Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

LÝ LUẬN tập TRUNG tư bản và XU THẾ ma TOÀN cầu ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.57 KB, 13 trang )

Trong nền kinh tế thị trường đang trên đà phát triển và hội nhập toàn cầu
ngày nay, sự đổi mới liên tục trong chiến lược, kế hoạch, phương thức kinh
doanh là không thể thiếu trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế, ngoài
ra không thể phủ nhận tầm quan trọng của những yếu tố khác như vốn, quy
mô kinh donh và áp dụng công nghệ kĩ thuật. Trong đó, nguồn vốn không chỉ
quyết định đến quy mô, tính chất dự án mà còn ảnh hưởng lớn đến kết quả
kinh doanh kể cả về thời gian lẫn phạm vi ảnh hưởng. Vốn là cơ sở để tạo ra
việc làm, để có công nghệ tiên tiến, để tăng năng lực sản xuất của doanh
nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển nền sản xuất theo
chiều sâu và cuối cùng cơ cấu sử dụng vốn sẽ là điều quan trọng tác động vào
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ở Việt Nam, trong hoàn cảnh nền kinh tế thị trường ngày càng mở cửa, các
nguồn vốn không còn hạn hẹp ở tư nhân và nhà nước mà thêm vào đó là sự góp
vốn của người lao động (thể hiện ở chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước), sự hợp tác để cùng vượt qua khủng hoảng và cạnh tranh bằng xu hướng
hoạt động M&A. Nhận thức được tầm quan trọng của tập trung tư bản trong xây
dựng nền kinh tế tại Việt Nam, em xin chọn đề tài “Lý luận tập trung tư bản và
xu thế M&A toàn cầu ở Việt Nam”. Trong bài viết này em có nêu cơ sở lý luận
chung tập trung tư bản và vấn đề cổ phần hóa, hoạt động M&A ở Việt Nam.

1


CHƯƠNG 1.

LÝ LUẬN TẬP TRUNG TƯ BẢN

1.1. Tập trung tư bản là gì?
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp
nhất những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khách
lớn hơn. Tập trung tư bản làm quy mô tư bản cá biệt lớn hơn nhưng quy mô tư


bản xã hội không tăng.
Cạnh tranh và tín dụng là những đòn bẩy manh nhất thúc đẩy tập trung tư
bản. Do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết tự nguyện hay sáp nhập các tư bản
cá biệt. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền
nhàn rỗi trong xã hội vào tay các nhà tư bản.
Hình thức chủ yếu của tập trung tư bản là tạo ra các công ty cổ phần. Trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản hiện nay, tập trung tư bản không chỉ diễn ra theo
chiều ngang mà còn diễn ra theo chiều dọc. Trên cơ sở đó, xuất hiện các tổ
chức độc quyền nhiều ngành và các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
1.2. Vai trò và các tác động của tập trung tư bản trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản
Nhờ có tập trung tư bản mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn lao động
hợp tác, biến quá trình sản xuất rời rạc, thủ công thành quá trình sản xuất phối
hợp theo quy mô lớn và được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng được những
công trình công nghiệp lớn, sử dụng được kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

Tập trung tư bản làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên, nhờ đó năng
suất lao động tăng lên nhanh chóng. Vì vậy, tập trung tư bản trở thành đòn bẩy
mạnh mẽ của tích lũy tư bản.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó, nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa cũng càng trở thành nền sản xuất xã hội hóa cao độ, làm cho
mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc.

2


CHƯƠNG 2. TẬP TRUNG TƯ BẢN TRONG THỰC TIỄN 2.1.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam
2.1.1. Cổ phần hóa (CPH) là gì?
Cổ phần hóa doanh nghiệp là việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành

công ty cổ phần đối với những DNNN thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu
tư, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần làm
chủ thực sự doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công
nghệ, phát triển doanh nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, vấn đề cổ phần hóa đã và đang được Nhà nước và các DNNN quan
tâm và nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, và đã được đặt trong một quá
trình rộng lớn hơn: là quá trình tư nhân hóa, hay nói khác đi CPH là một trong
những biện pháp thực hiện tư nhân hóa. Nắm bắt được yêu cầu đổi mới quan hệ
sở hữu là một trong những con đường hết sức quan trọng để cải cách DNNN (các
khu vực kinh tế đang đứng trước sự đỏi hỏi phải được đôi mới một cách tích cực
và triệt để), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành chính sách CPH trong DNNN và
nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.

2.1.2. Một số đặc điểm về cổ phần hóa DNNN
Cổ phần hóa DNNN thực hiện chuyển đôi hình thức hoạt động của doanh
nghiệp từ DNNN sang Công ty cổ phần. Điều này có nghĩa là: khi DNNN đã
thực hiện xong quy trình CPH theo quy định của pháp luật, thì nó sẽ không
thuộc loại hình DNNN và không chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp
Nhà nước nữa. Lúc này công ty sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
CPH chuyển doanh nghiệp từ một chủ sử hữu: Nhà nước, sang hình thức sở
hữu nhiều thành phần. Xác định giá trị doanh nghiệp, và cố phiếu phát hành, Nhà
nước bán cổ phiếu cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọt thành phần kinh tế: tập
thể, tư nhân, tư bản nhà nước, … có đủ điều kiện mua cổ phiếu. Khi thực hiện
CPH, Nhà nước không tiến hành CPH cho tất cả các DNNN đang tồn tại
3


mà chỉ cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước khồn cần thiết phải
nắm giữ 100% sở hữu. Trong số những DNNN thuộc diện cổ phần hóa, những
trường hợp nào xét thấy vẫn cần thiết phải có sự tham gia điều hành Nhà nước

(những doanh nghiệp có tầm quan trọng đối với nền kinh tế), thì Nhà nước sẽ
nắm giữ cố phần cho phối hoặc cổ phần đặc biệt.
2.1.3 Vì sao nhà nước ta chủ trương tiến hành CPH?
Nhà nước muốn tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, có đông
đảo người lao động tham gia, từ đó tạo điều kiện để người lao động trong
doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự.
CPH giúp thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản của Nhà nước, nâng cao thu nhập người
lao động, góp phần làm tăng trưởng kinh tế đất nước.
CPH nhằm huy động vốn của toàn xã hội, tạn dụng nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm,
phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước.
2.1.4. Một số kết quả đạt được từ việc CPH doanh nghiệp
CPH là một phần quan trọng trong cải cách hệ thống DNNN của nhiều quốc
gia trên thế giới kể từ đầu tập niên 80 thế kỉ XX. Ở Việt Nam, CPH DNNN là
một quá trình tìm tói thử nghiệm và từng bước tháo gỡ khó khăn trong quá
trình triển khai. Trong quá trình đó, Đảng ta không ngừng đổi mưới tư duy,
từng bước chỉ đạo đúng đắn cổ phần hóa góp phần sắp xếp, củng cố, phát triển
và nâng cao hiệu quả của hệ thống DNNN trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tạihội thảo vởi nội dung về tái cấu trúc doanh nghiệp
nhà nước tổ chức vò cuối tháng 3/2012, Phó cục trưởng Cục Tài chính doanh
nghiệp (Bộ tài chính) Đặng Quyết Tiến thông báo, tính đến tháng 10/2011, cả
nước còn 1.309 DNNN.
4


Tổng tài sản của số lượng doanh nghiệp trên là gần 1.800 ngìn tỷ đồng, vốn
chủ sở hữu 700 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận 162 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách
nhà nước 231 nghìn tỷ đồng. Các doanh nghiệp nhà nước hàng năm đóng góp

lhoảng 35% GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim
ngạch xuất khẩu, 28,8% tổng thu nội địa và tạo thu nhập từ 3,5 - 5 triệu
đồng/người/tháng cho khoảng 1,2 triệu lao động.


Về hiệu quả sản xuất kinh doanh

Một cách toàn diện, các DNNN từ sau CPH đều hoạt động có hiệu quả hơn
trước khi tiến hành CPH kể cả những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ (Điển hình
như công ty GEMADEFT trước khi vào CPH vốn Nhà nước chỉ có 1,2 tỉ đồng
được đánh giá lên thành 6 tỉ đồng, sau 7 năm hoạt động theo mô hình mới vốn
đã lên tới 140 tỉ đồng).
Những DNNN thực hiện CPH có hiệu quả chính là những công ty cổ phần
đầu tiên niêm yết trên thị trước chứng khoán ở Việt Nam, điều này làm tăng
uy tín cũng như vị thế của các DNNN được CPH trên thương trường, từ đó tạo
điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp này có được một chỗ đứng tốt
trong nền kinh tế Việt Nam đang trong đà hội nhập và phát triển.


Về việc làm cho người lao động

Việc các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả phát đạt đã tạo cơ hội lớn về
việc làm cho người lao động. Khi nguồn vốn huy động lớn, các doanh nghiệp
bị và có nhu cầu tủy thêm lao động. Hầu hết các doanh nghiệp được CPH thì
việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có xu
hướng tăng lên. Tính đến 28/2/2003 quỹ hỗ trợ lao động dôi dư đã cấp 409,63
tỉ đồng hỗ trợ cho 387 doanh nghiệp, giải quyết 14 579 lao động dôi dư. Thu
nhập bình quân của lao động làm việc trong các cônh ty cổ phần tăng bình
quân hàng năm là 20%.


5


Với chủ trương CPH, với cơ chế chính sách mới, người lao động thực sự trở
thành chủ nhân của cácc ông ty cổ phần. Chính nhờ vậy, họ đã nâng cao được
tính chủ động sáng tạo, ý thức kỷ luật cũng như tinh thần trách nhiệm nhằm đem
lại hiệu quả cao nhất đối với những công việc cũng như đối với thành công của
các doanh nghiệp, từ đó làm cho sản lượng, chất lượng, doanh thu, lợi nhuận, tích
lũy vốn tăng đáng kể sau mỗi năm hoạt động sản xuất kinh doanh.


Về huy động vốn

Viêc thực hiện chủ trương CPH DNNN đã tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thu hút được nguồn vốn lớn trong xã hội để đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh. Chỉ tính riêng 370 DNNN được CPH tính đến ngày 31/12/1999
thì tại thời điểm CPH, giá trị phần vốn Nhà nước là 1349 tỉ đồng, qua CPH đã
thu thêm được 1432 tỉ đồng của các cả nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế khác đầu tư vào các công ty cổ phần, đồng thời nhà nước đã thu được
714 tỉ đồng để đầu tư vào các doanh nghiệp Nhà nước khác và giải quyết
những chính sách cho người lao động trong DNNN thực hiện CPH.
Khi xác định lại phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH thì nhìn
chung đều tăng lên từ 10-15% so với giá trị trên sổ sách. Như vậy, khi thực
hiện CPH vốn Nhà nước khống mất đi mà lại được tăng lên, thêm vào đó lại
thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân.
2.1.5. Những hạn chế của quá trình cổ phần hóa DNNN và nguyên nhân

Trong nhiều năm qua từ khi chúng ta bắt đầu tiến hành CPH DNNN thì tốc
độ CPH diễn ra khá chậm mà như một số nhà phân tích kinh tế đã nói là “cổ
phần hóa đang diẽn ra với tốc độ rùa bò”.

Đến hết năm 2001 đã CPH được gần 4.000 doanh nghiệp, góp phần cơ bản vào
việc sắp xếp DNNN, từ chỗ DNNN trước đây là 12.000, đến nay thì cả nước còn
1.309 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Điều đáng nói là trong năm 2011 số
lượng DNNN cổ phần hóa rất thấp, chỉ được 60 doanh nghiệp và trong bốn
6


tháng đầu năm 2012 thêm được bốn doanh nghiệp nữ, đây là những doanh
nghiệp theo kế hoạch CPH trong năm qua.
Theo Bộ Tài chính, có tới chín nguyên nhân khiến triến trình CPH bị chậm lại
như kinh tế toàn cầu và khu vực trong thời gian vừa qua có nhiều biến động bất
thường; thị trường chứng khoán giảm sút; chính sách tiền tệ thắt chặt và lãi suất
vay vốn cao khiến lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm nên việc bán cổ phần gặp
khó khăn; phần lớn doanh nghiệp CPH trong thời gian này có quy mô vừa hoặc
lớn còn nhiều tồn tại về tài chính…. Ngoài ra còn rất nhiều nguyên

nhân khách quan khác. Một trong những vấn đề của cổ phần hóa DNNN Việt
Nam chính là tỉ lệ nắm giữ vốn của Nhà nước sau khi tái cơ cấu doanh nghiệp
vẫn còn quá cao so với các nền kinh tế khác trên thế giới, cụ thể là các nước
có nền kinh tế chuyển đổi giống Việt Nam như Gruzia, Ukraine...
2.1.6. Một vài giải pháp cho cổ phần hóa tại Việt Nam
Để tránh việc nhà nước nắm giữ quá nhiều cổ phần khiến cho doanh nghiệp
hoạt động kém năng động, hiệu quả nhưng vẫn có thể kiểm soát nhằm ngăn
chặn sự thâu tóm của các công ty nước ngoài trong các lĩnh vực liên quan tới
lợi ích quốc gia như an ninh quốc phòng hoặc trên cơ sở bảo vệ lợi ích công
cộng, một số nền kinh tế đã phát triển và áp dụng một số công cụ như: cổ phần
ưu tiên (goden share), ổn định cổ đông nòng cốt (stable core of shareholders)
và tư nhân hóa một phần doanh nghiệp bằng cách duy trì cổ phần kiểm soát
(controlling interest).
Trong đó, cổ phần ưu tiên được coi là một công cụ đắc lực hiệu quả nếu

được sử dụng hợp lý và đúng cách vì cổ phần ưu tiên là một loại cổ phần danh
nghĩa cung cấp cho chính phủ quyền hạn đặc biệt và quyền phủ quyết trong
các công ty tư nhân hóa hoàn toàn hoặc một phần để bảo vệ các công ty mới
được tư nhân hóa khỏi sự thâu tóm gây ảnh hưởng tới an ninh cũng như các
lợi ích công cộng cần thiết.
7


Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ nêu trên luôn được giới hạn ở một mức
độ và thời gian cụ thể nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của nó tới thị trường,
đơn cử như tại Ý, cổ phần ưu tiên chỉ được sử dụng đối với một số ngành công
nghiệp chiến lược, hay tại Bồ Đào Nha cổ phần ưu tiên chỉ được áp dụng ở
lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, năng lượng và giao thông vận tải. Tại Ba Lan,
cổ phần ưu tiên chỉ có tính chất tạm thời và sẽ hết hiệu lực khi các điều khoản
cam kết của người mua được thực hiện đầy đủ.
Một số nhà tư vấn và kể cả tổ chức đầu tư cho rằng trong nhiều trường hợp,
không rõ đối tượng đầu tư chiến lược mà nhà nước nhắm đến là ai. Đó có phải
là nhà đầu tư nước ngoài hay là các đối tác chiến lược như các ngân hàng
thương mại hay tổ chức tín dụng, hoặc đơn giản chỉ là các nhà đầu tư cá nhân
ở thị trường nội địa.
Rõ ràng cổ phần hóa có tác dụng tốt hơn so với không cổ phần hóa, nhưng
cần làm mạnh tay chứ không thể nửa vời. Bởi thực tế một số DNNN nay đã là
công ty cổ phần nhưng cách thức điều hành, quản trị không có gì thay đổi.
Chẳng hạn, tỉ lệ cổ phần nắm giữ của Nhà nước hiện nay là một vấn đề nhưng
không phải là không có khả năng giải quyết. Ngay cả khi nắm giữ tỉ lệ cổ phần
trên 75% thì Nhà nước vẫn có thể thuê nhân sự giỏi để nâng cao hiệu quả điều
hành doanh nghiệp.
Nhà nước cũng có thể cho các cổ đông thiểu số có quyền lực điều hành lớn
hơn, còn mình chỉ nắm quyền cổ đông đặc biệt để hưởng lợi tức ưu đãi, cũng
như một số quyền phủ quyết liên quan đến thay đổi cơ cấu vốn, thành lập

doanh nghiệp con hoặc các hoạt động mua bán sáp nhập, và để các cổ đông tư
nhân thiểu số chủ động trong việc tổ chức điều hành doanh nghiệp.

8


2.2. Xu hướng M&A tại Việt Nam và trên thế giới


2.2.1. Khái niệm và tính hai mặt của M&A
Khái niệm

Về mặt pháp lý, Mergers (sáp nhập) là hình thức các công ty thống nhất kết
hợp, gộp chung cổ phần với nhau. Còn Acquisitions (mua lại) là một công ty
tiến hành mua lại hoạt động kinh doanh và chiếm lĩnh hoàn toàn một công ty
khác với tư cách là người chủ sở hữu mới. M&A là một trong những hoạt
động đặc trưng và ngày càng phổ biến, đặc biệt trong bối cảnh của khủng
hoảng, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.


Tính hai mặt của M&A

Hoạt động M&A có tác động 2 mặt đến đời sống doanh nghiệp và xã hội.
Với doanh nghiệp thuộc đối tượng mua bán, sáp nhập, có thể là khởi đầu một
chu kỳ phát triển mới hoặc dấu chấm hết cho một doanh nghiệp hay một
thương hiệu lâu năm.
Nhưng đối với doanh nghiệp chủ động quá trình này, M&A làm thay đổi cơ
cấu sở hữu, quyền kiểm soát, điều hành, năng lực tài chính và quy mô kinh
doanh, từ đó góp phần mở ra những cơ hội kinh doanh mới, tăng cường vị thế
cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.

Bên cạnh đó, M&A có thể tạo ra những làn sóng tái cấu trúc doanh nghiệp
và nền kinh tế, góp phần cải thiện cơ cấu và độ mở, sự gắn kết và khả năng
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của mỗi doanh nghiệp nói riêng và nền
kinh tế nói chung. Theo đó, những doanh nghiệp còn trụ lại được là những
doanh nghiệp khỏe mạnh, đã được sàng lọc, hình thành nên những tập đoàn, tổ
chức phù hợp và hoạt động hiệu quả trong tình hình mới, từ đó gia tăng các
động lực tích cực cho phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, M&A cũng là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro và đầy trở ngại
gắn với khả năng xác định đúng đắn tình hình tài chính, giá trị thương hiệu, tình
9


trạng pháp lý và tài sản của doanh nghiệp mục tiêu; cũng như với sự phức tạp
và các kẽ hở gây tranh chấp trong hợp đồng và thủ tục xác lập giao dịch M&A
doanh nghiệp; những hạn chế về hệ thống luật, tính chuyên nghiệp, cơ sở dữ
liệu thông tin của các nhà tư vấn, môi giới, luật sư, ngân hàng tham gia vào
quá trình M&A...
Ngoài ra, rủi ro có thể bộc phát ngoài kiểm soát gắn với sự xung đột về
chiến lược phát triển, văn hóa công ty, chính sách quản lý, đội ngũ nhân sự.
2.2.2. Thực tiễn của M&A ở Việt Nam
Hoạt động M&A ở Việt Nam chỉ thực sự gia tăng nhanh về số lượng và giá
trị giao dịch từ vài năm trở lại đây, nhất là từ khi nước ta tham gia Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), với nhiều rào cản được dỡ bỏ cho các nhà đầu tư
và các công ty đa quốc gia tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Trước năm
2007, ở Việt Nam mỗi năm không quá 50 vụ M&A, với giá trị giao dịch năm
cao nhất khoảng 300 triệu USD.
Nhưng từ năm 2007 số thương vụ M&A gia tăng đến chóng mặt. Cụ thể,
năm 2007 có 108 vụ với tổng giá trị thực hiện gần 1,72 tỷ USD; năm 2008 có
146 vụ với hơn 1,1 tỷ USD; năm 2009 có 295 thương vụ M&A với tổng giá trị
đạt gần 1,14 tỷ USD; năm 2010 có 345 hoạt động M&A với giá trị lên tới 1,75

tỷ USD.
Năm 2011 tiếp tục đánh dấu một bước phát triển mạnh với giá trị các
thương vụ đã hoàn thành đạt nhiều lần năm 2010. Bắt đầu từ năm 2011, các
hoạt động M&A có yếu tố đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao 81,3%. Trong
đó dòng tiền chính đến từ các tập đoàn Nhật Bản. Lĩnh vực diễn ra các hoạt
động M&A sôi động là tài chính, bất động sản và hàng tiêu dùng.
Nhiều quỹ đầu tư hết hạn sau khoảng 5 năm hoạt động tại Việt Nam đã thoái
vốn tạo điều kiện cho các giao dịch M&A, như Quỹ VOF của Vinacapital đã bán
24,9% cổ phần tại CTCP Cồn rượu Hà Nội (Halico) cho Tập đoàn đồ uống
10


Diageo. Dragon Capital cũng đã chuyển nhượng 6,6% cổ phần tại Sacombank.
Không ít các tập đoàn trong nước đã thực hiện tái cấu trúc thông qua M&A.
2.2.3. Làn sóng M&A trên thế giới
Hoạt động M&A sẽ tiếp tục phát triển cả bề rộng và bề sâu, cả quy mô quốc
gia, cũng như trên phạm vi toàn cầu, khi có khủng hoảng kinh tế, cũng như vào
những giai đoạn kinh tế phát triển tốt, thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh.

Nếu trước đây, M&A xảy ra chủ yếu đối với các ngành công nghiệp thép,
năng lượng, ô tô, tài chính - ngân hàng... nay đang lan rộng sang nhiều ngành
khác như dược phẩm, công nghệ thông tin, truyền thông, tài chính chứng
khoán... Một số vụ M&A kỷ lục trong năm 2010 và 2011 đã được ghi nhận,
như United Airline hợp nhất với Continental tạo nên hãng hàng không lớn
nhất thế giới, với giá trị lên đến 3,2 tỷ USD và mang lại doanh thu 30 tỷ
USD/năm nhờ cung cấp dịch vụ hàng không tại 378 sân bay ở 10 thành phố.
Hoặc vụ công ty tư nhân 3G của Brazil mua lại hãng thức ăn nhanh Burger
King trị giá 3,3 tỷ USD. Và gần đây là sự hợp nhất liên ngành trong lĩnh vực
tin học và công nghệ thông tin giữa 2 tập đoàn khổng lồ Google và Motorolla.
Các hoạt động M&A thường được khởi động từ các công ty đa quốc gia

sang các nền kinh tế mới nổi như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Âu. Đồng
thời, M&A cũng giúp các nước đang phát triển vươn ra thị trường thế giới.
Chẳng hạn, công ty ô tô Nam Kinh của Trung Quốc đã bỏ ra 50 triệu bảng
Anh để thôn tính hãng MG Rover của Anh. Công ty khác của Trung Quốc là
Lenovo đã thông qua hoạt động M&A để mua đứt một công ty sản xuất máy
tính của nước ngoài.

11


LỜI KẾT
Như vậy, việc tập trung tư bản có ý nghĩa to lớn đối với chủ nghĩa tư bản
trong việc tăng nhanh quy mô tư bản về cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu
khoa học kỹ thuật mới, tăng năng suất lao động để giành thắng lợi trong cạnh
tranh.
Trong thời kì hội nhập, M&A là một trong những phương hướng giúp các
doanh nghiệp tận dụng được những tiềm lực của bản thân doanh nghiệp và các
đối tác trong và ngoài nước. Hơn thế nữa, những ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới vẫn còn tồn tại làm cho các doanh nghiệp đang phải
tìm một con đường để phát triển ổn định. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp là
một điều cần thiết và đã được thể hiện rất rõ trong các hoạt động M&A.
Qua việc quan sát các thương vụ M&A trên thế giới, các công ty Việt Nam
cũng đang trong quá trình tìm cách đi theo con đường đó nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, kĩ năng quản lí, quản trị công ty. Em xin đưa ra
một số đề xuất về M&A để giảm thiểu rủi ro trong tiến hành M&A như sau:
Về cơ cấu quản trị, cần phải hoàn thiện cơ này phù hợp với tính chất, đặc
điểm của ngành kinh doanh, mục tiêu chiến lược của công ty. Bên cạnh đó,
cần sử dụng thành viên Hội đồng Quản trị độc lập để kiềm chế quyền lực của
Ban giám đốc, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông và làm cho Hội
đồng Quản trị có hiệu lực hơn. Các nhà quản trị nên đưa ra một số cơ chế điều

tiết chủ yếu dựa vào những báo cáo minh bạch thông tin. Sự minh bạch trong
báo cáo của các công ty sẽ tạo lòng tin từ phía đối tác tham gia M&A, các đối
tượng hữu quan, giúp các công ty duy trì phát triển bền vững.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị (NXB Giáo dục và Đào tạo)
2. Bài viết Nghiên cứu trao đổi về M&A (Bộ Công thương quản lý cạnh
tranh - Website: />3. Cổ phần hóa – Wikipedia: />4. Đẩy nhanh tiến trình đổi mới, sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước (Tuấn Kiệt – số ra ngày 11/11/2013 Tạp chí Tài chính)

13



×