Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, vận dụng phân tích mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở việt nam thùy trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.02 KB, 16 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Xã hội loài người đã tồn tại và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài trải qua
các hình thái kinh tế xã hội và mỗi hình thái đó gắn liền với những hoạt động sản xuất
ra của cải vật chất. Nếu ngừng sản xuất ra của cải vật chất thì sự sống trên toàn cầu sẽ
bị hủy diệt. Không vượt khỏi quy luật khách quan đó nền sản xuất ra của cải vật chất
của nước ta cũng là nền tảng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trước thực trạng của nền kinh tế Việt Nam những năm 1986, Đảng và nhà nước
ta sớm nhận ra những khuyết điểm của cơ chế tập trung bao cấp, cơ cấu tổ chức quản
lý và định hướng, tính cấp thiết phải đổi mới kinh tế với chiến lược: chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN.
Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của thời đại, Đảng và nhà nước ta đã vạch định
những chính sách đổi mới phù hợp đúng đắn dựa trên cơ sở mối quan hệ thống nhất
biện chứng giữa thực tế và lí luận, giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế. Muốn đổi
mới kinh tế thành công, phải có tư duy lý luận đúng đắn, có cơ sở phương pháp luận
làm kim chỉ nam soi đường. Vì vậy xem xét mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và đổi
mới kinh tế là một vấn đề cấp thiết. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài: “Mối liên
hệ giữa lý luận và thực tiễn, vận dụng phân tích mối quan hệ giữa đổi mới tư duy và
đổi mới kinh tế ở Việt Nam” là nội dung cho tiểu luận của mình.
Bài tiểu luận của em gồm có 2 phần:

 Phần 1: Khái niệm lý luận và thực tiễn, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
 Phần 2: Phân tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở Việt
Nam

1


CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Khái niệm Lý luận
Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người
một cách năng động tích cực, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn.


Từ khi khoa học xuất hiện, cách đây khoảng hai nghìn năm trăm năm, trong tư
duy loài người cùng tồn tại hai cấp độ nhận thức để phản ánh các sự vật, hiện tượng
với hai tầm nông – sâu khác nhau, kinh nghiệm và lý luận.
Kinh nghiệm là những khái niệm hình thành tự phát và gắn liền trực tiếp với
kinh nghiệm sống của mọi người, không cần qua học tập – nghiên cứu. Do đó, kinh
nghiệm mang nặng tính chất cảm tính, chưa đi sâu phản ánh bản chất và các mối liên
hệ tất yếu bên trong của các đối tượng. Ví dụ: nhà, chợ, cây, con, tình yêu, căm thù,…
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như
trình độ cao của nhận thức. Các khái niệm lý luận gắn liền với những hệ thống lý luận
nhất định. Nếu chúng phản ánh trung thực các mối liên hệ bản chất, các quy luật vốn
có của hiện thực khách quan thì những hệ thống lý luận đó chính là các học thuyết
khoa học được kiểm nghiểm bằng thực tiễn (hay thực nghiệm). Trái lại, đó là những lý
luận giả khoa học và sớm muộn cũng sẽ bị bác bỏ.
Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Trong đó,
nổi bật như với triết học, lôgic học, chính trị học, kinh tế chính trị học, xã hội học,
kinh tế học, sử học, toán học,… Toán học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ số
lượng và hình dạng trong thế giới khách quan; Triết học có đối tượng nghiên cứu là
chính trị và các hình thái của chính trị, kinh tế học có đối tượng nghiên cứu là các quan
hệ sản xuất, các quy luật chi phối quá trình sản xuất, phân phối và trao đổi của cải vật
chất của con người…
Thực tiễn cho thấy nhân loại phải đối mặt với vấn đề lý luận ở mọi lúc, mọi nơi.
Lý luận tồn tại trong con người, có trong con người. Lý luận xuyên suốt và chi phối
mạnh mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội.

2


2. Khái niệm Thực tiễn
Các nhà duy vật trước Mac đã có công lớn trong việc phát triển thế giới quan
duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết bất khả tri. Tuy

nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được
vai trò của thực tiến đối với nhận thức. Một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được
mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn
như là hoạt động tinh thần, chứ không hiểu nó như hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người.
Mac và Ăng-ghen đã đưa ra nhận thức đúng đắn, khoa học về thực tiễn: Thực
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích và có ý thức của con người;
mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn có các đặc trưng: là hoạt động vật chất, không phải hoạt động tinh
thần; mang tính mục đích và có ý thức của con người; mang tính lịch sử tùy thuộc bối
cảnh, không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực hiện khác
nhau; hướng tới cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân con
người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt động cơ
bản và phổ biến của xã hội loài người, mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Con người
phải lao động sản xuất, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, để tạo ra của cải vật chất
nuôi sống mình. Do đó, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã
hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động chính trị xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất
vật chất giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các hoạt động chính trị - xã hội và thực
nghiệm khoa học cũng có tính độc lập tương đối của mình.

3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Thực tiễn quyết định lý luận
Trước hết, thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận
thức và do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận.
Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học
3



đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan hệ này cũng không thay đổi. Bản
thân khoa học chỉ có khả năng đem lại hình ảnh về thế giới với những đặc trưng, bản
chất của nó. Lực lượng sản xuất vẫn tồn tại với tư cách là đối tượng của khoa học, còn
khoa học vẫn tiếp tục là hình thức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh
hiện thực.
Thực tiễn còn có tác dụng rèn luyện các giác quan con người. Nó là cơ sở chế
tạo ra những dụng cụ máy móc hỗ trợ nhận thức con người.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Triết học Mac Lenin chỉ ra rằng từ hoạt
động thực tiễn mà có tri thức và khoa học. Lý luận khoa học sau khi ra đời phải quay
về phục vụ thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng
được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục vụ mục tiêu phát triển chung.
3.2. Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn
Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải
tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có
thể cải tạo thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải
biến thứ gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng không phải thực tiễn, mô
hình lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô hình lý luận. Lý
luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải ở ngoài khuôn khổ của
thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ
nam”, chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
trong hoạt động thực tiễn người ta chỉ dễ dựa vào kinh nghiệm, mà kinh nghiệm không
có ý nghĩa trong cuộc sống không ngừng phát triển ngày nay.
“Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh,1995, tập 8, tr 496).
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng:
thực tiễn cần tới lý luận soi đường. Thực tiễn không dựa theo kinh nghiệm, còn lý luận
thì không giáo điều. Vì vậy, lý luận và thực tiễn cần đến nhau, bổ sung cho nhau.
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn

chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là quan hệ
4


biện chứng. Nắm bắt được tính chất quá trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta
có được lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận,
cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
Tóm lại sự tác động trở lại của Nhận thức đối với thực tiễn theo hai hướng: nếu
nhận thức phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu nhận thức phù
hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu nhận thức phản ánh sai thực
tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu nhận thức phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ
kìm hãm

CHƯƠNG II. MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI
KINH TẾ
1. Khái niệm đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
1.1. Đổi mới tư duy
Tư duy là nền tảng của những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết về sự phát triển.
Trong lĩnh vực kinh tế, đó là những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết kinh tế và các
trường phái kinh tế. Trong thực tiễn, tư duy phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở những
mục tiêu, định hướng phát triển thông qua các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội,
được thể hiện bằng luật pháp, chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Đổi mới tư duy là thay đổi cách nghĩ cách nhìn nhận đánh giá về một sự vật
hiện tượng nào đó trong xã hội theo đúng bản chất của nó. Có thể hiểu đó là thay đổi
các quan điểm hệ tư tưởng, các cách thức tổ chức lĩnh vực nào đó trong đời sống xã
hội.
Khi nói đến tư duy mới hay đổi mới tư duy phát triển kinh tế - xã hội là nói tới
những thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội, trong pháp luật, thể chế và chính sách quản lý. Tư duy mới sẽ có chính sách
mới, chính sách mới sẽ tạo ra phong trào mới, phong trào mới sẽ tạo ra kết quả mới. Vì

thế, đổi mới tư duy là khởi đầu cho quá trình phát triển mới.
Để có một xã hội như ngày nay là quá trình tích lũy về lượng ngay từ khi loài
người xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời sống không ổn định, trải qua sự nỗ lực của con
5


người của con người tác động vào giới tự nhiên cải biến nó thông qua lao động, trải
qua sự nỗ lực của con người tác động vào giới tự nhiên
1.2. Đổi mới kinh tế
Đổi mới là một chương trình cải cách toàn diện bao gồm đổi mới kinh tế và
nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu
Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986.
Đổi mới kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả
nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ chính lúc này là khôi phục, ổn định xây dựng và phát triển đất
nước trong điều kiện hòa bình. Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có
những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới của đất nước để
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời
kỳ khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ
sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu
cầu đời sống và tích luỹ,... Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình
trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có
nhiều hạn chế,... Từ đó, Đảng ta luôn luôn nỗ lực đặt ra những giải pháp, phương
hướng để đổi mới kinh tế ngày một phát triển hơn.
1 số đặc điểm của Đổi mới kinh tế:

- Nhà nước chấp nhận sự tồn tại bình đẳng và hợp pháp của nhiều thành phần
kinh tế (Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX quy định có
6 thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), nhiều hình
thức sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp). Tuy
nhiên, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
6


- Cơ chế kinh tế là kinh tế thị trường xã hội, nhưng có sự quản lý của Nhà nước,
nền kinh tế được vận hành bởi hai bàn tay: thị trường và Nhà nước. Điều này có ưu
điểm là nó phát huy tính tối ưu trong phân bổ nguồn lực xã hội để tối đa hóa lợi
nhuận thông qua cạnh tranh, mặt khác, sự quản lý của Nhà nước giúp tránh được
những thất bại của thị trường như lạm phát, phân hóa giàu nghèo, khủng hoảng kinh
tế...
- Định hướng xã hội chủ nghĩa
- Nền kinh tế chuyển từ khép kín, đóng cửa, sang mở cửa, hội nhập với thế
giới.

2. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới
kinh tế ở Việt Nam
2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta những năm đầu khi chưa có đổi mới tư
duy
Sau khi ra khỏi chiến tranh, cùng với quá trình thống nhất đất nước về thể chế
chính trị, việc nhất thể hóa nền kinh tế cũng đã được triển khai một cách tích cực. Mô
hình kinh tế đã từng bước được hình thành từ những năm 50 ở miền Bắc theo kiểu
mẫu nền kinh tế kế hoạch tập trung, mặc dù trải qua mấy chục năm chiến tranh đã bị
biến dạng nhiều nhưng vẫn mang một số đặc trưng lớn của nó.
Thứ nhất là, nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động kinh tế quan trọng
trong cả nước thông qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối hàng hóa, thông

qua hệ thống các kế hoạch sản xuất và phân phối hàng hóa, thông qua hệ thống giá cả,
tỉ giá, lãi suất được quy định nghiệm ngặt. Với mong muốn sớm làm cho sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể chiếm vị trí chủ đạo trên phạm vi toàn nền kinh tế; nhà nước trực
tiếp đầu tư qua tín dụng để chiếm tỉ trọng lớn. Kinh tế tư nhân quy mô lớn không được
khuyến khích phát triển và là đối tượng của sự cải tạo để dần dần trở thành kinh tế nhà
nước hay kinh tế tập thể.
Trong khi đó, cơ chế thị trường chỉ hoạt động trong phạm vi kinh doanh nhỏ và
kinh tế gia đình, tức là ở một phần nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và bán lẻ hàng
tiêu dùng, dịch vụ. Phần lớn tư liệu sản xuất được coi không phải là hàng hóa, không
7


được phép mua bán tự do trên thị trường mà được phân phối theo hệ thống kế hoạch
hóa của nhà nước. Nhà nước còn độc quyền trong hoạt động ngoại thương. Do hoàn
cảnh lịch sử, hầu hết các quan hệ mậu dịch quốc tế của Việt Nam với Liên Xô và Đông
Âu. Các công ty Ngoại thương của Nhà nước thực hiện những hiệp định buôn bán đó.
Lãi hay lỗ của hoạt động ngoại thương đều được đưa vào ngân sách nhà nước. Còn tư
nhân không hề được tham gia vào hoạt động này.
Ngoài ra, ngân sách Nhà nước còn bù đắp các khoản lỗ của doanh nghiệp quốc
doanh và thu phần lớn lợi nhuận chung. Như vậy là tài chính quốc gia và tài chính của
các doanh nghiệp quốc doanh không tách biệt nhau. Nhà nước còn trợ cấp cho toàn bộ
hoạt động sản xuất thông qua việc bán với giá thấp nguyên vật liệu máy móc thiết bị
được nhập khẩu bằng tiền vay nợ ở của Nhà nước hoặc viện trợ cho chính phủ. Vì thế
thiếu hụt ngân sách và nợ nước ngoài tăng lên cùng với sự phát triển của sản xuất.
Chính sách kinh tế như vậy có ưu điểm là giúp cho Nhà nước thực hiện một cách trực
tiếp đường lối kinh tế nhằm vào việc tập trung tích lũy của xã hội trong tay Nhà nước,
phục vụ công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc trước những đe dọa to lớn từ bên ngoài
và nhanh chóng công nghiệp hóa; những chính sách kinh tế đó lại không tạo ra động
lực cho các nước của các doanh nghiệp và cho cá nhân người lao động. Sự phụ thuộc
hoàn toàn vào Nhà nước của các doanh nghiệp đã làm cho chính các doanh nghiệp này

trở nên thụ động và kém phát triển, gần như là kìm hãm sự đi lên của từng doanh
nghiệp. Hơn nữa tính sáng tạo và năng động kinh doanh của họ đã không có chỗ đứng
trong thể chế kinh tế như vậy. Cơ chế phân phối mang tính chất bình quân, không đủ
sức kích thích người có tài năng và lao động tốt. Mà một khi đã không kích thích, thúc
đẩy được các cá nhân phát huy tài năng của mình, đa doanh nghiệp mình đi lên thì nền
kinh tế cũng không thể nào phát triển thực sự được.
Tất cả những vấn đề trên đều là do chúng ta chưa biết gắn kết thực tiễn với lý
luận. Ví dụ như kế hoạch 5 năm 1976-1980 là kế hoạch phát triển trung hạn đầu tiên
của nước Việt Nam thống nhất. Và với sự lạc quan quá cao trong đánh giá tiềm năng
phát triển kinh tế khi chuyển từ thời kì chiến tranh sang thời kì hòa bình, chúng ta đã
đề ra các mục tiêu, kế hoạch mà trên thực tế không thể thực hiện được. Đến năm 1980,
so với kế hoạch đề ra thì các chỉ tiêu thực tế đạt được là: sản lượng lương thực 69%,
than 52%, điện 72%, đánh cá biển 40%, vải 39%, giấy 37%,… Những mất cân đối của
nền kinh tế sau chiến tranh chưa kịp khắc phục thì lại cộng thêm những mất cân đối do
8


sự đầu tư vốn đồng thời cho một lượng tương đối lớn những công trình có quy mô lớn,
lâu hoàn vốn.
Cuộc tranh luận về phương hướng đổi mới kinh tế gắn liền với xem xét lại các
luận thuyết cơ bản trong kinh tế mới chỉ được bắt đầu và chưa đi đến câu trả lời rõ
ràng. Tuy nhiên, mâu thuẫn ngày càng tăng giữa một bên là đòi hỏi mở rộng quyền tự
chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và các cá nhân, với bên kia là các chính sách và
thể chế kinh tế vĩ mô chưa phù hợp đã dẫn tới những biện pháp cải cách đồng bộ hơn.
2.2. Những điều kiện kinh tế đã làm nền tảng cho việc phát triển tư duy
Đầu tiên là việc cắt giảm nguồn viện trợ bên ngoài – vốn là nguồn thu đáng kể của
ngân sách nhà nước – vào những năm 1979 – 1980 đã làm bộc lộ rõ những điểm yếu
và tính lỗi thời của các thể chế kinh tế kiểu thời chiến, điều hành tập trung vào bao cấp
đó, thúc đẩy tìm kiếm các giải pháp mới. Trong bối cảnh nền kinh tế lâm vào tình
trạng khủng hoảng, những ý tưởng cải cách trên một số lĩnh vực kinh tế quan trọng đã

xuất hiện. Đầu tiên, đó là những cố gắng của các đơn vị cơ sở hoặc gia đình, tìm cách
“phá rào”, luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành để hoạt động có hiệu quả
hơn. Đây là một điểm khá đặc biệt nhưng cũng dễ hiểu vì cũng sẽ tự nó thoát ra ngoài.
Sau đó, bộ máy quản lý các cấp của Nhà nước thấy được sự cần thiết và tính hợp lý
của việc điều chỉnh các chính sách và thể chế.
Kết quả của quá trình đó là một số hình thức mới vận hành nền kinh tế đã được
thử nghiệm, đi vào thực tiễn cuộc sống và được chấp nhận ở quy mô rộng. Những biện
pháp tự do hóa hoạt động kinh tế được áp dụng từng bước và sự can thiệp trực tiếp của
bộ máy hành chính vào lĩnh vực kinh tế cũng giảm đi một cách tương ứng. Những kết
luận của hội nghị lần VI (khóa 4) ban chap hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt
Nam tháng 9 -1979 cho rằng phải coi trọng hiệu quả kinh doanh, nới lỏng sự quản lý
hành chính đối với các hoạt động trọng điểm đầu tư từ lĩnh vực công nghiệp nặng, quy
mô lớn sang sản xuất hàng quy mô vừa quy mô nhỏ, chú ý đúng mức tới lợi ích của
các tập thể và cá nhân người lao động. Theo hướng đó đã có một loạt thay đổi diễn ra
trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể. Những điều này đã cho thấy rõ vai trò thực tiễn đối
với lý luận tư duy.
Nước ta xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhưng lại xuất phát từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản nên đòi hỏi
9


Đảng ta luôn luôn phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự cường và sáng tạo. Chủ nghĩa
xã hội như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac Lenin nhấn mạnh, không phải là một
lý tưởng mà hiện thực phải tuân theo, nó là một phong trào hiện thực; chứ không phải
là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống, nó là sự nghiệp sáng tạo của bản thân
quần chúng nhân dân. Do vậy thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế ở
các nước càng được mở rộng thì lý luận về nó càng trở nên phong phú thêm, giúp ta
càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn.
Hơn nữa, sự hình thành và phát triển của xã hội đều là một quá trình lịch sử tự
nhiên, tuân theo những quy luật khách quan. Không phải ngẫu nhiên mà các Đảng

Cộng Sản sau một thời gian lãnh đạo sự nghiệp xây dựng đất nước đều rút ra bài học
giống nhau là không thể đốt cháy giai đoạn bằng nguyện vọng chủ quan, không thể
giải quyết các nhiệm vụ bằng phương pháp duy ý chí, mà phải tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan, phải xuất phát từ thực tế khách quan. Đại hội VI của Đảng ta
đã rút ra những bài học quan trọng là Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Như vậy là tư duy mới đã ra đời có nguồn gốc sâu xa từ thực tiễn. Chính thực
tiễn với những khó khăn gay gắt của đất nước buộc Đảng phải suy nghĩ, phân tích tình
hình nguyên nhân, tìm tòi các giải pháp. Chính thực tiễn đổi mới các bộ phận ở các cơ
sở, địa phương đã cung cấp những tư liệu cho hoạt động tư duy của Đảng trong việc đề
ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần. Ví dụ, ngay từ cuối những
năm 60, ở nông thôn đã xuất hiện hình thức khoán đến hộ gia đình bắt đầu từ Đồ Sơn
(Hải Phòng) và Vĩnh Lạc (Vĩnh Phú). Hình thức khoán hộ đã làm cho nông dân phấn
khởi đẩy mạnh sản xuất mang lại thành quả rất to lớn.
2.3. Thành quả của việc áp dụng đổi mới tư duy trong đổi mới kinh tế
Đầu tiên là việc mở cửa nền kinh tế và đổi mới chính sách cơ cấu, đem lại
những thành công rực rỡ cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, nền kinh tế nhiều thành
phần đã cơ bản hình thành, tạo nên sự sống động mới trong sản xuất, kinh doanh. Nhìn
khái quát quan hệ sản xuất nhiều mặt đã phù hợp hơn với lực lượng sản xuất, tác dụng
tích cực giải phóng đáng kể lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều
việc làm, từng bước khắc phục đói nghèo, cải thiện đời sống của nhân dân.

10


Thứ hai là cơ chế chính sách không ngừng đổi mới. Doanh nghiệp Nhà nước
được tổ chức, sắp xếp lại một bước quan trọng, bước đầu chuyển sang đa sở hữu, giảm
nhiều tính bao cấp, tăng cường đáng kể quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; quản
lý nội bộ có những chuyển biến tích cực, đã khắc phục một phần hiện tượng trì trệ,
phát huy được tác dụng chủ đạo nhất định trong nền kinh tế.

Chúng ta đã thực hiện việc chuyển hướng chiến lược phát triển từ chỗ ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng sang tập trung các nguồn lực để thúc đẩy nông nghiệp, sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã làm cho nhịp độ tăng trưởng và cơ cấu của
nền kinh tế có những thay đổi đáng kể. Sản lượng lương thực từ 18,4 triệu tấn năm
1986 đã lên tới 21,5 triệu tấn năm 1993, làm cho Việt Nam chuyển từ một nước nhập
khẩu lương thực sang thành nước xuất khẩu hàng năm 1,5 đến 2 triệu tấn gạo. Còn sản
xuất công nghiệp tuy bị đình trệ những năm 1989 – 1990 nhưng đã bắt đầu có bước
tiến bộ trong cải thiện mặt hàng và chất lượng, đặc biệt đối với hàng tiêu dùng. Năm
1991, nền công nghiệp đã hồi phục nhịp độ tăng trưởng và năm 1992 đã đạt nhịp tăng
khá cao. Sự thay đổi trong mậu dịch quốc tế cũng đáng chú ý. Trong những năm 1986
– 1988, thiếu hụt trong cán cân ngoại thương khoảng 1,3 – 1,6 tỷ USD mỗi năm. Con
số này giảm dần từ 1989 và đến 1991 chỉ còn là 160 triệu USD chủ yếu nhờ giá trị
xuất khẩu tăng lên nhanh chóng.
Ngoài ra, sự đổi mới chính sách vĩ mô của Nhà nước về thị trường tiêu thụ nông
sản hàng hóa, đầu tư, tín dụng, thuế sử dụng đát và thuy lợi phí, khoa học và công
nghệ, chính sách đối với miền núi và vùng đồng bào dân tọc thiểu số cũng đã mang lại
sự khởi sắc mới cho nền kinh tế.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa
và hợp tác hóa đã làm cho sản lượng nông nghiệp tăng đáng kể, giảm bớt sức lao động
của con người.
2.4. Những đổi mới có tính đột phá
Một cách toàn diện và đầy đủ, chúng ta đã coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là
đói tượng của kế hoạch – kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan
trọng trên bình diện vĩ mô. Mặt khác, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn
vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh trên
cơ sở đó đã không ngừng tạo lập đồng bộ dẫn các yếu tố của thị trường (hàng hóa và
11


dịch vụ, công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân

hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh, tiền vốn, sức lao động), Điểm này cho thấy rõ
hơn về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận tư duy và thực tiến đỏi mới kinh tế.
Từng bước xóa bao cấp triệt để, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hình thành
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách,…
Mở rộng thị trường giao lưu hàng hóa thống nhất suốt cả nước, từng bước hội nhập
kinh tế quốc tế, xác định quyền của con người, sở hữu quyền của con người, sử dụng
tư liệu sản xuất và quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Giá cả, tỷ giá hối
đoái, lãi suất tín dụng đều được hình thành theo cơ chế thị trường. Như vậy, mọi đơn
vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, đổi mới và
nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của nhà nước.
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế trong thời gian qua luôn gắn liền
với giải quyết những vấn đề cấp bách nóng bỏng của nền kinh tế. Thực tế chứng minh,
bằng cơ chế, chính sách kinh tế được đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, phá được thế bao vậy, cấm vận kinh tế; và hiện nay cũng đang còn
nhiều vấn đề tồn tại về cơ chế, chính sách cần được tập trung tháo gỡ, đổi mới.
2.5. Những điều cần quan tâm trong đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy ở
nước ta
Chúng ta cần phải lưu ý là đổi mới không chỉ đơn thuần là thay thế cái cũ bằng
cái mới, mà quan trọng hơn là thay thế cái cũ bằng cái mới để làm gì? Chính cái để
làm gì này sẽ quyết định phải đổi mới cái gì và như thế nào? Đổi mới không phải là
phủ định quá khứ mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng làm đúng, loại bỏ những gì
hiểu sai làm sai, bổ sung những nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng nhu cầu cuả
quá trình mới. Thực hiện được điều này hoàn toàn không đơn giản. Đây thực sự là
cuộc đấu tranh phức tạp giữa đúng và sai. Giữa cái tiến bộ và lạc hậu lỗi thời, giữa cái
mới thúc đẩy sự phát triển với cái cũ cản trở sự phát triển. Mà tiêu chuẩn để phân biệt
những mặt trái ngược đó chính là thực tiễn, là kết quả về kinh tế - xã hội giành được
trong thực tiễn đổi mới.
Hơn nữa đổi mới tư duy không phải là mục đích tự thân. Cuối cùng việc đổi
mới này phải đi đến xác định được những đường lối chủ trương đúng đắn, phải biến
thành những hoạt động thực tiễn có hiệu quả, nhằm làm biến đổi hiện thực. Thành quả

12


đổi mới mọi mặt của đất nước đặc biệt là lĩnh vực kinh tế chính là thước đo sự đổi mới
tư duy của Đảng, của dân tộc, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi tư duy phải
tiếp tục đổi mới ở những vòng khâu, những tầng nấc cao hơn.
Phải xuất phát từ chính tư duy của Đảng và toàn xã hội để đặt vấn đề đổi mới tư
duy. Phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để đặt ra những yêu cầu của đổi mới tư duy,
cùng những chuẩn mực để kiểm nghiệm việc đổi mới tư duy. Chính vì vậy, đổi mới ở
Việt Nam không phải chuyển từ mô hình đã có sẵn lấy từ một nước nào đó mà là một
quá trình đồng thời xóa bỏ các yếu tố của mô hình cũ và thay thế bằng các yếu tố mới
thích hợp hơn với điều kiện của Việt Nam.
Đối với mỗi người, quá trình đổi mới tư duy lại không giống nhau về ý thức đổi
mới, cũng như về nội dung và tốc độ đổi mới, từ đó dẫn đến những kết quả rất khác
nhau. Có người đổi mới nhiều, người đổi mới ít, có người nói nhiều về đổi mới nhưng
trong việc làm và thực tế thì không đổi mới và càng không đổi mới khi động chạm tới
lợi ích của bản thân và gia đình. Khi bị cầm tù vì những nhận thức lạc hậu, bị trói buộc
bởi những tư tưởng sai lầm, giáo điều xơ cứng, tư duy siêu hình thì con người không
thể đổi mới được, cần phải giải phóng khỏi những điều đó.
Trong quá trình đổi mới, cũng có một chiều hướng khác chỉ thấy những hạn
chế, tiêu cực diễn ra trên các lĩnh vực đời sống xã hội, chỉ biết chê bai, phê phán như
người ngoài cuộc, mà không đề xuất được những giải pháp, có khi nêu giải pháp
nhưng khi áp dụng thì chỉ đưa đến đổ vỡ, thất bại.
2.6. Kiến nghị và giải pháp
Trong tình hình đất nước hiện nay, tuy quá trình đổi mới đã diễn ra gặt hái được
nhiều thành công song vẫn còn một số hạn chế cần giải quyết. Trên cơ sở các tài liệu
tham khảo, bài tiểu luận sẽ đưa ra một vài giải pháp như sau:
Nhất quán trong toàn bộ quá trình đổi mới đó là ta phải giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Điều này rất quan trọng bởi nó sẽ giúp chúng
ta đi đúng hướng tránh khỏi nhiều sai lầm lớn về tư tưởng ảnh hưởng đến sự nghiệp

đổi mới. Đây cũng là định hướng cho việc tiếp tục đổi mới tư duy nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay.

13


Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần; lấy việc giải phóng sức sản xuất, phát huy tối đa nguồn lực bên trong và
bên ngoài trên cơ sở nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan
trọng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện
cho đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh tư nhân yên tâm làm ăn lâu dài. Mở rộng
các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế
khác cả trong và ngoài nước.
Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản
xuất xã hội; thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn; bảo đảm công bằng về cơ
hội cho mọi người dân tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Các
nguồn tài nguyên, tài chính của quốc gia được phân phối, sử dụng theo nguyên tắc
công bằng và hiệu quả.
Kết hợp chặt chẽ thị trường và kế hoạch, có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Vai trò quản lý, điều khiển nền kinh tế
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều kiện tiên quyết để phát triển đúng đắn và vững
chắc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước.

14


KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu và nghiên cứu về những mối liên hệ, ảnh hưởng giữa đổi

mới kinh tế và đổi mới tư duy của nước ta, chúng ta có thể đánh giá lại quá trình đổi
mới, phát triển kinh tế một cách tổng quát và rút ra bài học từ chính quá trình đổi mới.
Việt Nam đã tiến hành cải cách trong bối cảnh bị cô lập tương đối cả về chính
trị và kinh tế. Nguồn viện trợ cho vay của Liên Xô bị cắt từ những năm 80. Trái lại sự
phong tỏa về kinh tế, sự lôi cuốn Việt Nam vào những xung đột chính trị và quân sự
bởi các yếu tố bên ngoài đã buộc đất nước phải tiêu hao nguồn lực mà lẽ ra có thể
dùng cho tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Trong bối cảnh như vậy, nền độc lập
và sự đoàn kết dân tộc có tính chất truyền thống vẫn được bảo tồn song song với quá
trình cải cách đổi mới.
Chúng ta đã lấy chủ nghĩa Mac Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động là nhằm giải quyết thắng lợi những yêu cầu của
công cuộc đổi mới, của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước hiện
nay. Đó chính là vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển của chủ nghĩa Mac Lenin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là con đường tiếp tục tư duy khi đã tìm hiểu và
nghiên cứu về những mối liên hệ, ảnh hưởng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới tư duy
của nước ta, chúng ta có thể đánh giá lại quá trình đổi mới, phát triển kinh tế một cách
tổng quát và rút ra bài học từ chính quá trình đổi mới này.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Tài liệu tham khảo tiếng Việt:
1. Hòa nhập nền kinh tế tri thức (Tạp chí Thị trường tài chính)
2. Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin
3. Tiếp tục đổi mới tư duy ( Tạp chí cộng sản)
 Link trang web:
1. />2. />3. />

16



×