Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

LỊCH sử RA đời và PHÁT TRIỂN của sản XUẤT HÀNG hóa TRÊN THẾ GIỚI và VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.91 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình CNH-HĐH đất nước, quá trình phát triển quá độ của
xã hội cùng với những công nghệ tiên tiến vượt bật. Việc sản xuất hàng hóa
với chất lượng và số lượng không ngừng được thay đổi. Sản xuất hàng hóa
là một quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu, nhằm
làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Năm 1982, đại hội V của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam trong thời kì
1976-1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu
nhập quốc dân chưa đảm bảo được nhu cầu của xã hội đời sống nhân dân
lao động còn nhiều khó khăn" điều này chứng tỏ chúng ta chưa có nền sản
xuất hàng hóa hoàn hảo. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị
trường và nền sản xuất hàng hóa tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản đã đạt đươc
những thành tựu về kinh tế- xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao
năng suất và hiệu quả lao động. Cũng nhờ sản xuất hàng hóa, quản lý xã
hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công
cộng; con người nhạy cảm, tinh tế với khả năng sáng tạo, sự thách thức và
đua tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta
kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế
thị trường và nền sản xuất hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kích
thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Bước những bước đầu tiên vào nền kinh tế thị
trường đầy khó khăn, phức tạp, nền kinh tế đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh
nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân nhắc, sáng tạo, chọn lựa cho phù hợp
với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Chính vì vậy viêc nghiên cứu
lịch sử hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa là một viêc làm giúp
ta hiểu sâu hơn về quá trình ra đời của hàng hóa. Từ đó liên hệ đối với bản
thân và đối với nước ta, nhằm làm cho quá trình sản xuất hàng hóa của
nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao hơn. Để tìm hiểu kĩ về vấn
đề này em xin chọn đề “Lịch sử ra đời và phát triển của sản xuất hàng
hóa trên thế giới và Việt Nam” . Trong quá trình làm bài chắc chắn em


không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy (cô)
để bài tập lớn của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

1


NỘI DUNG
I. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA TRÊN
THẾ GIỚI

1. Sơ lược về lịch sử ra đời và phát triển sản xuất hàng hoá
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó
trong quá trình lịch sử lâu dài. ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất
hàng hoá là sản xuất giản đơn chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính
sản xuất hàng hoá giản đơn đã tạo khả năng phát triển lực lượng sản xuất
thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế trước đó vốn tách
biệt nhau. Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ
phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là
sản xuất hàng hoá TBCN.
2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
2.1. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội tức là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân
chia lao động xã hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Phân
công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng
mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Do sự phân công lao động xã hội nên việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu. Khi có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một vài thứ sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi họ

phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó, họ cần đến sản phẩm của
nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Phân công lao động xã hội, chuyên môn
hóa sản xuất đồng thời làm cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm
thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
2


2.2.Sự tách biệt kinh tế
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất tức
là những người sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định
với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh
tế, người này muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người khác cần phải
thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử, sự tách biệt này do
chế độ tư hữu về tư hữu tư liệu sản xuất quy định. Trong chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và kết quả
là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản xuất hàng hoá
ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hai điều kiện trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn sự tách biệt tương đối về
mặt kinh tế giữa những người sản xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập
với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được giải quyết thông qua
trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản
xuất hàng hóa.
Cả hai điều kiện không được thiếu một điều nào, thiếu một trong hai
điều kiện đó sẽ không có sản xuất hàng hóa
3.Các giai đoạn phát triển của sản xuất hàng hóa
Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ thời kỳ
tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, tồn tại và phát triển ở các phương
thức sản xuất tiếp theo.
Sản xuất hàng hóa phát triển cao nhất, phổ biến nhất trong chủ nghĩa

tư bản và trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình, nổi bật trong
lịch sử.
Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội
vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau và
trình độ phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Như vậy, sản xuất
3


hàng hóa xuất hiện rồi tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của
lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Nó có nhiều ưu thế, tiến bộ so
với sản xuất tự cấp tự túc mà cho tới nay chưa có hình thức sản xuất xã hội
nào có ưu thế hơn nó. Tuy nhiên, ở các xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa
có vai trò và giới hạn khác nhau.
4. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Theo chủ nghĩa
Marx-Lenin thì trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau
là sản xuất tự cung, tự cấp( tự túc, tự cấp) và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự
cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như
sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của
những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong kiến... Trong khi đó,
sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất
ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người
trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người
khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa
mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã
hội vì sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác
trong xã hội. Nhưng với sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của

người sản xuất hàng hóa đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản
xuất cái gì, như thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi
người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp với tính
chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa. The chủ
nghĩa Marx-Lenin thì mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội
là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
4


Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không
phải giá trị sử dụng.
5. Ưu thế, ý nghĩa
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản
phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu
thế, và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản
xuất tự cấp tự túc:
Nó làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động xã hội .Nó thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh tróng
làm cho sự phân công chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác
hoá chặt chẽ hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau
của những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới.
Nó thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở
để thúc đẩy quá trình dân chủ hoá, bình đẳng và tiến bộ xã hội. Do sản xuất
hàng hoá dựa trên sự phân công lao động XH, chuyên môn hoá sản xuất
nên nó khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sản
xuất hàng hoá cũng tác động trở lại làm cho phân công lao động XH,
chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó, làm cho năng suất lao
động tăng lên nhanh chóng đủ, nhu cầu của XH được đáp ứng đầy hơn.

Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn
bởi nguồn lực và nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng
mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực XH. Từ đó, tạo
điều kiện cho việc ứng dụng những thành tựu KH – KT vào sản xuất, thúc
đẩy sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn.

5


Trong nền sản xuất hàng hóa, để tồn tại và sản xuất có lãi, người sản
xuất phải luôn luôn năng động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng. Nhờ đó, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, năng
suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Sự phát triển sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân,
các vùng, các nước... không chỉ làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống
văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
II. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA CỦA
VIỆT NAM

1.

Các giai đoạn phát triển của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời kì phong kiến tới nền kinh tế

hàng hóa sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã không ngừng biến
đổi và phát triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa
cao, chính sách bế quan của một số triều đại kìm hãm sự lưu thông hàng
hóa. Sở hữu về tư liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp

trên. Tóm lại, ở thời kỳ này, nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất
hiện, chưa phát triển.
Trong thời kỳ bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là
nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm
hãm sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất , thủ tiêu cạnh tranh và lưu
thông thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta thười kỳ này đã khiến
nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa xuống dốc không phanh. Từ
năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm.
Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm 1979 giảm 2%, năm 1980
gảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa với tốc độ
6


tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người sụt
giảm 14%.
Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền
kinh tế sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hộ chủ nghĩa, nền kinh tế
sản xuất hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kỳ này có
thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1986-2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần
được công nhận và bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên
cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển nông
nghiệp toàn diện. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Tuy nhiên, thời kỳ này nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều
tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát triển
chiều sâu.

Giai đoạn 2000-2007: Đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Năm 2003 tăng 7,3%, 2004
tăng 7,7%, 2005 tăng 8,4%, 2006 tăng 8,2%. Tốc độ tăng trưởng năm 2007
là 8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt
Nam phát triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị
trường ra thế giới.
Giai đoạn 2007-nay: nền kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. tăng
trưởng GDP giảm xuống và lạm phát kéo dài. Các chính sách đưa ra không
đem lại hiệu quả.

7


-Đến năm 2015, mức tăng trưởng cao hơn mức tăng 5,98% của năm
2014 và mức tăng 5,42% của năm 2013 cho thấy dấu hiệu tích cực của nền
kinh tế.
-Năm 2016, GDP ước tính tăng 6,21% so với năm 2015 và đến năm
2017, tăng trưởng kinh tế đạt 6,81%, vượt chỉ tiêu 6,7% do Quốc hội đề ra
và là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua.

Nguồn ảnh: />
2. Đặc điểm của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực
lượng sản xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản
xuất hàng hoá của ta không giống với nền sản xuất hàng hoá của các nước
khác trên thế giới với những đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ
một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang
một nền kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao.


8


Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế
nước ta: Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và
công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như
không có, đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó
thì thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân thấp kém
khiến dung lượng hàng hoá trên thị trường có sự thay đổi rất chậm chạp,
khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thấp. Từ sự thật không
mấy sáng sủa này, buộc ta phải có chiến lược phát triển để vượt qua thực
trạng của nền kinh tế, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả về số lượng
lẫn chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá ở
nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại
nhiều thành phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hoá kém phát triển do
nhiều nhân tố song nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không
đúng đắn dẫn đến nôn nóng xoá bỏ nhanh các thành phần kinh tế, thực chất
là xoá bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, làm mất khả năng
cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều
thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền
kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo hướng phát triển
kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hoá thu
hút một số lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu công- nông nghiệp và dịch vụ
sớm hình thành theo định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII
đã đề ra. Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần
kinh tế đều được tự do kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nó còn làm cho các chủ thể
kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng
trước pháp luật.


9


Thứ ba: Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở”giữa nước ta
với các nước trên thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan toả
cảng”, luẩn quẩn sau luỹ tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, kém
phát triển có thể nói là lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh
tế hàng hoá TBCN đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó
với thị trường thế giới. Do sự phân bố phát triển không đều về tài nguyên
thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công
và hợp tác lao động quốc tế, đời sống mang tính quốc tế hoá …dẫn đến nhu
cầu khách quan là mở cửa nền kinh tế hàng hoá để đạt được hiệu quả cao
và phát triển với tốc độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN với vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
do bản chất vốn có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng
yếu, nên đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo định
hướng XHCN. Tuy nhiên vai trò của nó chỉ được khẳng định khi nó phát
huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác, nó sớm
chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả để
đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực là làm thay đổi bộ mặt
của đất nước không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định về mặt xã
hội như: phá sản, khủng hoảng , áp bức bất công, tàn phá môi trường, phân
hoá giầu nghèo... Chính vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hoá tập trung

quan liêu, bao cấp nên những công cụ để Nhà nước đIều hành vĩ mô nền
10


kinh tế hàng hoá như : hệ thống ngân hàng, tín dụng … còn thấp kém.
Nước ta đang xây dựng pháp luật về kinh tế nhưng lại chưa đồng bộ, xã hội
chưa quen với việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh. Trình độ hiểu
biết của nhà nước về cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế, thiếu tính khoa
học, thực tế còn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó
xu hướng vận động khách quan của nước ta trước mắt và lâu dài là phấn
đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình
độ quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ định hướng đó đảng đã kiên định chiến
lược phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Mà nhà
nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng là nhân tố
quyết định nhất đảm bảo tính định hướng XHCN.
Sau hơn mười năm đổi mới ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể
làm vai trò quản lý của nhà nước được tăng cường. Bằng các công cụ rất
riêng: pháp luật kế hoạch, thiết chế về tài chính, tiền tệ và những phương
tiện vật chất khác. Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những
mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các
khuyết tật của cơ chế thị trường.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hoá ở trên có quan hệ mật thiết
với nhau phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận
động nội tại của quá trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hoá ở
nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế
nền kinh tế hàng hoá( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh và quy luật lưu thông tiền tệ) bắt nguồn từ vai trò định hướng của


11


kinh tế nhà nước và vai trò quản lý của nhà nước ở nước ta. Nhà nước là
của dân và vì dân quyết định.
3. Thực trạng nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những điều kiện chung
của sản xuất hàng hóa vẫn còn, bởi vậy nền sản xuất hàng hoá tồn tại là
một tất yếu khách quan.
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng
những không mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi biên giới
quốc gia và ngày càng mang tính quốc tế.
Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của
nền kinh tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau
giữa những người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động. Sự phân
công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành, từng cơ sở
và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. hiện nay ta đã
có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phan công lao động đó là:
Thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,… Tạo đà cho nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh chóng hoà nhập
được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể
của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu hỗn
hợp, đồng sở hữu,… Chế độ xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, các xí
nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa đều nhau. Sở dĩ như vậy
là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại
của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan .


12


Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người
sản xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng
lên do tích luỹ kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên
dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày
càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản
phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng
làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Việc trao
đổi hàng hoá dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho người sản xuất luôn
tìm cách tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí cá biệt, giảm giá trị
hàng hoá cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi. Trên cơ sở phân công lao
động, sản xuất hàng hoá phát triển. Khi sản xuất hàng hoá phát triển sẽ làm
phân công lao động ngày càng cao hơn, sâu hơn. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ,
quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có
hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ
pháp lý xẫ hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi (tuy bên cạnh đó vẫn còn có
những khuyết điểm) của sản xất hàng hoá mà tại đại hội VII Đảng ta đã xác
định phương hướng: Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
4. Phương hướng phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế, chính trị,
xã hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội được
xây dựng ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, hệ thống
pháp luật và bộ máy nhà nước được củng cố và trong sạch hoá, số lượng
các nhà quản lý, nhà kinh doanh giỏi thích nghi với cơ chế thị trường ngày
càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng đã xác định hướng đi của nền kinh

tế cho phù hợp với các điều kiện tiền đề hiện có:

13


Trước hết phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa
dạng: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp …
Tiếp đến: cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm
khâu mặt hàng trọng yếu chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về
mọi mặt đủ sức đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Ba là: sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà
nước để phát huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngoài nước với
nhà nước về các mặt vốn, công nghệ và tài năng quản lý.
Bốn là: đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo
hướng chuyên môn hoá kết hợp đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tăng
cường và phát triển ngành sản xuất phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
Năm là: đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá coi trọng
việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ của loài người. Dẫn
đến đẩy mạnh kinh tế hàng hoá phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và
làm tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta trên thị trường khu vực
và quốc tế.
Sáu là: xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng phải lấy
thị trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng
cạnh tranh dựa trên cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi vì người ta chỉ
nhập khẩu những gì là thế yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức
là bán hay xuất cái mà thị trường cần chứ không phải cái mà mình có.
Bảy là: thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển của
kinh tế hàng hoá. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hoá về hình thức,
đa phương hoá về nguồn và hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào công

việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị.
14


KẾT LUẬN
Như vậy trong tiểu luận này em đã trình bày lịch sử ra đời và phát
triển của sản xuất hàng hóa trên thế giới và liên hệ thực tiễn với Việt Nam.
Đất nước ta hiện nay trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đó là
một thời kì phức tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật
chất hạ tầng cho chủ nghĩa xã hội để hoàn thành cách mạng dân chủ.
Trong tương lai không xa, em hi vọng, Nhà nước ta có được những chính
sách kinh tế thật sự hợp lý để nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân
cũng như đưa đất nước lên tầm cao mới xứng danh với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
-Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lenin, nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, năm 2016, Trang 186-189.
-C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập, nxb chính trị quốc gia, hà nội, 1993
2.Web
/> /> /> />
15


16



×