó những đặc
điểm này chính là cái đơn nhất.
2/ Khái niệm cái chung:
- Phạm trù cái chung dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, những
yếu tố, những quan hệ, tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Trong tập thể sinh viên trường đại học Ngoại Thương thì
thuộc tính “là sinh viên trường đại học Ngoại thương” là cái chung
của các thành viên trong tập thể...
- Cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính quy luật, sự lặp lại.

2


Ví dụ: Quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư là những đặc
điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân
theo.
3/ Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
a. Quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung – cái
riêng” trong lịch sử Triết học:

- Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về
mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung":
+ Phái duy vật cho rằng "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời, thoáng
qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức
của con người. "Cái chung” không phụ thuộc vào "cái riêng" mà
còn sinh ra "cái riêng".
Chẳng hạn như, bên cạnh cái cây riêng lẻ, có ý niệm cái cây nói
chung; bên cạnh ngôi nhà riêng lẻ, có ý niệm ngôi nhà nói chung...
Cái cây, ngôi nhà riêng lẻ, có ra đời, tồn tại tạm thời và mất đi,
nhưng ý niệm cái cây, ngôi nhà nói chung thì tồn tại mãi mãi; cái
cây, ngôi nhà riêng lẻ là do ý niệm cái cây, ngôi nhà nói chung
sinh ra.
+ Phái duy tâm cho rằng chỉ có “cái riêng” tồn tại thực sự, còn
“cái chung” là những cái tên gọi trống rỗng, do tư tưởng con người
bịa đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này
không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm.
Chẳng hạn như họ cho khái niệm con người, giai cấp, đấu tranh
giai cấp, cách mạng xã hội, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc,…
không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là những từ
trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Ngay đến cả
những khái niệm như vật chất, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy
tâm,…cũng bị cho là những từ không có nghĩa. Như vậy ranh giới
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xoá nhoà và con
3


người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan
điểm triết học nữa.
- Cả quan niệm của phái duy vật và phái duy tâm đều sai lầm ở
chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng,

phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại
khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
b. Phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái
đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái
chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn không có
cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ
thể. Những cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân,
có lá, có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc
tính chung này lặp lại những cái cây riêng lẻ, và được phản ánh
trong khái niệm "cây". Đó là cái chung của những cái cây cụ thể.
Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái
riêng mà phải thông qua cái riêng.
+ Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.
Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có
liên hệ với cái chung. Ví dụ, mỗi con người là một cái riêng, nhưng
mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự
nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật
sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi
con người.
+ Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái
chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong
4


phú hơn cái chung và ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn
có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản

ánh thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại nhiều
cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản
chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Có
thể khái quát bằng công thức:
Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất
Cái chung chỉ giữ phần bản chất hình thành nên chiều sâu của
sự vật còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động.
Trong cái riêng luôn tồn tại cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế,
giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua
lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự va chạm giữa những cái
riêng vừa làm cho sự vật xích lại bởi cái chung, vừa làm cho sự vật
tách xa nhau bởi cái đơn nhất.Cũng nhờ sự tương tác này mà cái
riêng có thể được phát hiện.
Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông
dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông
nghiệp, sống ở nông thôn…còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh
hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc,
của điều kiện tự nhiên của đất nước, cần cù lao động, chịu thương
chịu khó…
+ Thứ tư: Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau
trong quá trình phát triển của sự vật. Sở dĩ như vậy là vì trong hiện
thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Về
sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở
thành cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù
hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu
hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự
5



chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá
trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Chẳng hạn, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước
sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện
một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới,
đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ
biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện
mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để
biểu thị sự tồn tại của mình, vậy nên chỉ có thể tìm cái chung trong
cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng
lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên
ngoài cái riêng.
- Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên
nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực
tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động
thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu
biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một
cách mò mẫm, mù quáng. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông
qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo cái riêng cụ
thể để vận dụng cho thích hợp.
Ví dụ, khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở mỗi
nước để vận dụng những nguyên lý đó cho thích hợp, có vậy mới
đưa lại kết quả trong hoạt động thực.
- Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện
nhất định "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược
lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt
6



động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái
đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái
chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất".
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
nhằm phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam một cách vững
chắc, theo kịp các quốc gia khác đồng thời cung cấp cơ sở vật chất
cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
PHẦN II/ VẬN DỤNG QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG
VÀ CÁI RIÊNG VÀO NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM:
1/ Khái niệm kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo
đảm có có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và
phong phú hàng hóa, dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hóa
thị trường, năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và
thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường,
với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa, mở
rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả,
đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung-cầu.
2/ Tính tất yếu phải tiến lên kinh tế thị trường ở Việt Nam:
- Về hoàn cảnh lịch sử, đất nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc
chiến tranh giữ nước khốc liệt mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi
còn bị tàn phá nặng nề.
- Sau chiến tranh, nước ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp,
kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất. Trong thời gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực
của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống
XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của
nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế

hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lượng vật chất
quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển
7


kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp,
đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến.
- Sau ngày giải phóng miền Nam, trên bức tranh về nền kinh tế
nước ta tồn tại một lúc cả ba hình thức: kinh tế tự cấp tự túc, kinh
tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài
hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc không cân
nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo
ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng
phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường... Lúc này, nước ta đồng thời
cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN.
Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta
trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số nơi còn bị
nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ những sai
lầm cơ bản như:
+ Chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được thực hiện
trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một
bộ phận tài sản vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực
vốn đang rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một
gia tăng với tỉ lệ khá cao (2,2%).
+ Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện
chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình
thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp
đã làm mất động lực của sự phát triển.
+ Việc quản lý kinh tế của nhà nước sử dụng các công cụ hành

chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu
tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không
kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.

8


Chính vì việc quá tập trung vào cái bên ngoài cái riêng, đó là
những mục tiêu phát triển, xây dựng mà quên đi cái riêng là những
sở hữu tư nhân và cá nhân. Điều đó trái với quy luật phát triển và
quan hệ giữa cái chung và cái riêng dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Đồng thời trước
những đổi thay của tình hình kinh tế thế giới là các nước tư bản
chủ nghĩa đã sớm chuyển sang kinh tế thị trường và đạt được
những bước tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế. Đó là những yêu
cầu cấp bách đòi hỏi phải thay đổi phương hướng, con đường
nhằm cải thiện nền kinh tế trong nước. Nói cách khác đó là những
điều kiện tiên quyết yêu cầu cái chung phải trở thành cái đơn nhất
và cái đơn nhất phải trở thành cái chung, tức là cơ chế quản lý
kinh tế từ kế hoạch tập trung phải trở thành nền kinh tế thị trường
hội nhập cùng thế giới.
Chính vì vậy mà từ đại hội Đảng VI, chúng ta đã có quyết định về
việc chuyến sang kinh tế thị trường, đánh dấu một bước ngoặt lớn
trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên việc chuyển đổi tiếp thu cần phải
là bản chất chứ không chỉ dừng lại ở hình thức, phải giữ được cái
đơn nhất cần thiết của nền kinh tế đất nước, từ đó còn phải xây
dựng một nền kinh tế mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định
biện chứng đối với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Việc
chuyển đổi này mặc dù đã gây ra rất nhiều khó khăn cho nền kinh
tế trong nước nhưng đó là một bước phát triển tất yếu cần thiết

đúng theo quy luật biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
3/ Nền kinh tế thị trường mang định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam:
- Đảng và nhà nước đã vận dụng chủ động, sáng tạo mối quan
hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng vào việc quản lí nền kinh
tế nước ta để đạt được nhiều thành tựu. Điều đó được thể hiện ở
việc quan tâm đến phát triển từng cá thể - tức cái riêng, đồng thời
9


hướng những cái riêng này theo một cái chung nhất định là định
hướng xã hội chủ nghĩa. Học tập, tiếp thu nền kinh tế thị trường
của các nước tư bản nhưng không làm mất cái đơn nhất là bản
chất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã giúp cho chúng ta xây dựng
được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, thể hiện qua các mặt:
+ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản
lý và phân phối nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
+ Về sở hữu: Phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở
hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá
hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống
nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác
lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ
yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không
tính đến hiệu quả như trước đây.

+ Về quản lý: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế
hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo
vệ lợi ích của nhân dân lao động của toàn thể nhân dân.

10


+ Về phân phối: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thực hiện đa dạng hoá các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông
qua phúc lợi xã hội". Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích
thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất công trong xã hội. Thực
hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
+ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trình độ tư duy, và vận dụng của

Đảng ta về quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
4/ Thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa:
a. Về lĩnh vực con người:
Người Việt nam hiện nay đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy
cảm (đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm 80.
b. Về lĩnh vực kinh tế:
- Nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo một đường
lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng, con người, tự
11


nhiên, xã hội, điều kiện lịch sử...) của Việt Nam mà nền kinh tế
cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể.
- Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Nhà nước
đã và đang kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do
kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho các gia
đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi xã hội, tiến hành xây
dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội...
5/ Tiếp tục xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam:
Thực tiễn phát triển nhanh về kinh tế, ổn định về chính trị, xã hội
và vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế đã đặt
ra yêu cầu cho Đảng và Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, những chủ trương và giải pháp cụ
thể được đề ra là:

a. Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta:
Đó là nền kinh tế mà trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên
tắc vận hành được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng mạnh
mẽ nhất sức sản xuất, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Là nền kinh tế vừa tuân theo các quy luật khách quan của thị
trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế và các mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, thông qua vai trò quản lý, điều hành
định hướng của Nhà nước, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
b. Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế,
các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh:
- Hoàn thiện chính sách phân phối để các nguồn lực của đất
nước ngày càng được sử dụng với hiệu quả cao hơn và giải quyết
12


tốt hơn các quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tăng trưởng
kinh tế và chính sách xã hội, giữa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp
và người lao động, giữa các khu vực, vùng, miền...
- Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các chủ thể trong nền kinh tế để doanh nghiệp nhà nước góp
phần đắc lực vào vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời
các loại hình doanh nghiệp khác cùng phát triển mạnh mẽ, cùng
hợp tác đầu tư lẫn nhau, liên doanh, liên kết và cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng trong cùng một mặt bằng pháp lý.
- Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để
các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
Thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự

nghiệp về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và về tài chính trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Thay thế những quy chế không còn phù hợp bằng cơ chế mới
(nhất là chính sách tài chính - mô hình quản lý) để tạo điều kiện
cho lực lượng báo chí Việt Nam phát triển theo mô hình báo chí truyền thông hiện đại, có bản lĩnh chính trị - nghiệp vụ vững vàng,
tiềm lực kinh tế mạnh, kỹ thuật - công nghệ tiên tiến để hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới.
c. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố của thị trường
và phát triển đồng bộ các loại thị trường:
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền trong kinh doanh, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Đa dạng hóa các loại
thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, tương
thích với các phương thức giao dịch quốc tế theo các cam kết và lộ
trình mở cửa hội nhập ngày càng cao.

13


Đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
theo đúng chức năng của một ngân hàng trung ương hiện đại, trên
cơ sở đó phát huy tốt hơn vai trò điều hành thị trường tiền tệ, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bên
cạnh đó là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, thực hiện
tốt việc cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước, thu hút
được các đối tác chiến lược (kể cả trong và ngoài nước), song Nhà
nước giữ cổ phần chi phối.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để thị trường chứng
khoán tiếp tục phát triển lành mạnh, thị trường bảo hiểm phát
triển đa dạng với chất lượng cao, các quyền về đất đai, bất động

sản vận động theo cơ chế thị trường, phát huy vai trò một nguồn
vốn to lớn trong sản xuất kinh doanh.
- Hệ thống chính sách, pháp luật về tiền lương, tiền công cần
sớm hoàn thiện đi đôi với kiểm soát lạm phát để bảo đảm thu nhập
thực tế ngày càng tăng cho người hưởng lương.
d. Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ
môi trường:
Tiếp tục khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực giảm nghèo,
vươn lên no ấm, tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở một
số vùng trọng điểm có tỷ lệ hộ nghèo cao, thu hẹp hợp lý khoảng
cách giàu nghèo giữa các đối tượng, các vùng, không để sự chênh
lệch đó trở thành vấn đề xã hội bức xúc.
e. Hoàn thiện thể chế, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia
của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp
và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội:
- Tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để
xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Coi trọng đổi mới tư duy, công tác tuyên truyền, giáo
14


dục đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thống
nhất nhận thức về vấn đề này, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh
vực xây dựng và thực thi thể chế kinh tế...
- Đổi mới, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà
nước phù hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển thể chế
mới và hội nhập kinh tế quốc té...

- Nâng cao vai trò của các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã
hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân để tham gia
có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát thực
hiện pháp luật, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

15


KẾT LUẬN
Tiểu luận với đề tài "Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận
dụng vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" của tôi đã nêu ra
những kiến thức cơ bản về cái chung và cái riêng, mối quan hệ
biện chứng giữa chúng. Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ với
nhau. Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng để
thể hiện sự tồn tại của mình, còn cái riêng tồn tại tronh mối liên hệ
dẫn đến cái chung. Vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam, đất nước
ta đã tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tiếp thu cái chung của nền kinh tế thế giới nhưng không
làm mất cái đơn nhất, bản sắc của nền kinh tế Việt Nam. Thực hiện
đúng quy luật phát triển chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Tiểu luận đã phân
tích thành tựu của nền kinh tế đạt được qua việc vận dụng nguyên
lý cơ bản của Mác Lênin.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục cải
thiện những điểm thiếu xót nhằm hoàn thiện nền kinh tế, tiêu biểu
là cải thiện nhận thức, thống nhất quan điểm để mỗi cá nhân đều
tin tưởng vào nền kinh tế thị trường bản chất xã hộ chủ nghĩa ở
nước ta thông qua việc giáo dục tuyên truyền. Đồng thời là tăng
cường công tác quản lí của Nhà nước, kích thích các doanh nghiệp
cá nhân c tranh phát triển công bằng, lành mạnh. Tích cực hội

nhập, học hỏi nền kinh tế quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp
đầu tư vào Việt Nam.Qua đó làm cho nền kinh tế của nước ta năng
động, phát triển, hội nhập cùng thế giới.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin
2. Mai Ngọc Cường, Lý thuyết hiện đại về kinh tế thị trường
3. Nguyễn Sinh Cúc, Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa
4. Đỗ Đức Thịnh, Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước
đang phát triển ở Châu Á
5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII)

17



×