Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

MỐI LIÊN hệ GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mối LIÊN hệ GIỮA đổi mới tư DUY với đổi mới KINH tế ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.04 KB, 15 trang )

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc
cơ bản của triết học Mác - Lênin. Trong sự phát triển mạnh mẽ và toàn
diện của nước ta hiện nay, đặc biệt là đối với vấn đề về phát triển kinh tế,
quan hệ ấy càng mang tính quyết định. Thực tiễn luôn luôn vận động do
đó lý luận hay nhận thức con người cũng không ngừng biến đổi theo; vì
thế sự thống nhất biện chứng giữa chúng cũng có những nội dung cụ thể
và những biểu hiện khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử.
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về công cuộc đổi
mới ở Việt Nam, dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có
nhiều công trình lý giải cặn kẽ về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi
mới kinh tế ở nước ta. Do đó, bằng vốn kiến thức của mình, tôi xin
nghiên cứu đề tài:
“Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên
hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học về nội
dung lý luận và thực tiễn trong môn học Những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác- Lênin , nêu lên mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn từ
đó đưa ra những nhận định, lý giải và phân tích về mối liên hệ giữa đổi
mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Đồng thời, đề tài góp phần nâng
cao năng lực nghiên cứu khoa học cho bản thân.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
chuyên

gia…


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN



1.1. Lý Luận
1.1.1. Khái niệm lý luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tụ nhiên và xã hội tích trữ
lại trong quá trình lịch sử.”.
Tuy nhiên, đối với mỗi công trình lý luận các nhà nghiên cứu lý luận đều
có những khái niệm khác nhau. Các khái niệm lý luận gắn liền với những
hệ thống lý luận nhất định.

1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của lý luận
Đối tượng nghiên cứu của Lý luận học là tư tưởng của con người và
công nghệ tư duy của con người mang tính lý luận cùng những vấn đề cơ
bản của lý luận nhằm cải biến thực tế khách quan vì sự phát triển của con
người và đem lại lợi ích cho con người.

1.1.3. Đặc điểm của lý luận
Lý luận thường mang tính hệ thống, dù là chân chính - khoa học hay giả
tạo - phản khoa học. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung
thực hoặc xuyên tạc tính hệ thống vốn có ở bản thân đối tượng được phản


ánh, qua đó mà phản ánh trung thực hoặc xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng
với bản chất của đối tượng.
Lý luận không tự thân xuất hiện, tồn tại, vận động, phát triển.
Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Lý
luận là xuyên suốt và chi phối tư duy logic, qua đó, chi phối ngày càng
mạnh mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội.

1.2. Thực tiễn

1.2.1. Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử, xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

1.2.2. Đặc điểm của thực tiễn
Thực tiễn có các đặc trưng: là hoạt động vật chất, mang tính mục đích và
có ý thức của con người, mang tính lịch sử - xã hội, tùy thuộc bối cảnh,
không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực hiện
khác nhau hướng tới cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính
bản thân con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt
động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người, mang tính lịch sử-xã hội
cụ thể.

1.2.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất


- Hoạt động chính trị-xã hội
- Hoạt động thực nghiệm khoa học
Trong đó hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các
hoạt động chính trị-xã hội và thực nghiệm khoa học cũng có tính độc lập
tương đối của mình.

1.3 Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
1.3.1 Thực tiễn quyết định lý luận
Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận
thức và do đó, cũng là cơ sở của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu, nền
tảng, cho nhận thức, lý luận. Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt

nguồn từ thực tiễn.
Ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối
quan hệ này cũng không thay đổi. Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục
vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được
đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận, mới có thể "cải tạo" thế giới.
Các tư tưởng, bản thân chúng, không phải là thực tiễn. Một mô hình lý
tưởng về xã hội tương nếu thiếu sự vận dụng phù hợp vào thực tiễn thì
chỉ là một mô hình lý luận suông.
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu
chuẩn chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Chính trong thực tiễn mà
con người phải chứng minh chân lý. Nhận thức khoa học còn có tiêu
chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn logic không thể
thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào
tiêu

chuẩn

thực

tiễn.


Lý luận không tồn tại ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong
bản thân thực tiễn xã hội.

1.3.2 Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn
Nếu như thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, nền tảng đối với lý luận thì
ngược lại lý luận cũng có vai trò định hướng như kim chỉ nam đối với
thực tiễn.
Trên cơ bản, lý luận chỉ là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực

tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của sự vật, hiện
tượng, nghĩa là lý luận phụ thuộc hoàn toàn vào thực tiễn, luôn lạc hậu so
với thực tiễn. Tuy nhiên, lý luân cũng là một phạm trù độc lập tương đối
với thực tiễn. Lý luận tập hợp, khái quát không chỉ là những kinh nghiệm
mà còn sáng tạo, đưa ra những ý tưởng mới đi trước thực tiễn. Những ý
tưởng ấy dựa trên những kinh nghiệm của xã hội đi trước mà dần trở nên
mới mẻ, hoàn thiện và chủ yếu mang tính định hướng tương lai.
Khi một xã hội không tồn tại những lý luận, những ý tưởng, mọi hoạt
động thực tiễn được tiến hành chỉ dựa vào kinh nghiệm, điều đó dễ dẫn
tới suy nghĩ tuyệt đối hóa kinh nghiệm trong mọi hoạt động của xã hôi.
Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn
dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, kém nên không muốn đào sâu và phát
triển, khinh nên không quan tâm, không hiểu thực chất; lý luận dần trở
thành những câu chữ rỗng nghĩa. Và như một kết quả tất yếu, việc vận
dụng lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh là không
thể hay nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với
thực tiễn.
Thực tiễn được dựng nên nhờ khung sườn lý luận.


* Nhận xét:
- Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã
hội cụ thể.
- Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện
chứng của quá trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có được lập
trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận,
cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
- Thực tiễn, lý luận luôn cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ
sung cho nhau.



CHƯƠNG 2
MỐI LIÊN HỆ ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở
NƯỚC TA THEO VÂN DỤNG TƯƠNG QUAN LIÊN HỆ GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Lý do đổi mới
Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu
tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Đảng đã phạm phải những sai lầm mang tính
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan dẫn đến khủng hoảng
trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ trước. Hiện thực khi đó đòi hỏi bức thiết một sự đổi mới toàn diên
về cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lẫn tư duy con người.
Hơn thế, trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa mạnh mẽ ngày nay, hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực
của thị trường thế giới; Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách thể chế theo
hướng minh bạch, tự do hóa và có tính giải trình; gia nhập và tích cực xây
dựng AEC; từng bước hoàn thiện thị trường đầy đủ theo quy định của
WTO; chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cơ chế vận hành của Hiệp định TPP;
tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều
cấp độ, nhất là trong xây dựng quan hệ đối tác hợp tác chiến lược về kinh
tế và các FTA thế hệ mới với những tiêu chuẩn cao.
Trong và sau mỗi giai đoạn chuyển giao, nền kinh tế nước ta đều được
trao cho những cơ hội mới nhưng đi cùng là những thách thức không hề
nhỏ. Việc mở cửa hội nhập, vươn tay ra thế giới đông nghĩa rằng thị
trường trong nước cũng có nguy cơ cao bị thâm nhập từ hàng hóa nước
ngoài. Một cơ hội trao tay nếu không vận dụng tốt thì có thể “ mất cả chì



lẫn chài’’. Do đó, để tận dụng triệt để mọi cơ hội từ bên ngoài và khai
thác tối đa tiềm năng sẵn có trong nước, chúng ta buộc phải thay đổi.

2.2 Nội dung đổi mới
2.2.1. Đổi mới tư duy
Đổi mới tư duy chính là yếu tố quyết định, mở đường cho sự phát
triển kinh tế - xã hội có tính đột phá ở nước ta trong thời kỳ mới.
Tư duy là nền tảng của những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết về sự phát
triển. Trong lĩnh vực kinh tế, đó là những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết
kinh tế và các trường phái kinh tế. Trong thực tiễn, tư duy phát triển kinh
tế - xã hội thể hiện ở những mục tiêu, định hướng phát triển thông qua
các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, được thể hiện bằng luật pháp,
chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội là
nói tới những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách
quản lý. Tư duy mới sẽ có chính sách mới, chính sách mới sẽ tạo ra
phong trào mới, phong trào mới sẽ tạo ra kết quả mới, là khởi đầu cho
quá trình phát triển mới Quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta từ
năm 1986 đến nay cho thấy vai trò đặc biệt của tư duy lý luận đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội, đối với vận mệnh của dân tộc trong thời đại
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
* Đổi mới tư duy bao gồm các nội dung chính:
- Đổi mới tư duy về nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.


Trong giai đoạn phát triển mới, cần có tư duy, nhận thức mới về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thuộc tính mới
này của nền kinh tế đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế phát
triển; đổi mới mô hình tăng trưởng... tham gia chuỗi giá trị và mạng sản

xuất toàn cầu. Phát triển kinh tế tri thức; chú trọng đổi mới sáng tạo trên
nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống an sinh xã
hội, thúc đẩy và hoàn thiện những chuẩn mực văn minh trong sản xuất,
tiêu dùng và quan trọng hơn là tuân thủ các cam kết quốc tế, các định chế
kinh tế khu vực và toàn cầu mà Việt Nam đã ký kết.
- Tiếp tục đổi mới tư duy về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phù hợp
với quy luật phát triển và định hướng chính trị của Đảng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
kinh tế nhà nước luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế và là một trong các yếu tố quan trọng bảo đảm cho nền
kinh tế thị trường Việt Nam phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tuy vậy, tư duy và nhận thức về bản chất, nội hàm và vai trò của
kinh tế nhà nước chưa phù hợp với lý luận và thực tiễn. Vì thế cần có
bước đột phá mới về tư duy, phải nhận diện đúng về thành phần kinh tế
nhà nước, từ đó kiên trì quan điểm “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo’’.
- Đổi mới tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập
trung bình”.
Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập trung
bình” là phải có tư duy đúng về mô hình tăng trưởng kinh tế, hướng tới
mô hình hiện đại, tức là mô hình đặt các mục tiêu chất lượng lên vị trí ưu
tiên hàng đầu so với mục tiêu tăng trưởng sản lượng. Theo đó, phải đổi
mới tư duy phát triển, tư duy chính sách, nghĩa là phải chuyển nhanh và


triệt để tư duy “coi tốc độ tăng trưởng cao là ưu tiên hàng đầu và phải đạt
được bằng mọi giá” sang tư duy, trước hết, nhấn mạnh đến hiệu quả, năng
lực cạnh tranh và vị thế của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt
Nam. Nói một cách cô đọng là điều chỉnh tư duy phát triển từ theo đuổi
tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá sang phát triển hiệu quả và bền vững.


2.2.2. Đổi mới kinh tế
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá
trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là
bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở”
đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng
bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của công cuộc đổi mới ở nước
ta hơn 30 năm qua là đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra môi trường,
điều kiện thuận lợi, khuyến khích, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của lực
lượng đông đảo các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, trong thể chế kinh tế nước ta vẫn còn tồn tại nhiều lỗ hổng và
những điểm chưa phù hợp. Do vậy, cần đưa ra giải pháp đối với những
vấn đề cần cấp thiết đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay, đặc biệt là các
vấn đề:
- Hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực để các nguồn lực, nhất là các
nguồn lực của Nhà nước được huy động và sử dụng có hiệu quả cao.


- Hoàn thiện thể chế cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; xây dựng
môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, lành mạnh, thuận lợi cho
doanh nghiệp hoạt động, phát triển.
- Hoàn thiện thể chế tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
kinh tế của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Hoàn thiện thể chế phát triển, vận hành thông suốt, phát huy đầy đủ vai
trò của các thị trường và các yếu tố thị trường.

Mỗi vấn đề trên là một rào cản lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Mỗi
vấn đề được giải quyết là nền kinh tế nước nhà đã có một bước đột phá
lớn và tiến gần hơn với hội nhập toàn cầu. Do đó, một lần nữa ta lại thấy
được tầm quan trọng, bức thiết và lợi ích to lớn từ việc đổi mới mang lại.
Không ngừng đổi mới chính là không ngừng phát triển, không ngừng đưa
nền kinh tế Việt Nam từng bước đi lên sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

2.3 Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và và đổi mới kinh tế
2.3.1 Đổi mới kinh tế là cơ sở quyết định đổi mới tư duy
Một nền kinh tế luôn có 3 giai đoạn : tăng trưởng, đỉnh cao và suy thoái.
Khi nền kinh tế rơi vào thời kì suy thoái, các nhà kinh tế chắc chắn sẽ tìm
cách đổi mới để vực lại nền kinh tế. Đó chính là cơ sở ra đời cho những
tư duy đổi mới. Hay một cách giải thích khác đó là đổi mới nền kinh tế
khiến cho những tư duy, tư tưởng trở nên lỗi thời và buộc phải thay đổi
cho phù hợp với bước tiến của xã hội.
Có thể nhận thấy rằng, Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng đường lối đổi
mới, bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế. Tư duy đổi mới của Đại hội đã đi
vào thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và đem đến thành tựu nổi bật là
nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối những năm


80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, và hiện đã trở thành nước có thu
nhập trung bình, đang trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thời kỳ mới ngày càng đòi hỏi phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn
về mọi mặt, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm. Để tạo bước
đột phá mới cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy nhằm tạo ra không gian
mới, động lực mới cho sự phát triển về kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, mà một trong những

nguyên nhân là tư duy về phát triển kinh tế - xã hội đã tới hạn, nhiều chủ
trương, chính sách không còn phát huy được tác dụng mạnh mẽ như giai
đoạn đầu. Vì thế, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển kinh tế xã hội.

2.3.2 Đổi mới tư duy trở thành động lực của đổi mới kinh tế
Đổi mới tư duy không đơn giản là đặt ra những nhận thức, những tư
tưởng và phương pháp tư duy khác với trước. Cái mới không những phải
bao hàm những cái tích cực, đúng đắn đã có trước kia, loại bỏ những gì
không còn phù hợp, sai lệch, lỗi thời mà còn phải bổ sung những điểm
mới, sáng tạo, có tính hướng dẫn cho sự đổi mới kinh tế theo hướng phù
hợp với đặc điểm con người Việt Nam và theo kịp bước tiến của thế giới.
Đổi mới tư duy có tính kế thừa nhưng cũng có tinh dự báo trước.
Khi một nền kinh tế đứng trước những nguy cơ, lập tức những tư duy đổi
mới đước đưa ra nhằm định rõ những bước đi tiếp theo để có thể đổi mới
kinh tế một cách hiệu quả, nhanh chóng ổn định tình hinh kinh tế- xã hội.


Đổi mới tư duy chính là la bàn chỉ đường định hướng cho sự đổi mới kinh
tế- xã hội của một đất nước.

Xét theo một khia cạnh khác, con người là chủ thể của xã hội. Những tư
duy, ý tưởng của con người tác động phần lớn đến nền kinh tế- xã hội mà
bản thân họ đang sống ở trong. Do đó, mỗi tư duy của mỗi con người đổi
mới luôn trở thành động lực, nhân tố góp phần thúc đấy sự đổi mới của
nền kinh tế.
* Nhận xét:
- Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy là quan hệ biện chứng.
- Đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng
phát triển.
- Đổi mới kinh tế là cơ sở của đổi mới tư duy, đổi mới tư duy là động lực

cho đổi mới kinh tế.


KẾT LUẬN
Tương tự mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, mối liên hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới tư duy cũng mang tính biện chứng, hỗ trợ lẫn nhau,
làm tiền đề cho nhau. Thực tiễn là nền tảng của lý luận, lý luận là kim chỉ
nam cho thực tiễn; quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế cũng
vậy.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tư duy dưới dạng các chính sách,
nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước cần phải được thay đổi, bổ
sung để theo kịp bước tiến của kinh tế- xã hội. Đồng thời, nền kinh tế
cũng cần tự hoàn thiện, phát triển dựa theo nội dung định hướng mà
những tư tưởng, tư duy đề ra. Một xã hội sẽ phát triển mạnh, một nền
kinh tế sẽ tăng trưởng vượt bậc nếu hai qúa trình đổi mới này ăn khớp
nhịp nhàng với nhau.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam cần phải chú trọng song hành đổi
mới cả về tư duy lẫn đổi kinh tế để tạo ra một xã hội có nền tảng vững
chắc và phát triển lâu dài.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Con người Việt Nam và Triết học Đông Tây
2) Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin
3)

/>
4)


/>
5)

/>
6)

/>


×