Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn, vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ
DUY VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA.
Họ và tên: Trần Thị Kim Dung
Lớp: Anh 8-Khối 2-TC
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Trần Huy Quang


Hà Nội, ngày 5/11/2010
1
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1. Lý luận và thực tiễn 2
1.1. Khái niệm lý luận 2
1.2. Khái niệm thực tiễn 2
1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn 3
Chương 2. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta 5
2.1. Lý do đổi mới 5
2.2. Nội dung đổi mới 6
2.2.1. Đổi mới tư duy 6
2.2.2. Đổi mới kinh tế 7
2.3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế 9
Kết luận 12
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….13
2
MỞ ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ


bản của triết học Mác - Lênin. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống
nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn
luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển;
sự thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và
những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình đổi mới ở
Việt Nam, dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình lý
giải cặn kẽ về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Do đó,
để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của
vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là nội dung về lý luận và thực tiễn, em xin mạnh
dạn nghiên cứu đề tài:
“Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ
giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, nêu lên
mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những nhận định, lý giải và phân
tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Đồng thời, đề
tài góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho bản thân.
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung:
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp
chuyên gia…
3

Chương I
Lý luận và thực tiễn
1. Khái niệm Lý luận
Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện
như trình độ cao của nhận thức. Các khái niệm lý luận gắn liền với những hệ thống
lý luận nhất định.

Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Đối
tượng nghiên cứu của Lý luận học là tư tưởng của con người và công nghệ tư duy
của con người mang tính lý luận cùng những vấn đề cơ bản của lý luận nhằm cải
biến thực tế khách quan vì sự phát triển của con người và đem lại lợi ích cho con
người.
Lý luận là xuyên suốt và chi phối tư duy logic, qua đó, chi phối ngày càng
mạnh mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội. Không thể
đồng nhất mọi khái niệm lý luận với chân lý vì lý luận có hai dạng - khái niệm lý
luận chân chính - khoa học và khái niệm lý luận giả tạo - phản khoa học.
Lý luận thường mang tính hệ thống, dù là chân chính - khoa học hay giả tạo -
phản khoa học. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung thực hoặc
xuyên tạc tính hệ thống vốn có ở bản thân đối tượng được phản ánh, qua đó mà phản
ánh trung thực hoặc xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng với bản chất của đối tượng.
Lý luận không tự thân xuất hiện, tồn tại, vận động, phát triển. Xét đến cùng,
giá trị cũng như sự xuất hiện, tiêu vong của một khái niệm là ở khả năng phản ánh
đời sống thực tiễn một cách trung thực, chính xác và sâu sắc như thế nào và nhờ
đó, nó có khả năng định hướng cho đời sống thực tiễn như thế nào.
2. Khái niệm Thực tiễn
4
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử, xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thực tiễn có các đặc trưng: là hoạt động vật chất, không phải hoạt động tinh
thần; mang tính mục đích và có ý thức của con người; mang tính lịch sử - xã hội,
tùy thuộc bối cảnh, không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp
thực hiện khác nhau; hướng tới cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo
chính bản thân con người.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt động cơ
bản và phổ biến của xã hội loài người, mang tính lịch sử-xã hội cụ thể. Con người
phải lao động sản xuất, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, để tạo ra của cải vật chất
nuôi sống mình. Do đó, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã

hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động chính trị-xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt động sản
xuất vật chất giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các hoạt động chính trị-xã hội và
thực nghiệm khoa học cũng có tính độc lập tương đối của mình.
Vậy, vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách
là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào?
3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức và
do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận. Mọi
tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan hệ này cũng không thay đổi.
Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở
cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận
mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có
khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không
phải là thực tiễn, mô hình lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là
5
mô hình lý luận. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải
là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng:
thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để
không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản
ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo
điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ
sung cho nhau.
Lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Không có lý luận thì trong
hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa
kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động
thực tiễn. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn

dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực
chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất
và cũng không thể vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn
mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực
tiễn.
Tuy nhiên, Lý luận phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với
thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.Lý luận cốt
để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế
là lý luận suông.
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu
chuẩn chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một
vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý. Nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn
logic. Nhưng tiêu chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét
đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
6
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội
cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện
chứng của quá trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có được lập trường
thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa
giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông.
7
Chương II
Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay
1. Lý do đổi mới
Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm
tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách
quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành

phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu
cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong
việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm
nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan này đã dẫn
đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ
80 của thế kỷ trước. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt: sản xuất
tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; đời sống nhân dân lao động gặp nhiều
khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng…
Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước,
trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về
chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện.
Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng.
Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu
kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch và chậm đổi mới cán bộ; vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề
lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy quá lớn, chồng chéo
và kém hiệu lực; giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ.
8
Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng
hoảng. Mặt khác, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn những
bùng nổ, thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước ta theo cơ chế lúc bấy giờ.
Trong tình thế cần lựa chọn, điều chỉnh, thay đổi, bằng kinh nghiệm lãnh đạo sáng
suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin tưởng vào lực lượng quần chúng và trách nhiệm lớn
lao trước vận mệnh của Tổ quốc, Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất cả các lĩnh
vực, trước hết là đổi mới về tư duy và trọng tâm là đổi mới về kinh tế.
2. Nội dung đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế

2.1. Đổi mới tư duy
Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia, dân tộc đều phải suy
nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với
điều kiện, đặc điểm của nước mình. Hiện nay, nước ta còn đang ở thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn,
phù hợp với thực tế và quy luật khách quan; không thể nôn nóng, giáo điều, máy
móc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Đối với nước ta trong giai
đoạn hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho kinh tế tăng
trưởng nhanh, phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính trị trọng đại số một,
nhiệm vụ trọng tâm.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Tại Đại
hội VI lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặt đúng tầm
vấn đề xã hội trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng về sau Đảng ta càng khẳng
định phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng
với tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn
bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới,
sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta.
9
. Giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước:
Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách
nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn toàn diện hơn; coi
thế giới như môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối ngoại
theo tinh thần "thêm bạn bớt thù"…
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Chúng ta từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc

phòng - an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm "an ninh quốc
gia" và "bảo vệ Tổ quốc".
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: Thực chất của công cuộc
đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng: Sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo
đúng đắn và có hiệu quả, Đảng càng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
2.2. Đổi mới kinh tế
Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, cụ thể:
Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa đã đi đến quan
niệm về một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế này, ngoài hai thành phần nói trên, còn có: kinh tế tư nhân, kinh
10
tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế ấy
đều là bộ phận của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và
phát triển lâu dài, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, phải nhanh chóng hoàn thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế
cá thể, tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan
niệm cho rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.

Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu duy
nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến quan niệm về một
nền kinh tế nhiều sở hữu. Trong đó, không chỉ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
được thừa nhận, mà ngay chế độ công hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các
tư liệu sản xuất mà chỉ là về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền
kinh tế quốc dân.
Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan niệm kinh
tế nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự trữ
quốc gia, ngân sách nhà nước ) là chủ đạo.
Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập thể
hóa tư liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng
gần chủ nghĩa xã hội, do đó mà gò ép những người lao động cá thể vào hợp tác xã,
đã đi đến quan niệm hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở
người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và mức
độ tập thể hóa tư liệu sản xuất khác nhau.
Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,
với việc xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã
là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai
thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân, thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và
phát triển hai thành phần đó với những bước đi thích hợp.
11
Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch
tập trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm
phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh
doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc
Nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp.
Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính
đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,

đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường tư
bản chủ nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm về một nền
kinh tế mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và toàn cầu; kết hợp nội lực với ngoại lực, lấy phát huy nội lực là
chính, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực
hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được
độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản
chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều
phương thức sản xuất mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển
đến mức điển hình.
3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, trước hết
là đổi mới tư duy? Bởi vì không có bước đổi mới tư duy đi trước thì không có
bất cứ một sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận và
thực tiễn nước ta, làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và
bước đi sắp tới. Đổi mới tư duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý
nghĩa lịch sử. Tư tưởng giải phóng là một quá trình rời bỏ khỏi bản thân mình và
12
toàn xã hội những gì đang kìm hãm và cản trở sự phát triển, là quá trình tổ chức lại
xã hội và đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật
chất và tinh thần, tạo nên lực đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác về
chất: Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Một
phương thức chưa từng có trong tiền lệ. Con đường mới lại diễn ra trong xu thế toàn
cầu hoá và sự cạnh tranh rất quyết liệt trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch, trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ.

Trong hoàn cảnh ấy, đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng trở thành
nhu cầu không thể thiếu.
Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập trung trước hết là ở
đường lối của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách mạng
cũng chính bằng đường lối chính trị của mình.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn đề hoàn
toàn mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác, Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền
bối của Đảng ta cũng chưa từng đề cập đến vấn đề này. Con đường phía trước đòi
hỏi chúng ta phải hoàn toàn sáng tạo mới.
Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không lệ thuộc
vào quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt khác
lại rất sợ phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội theo
những tiêu chí truyền thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của
lối tư duy cũ, tư duy thời kế hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị
trường. Kết quả là đường lối đổi mới trong kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn
lực hiện có. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó, Đảng đã
chỉ đạo chuyển sang kinh tế thị trường, thiết kế một hệ thống chính sách nhằm tạo
điều kiện để tất cả mọi công dân ở trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, có khả
năng làm kinh tế đều hoàn toàn có thể tham gia làm kinh tế, theo những định hướng
vĩ mô của nhà nước, trong khuôn khổ của luật pháp.
13
Đường lối đổi mới là sản phẩm của đổi mới tư duy, của sự khảo nghiệm từ
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều năm trước đó, là sự kế thừa và phát triển
đường lối đã hình thành qua các thời kỳ và tổng kết thực tiễn một cách nghiêm túc,
sáng tạo.
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc đổi mới ở các lĩnh
vực khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi mới kinh tế giữ vai trò trọng tâm. Điều
đó không chỉ có ý nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà
còn là vì phát triển kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên
chủ nghĩa xã hội như nước ta, có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là

quan trọng bậc nhất.
Nó còn có ý nghĩa là vai trò kinh tế tuy chiếm vị trí hàng đầu nhưng tư duy
kinh tế của chúng ta trong nhiều năm qua còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở
không ít đến sự phát triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn bệnh giáo
điều, bảo thủ, trì trệ, luôn bám lấy cái cũ, không chịu đổi mới, chính vì vậy mà nền
kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kéo dài và đang trở thành
vấn đề nóng bỏng, nổi lên hàng đầu. Đổi mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát
trong đổi mới lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với logic cuộc sống.
Trong quá trình đổi mới, từ thực tế nền kinh tế nước ta ở điểm xuất phát thấp
kém, lạc hậu, lại lâm vào khủng hoảng từ cuối thập niên bảy mươi, Đảng ta chủ
trương lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, tạo ra bước phát triển có tính bứt phá để
sớm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Đảng, Nhà nước ta đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1996 và
đạt thành tựu to lớn về kinh tế qua 20 năm đổi mới.
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị có vị trí và tác động
to lớn tới kinh tế. Thấu triệt sâu sắc và xử lý thành công mối quan hệ giữa chính trị
và kinh tế trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
14
KẾT LUẬN
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất hữu cơ với nhau.
Lý luận là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, mục đích, động
lực và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm lý luận. Trong thực tiễn cách mạng nước ta, có
những vấn đề mới nảy sinh, nằm ngoài phạm vi lý luận đã biết, buộc Đảng ta phải
vận dụng linh động, sáng tạo và chủ động tổng kết thực tiễn, xây dựng lý luận nhằm
tìm ra phương thức, biện pháp hoạt động phù hợp. Sự nghiệp đổi mới là một trong
những vấn đề như vậy, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã chủ động, sáng tạo, vừa
thực hiện, vừa tổng kết lý luận, vừa xây dựng lý luận, vừa kiểm nghiệm và định
hướng cho hoạt động thực tiễn.

Trải qua hơn 20 năm đổi mới thành công, sự nghiệp đổi mới đã được rất
nhiều học giả nghiên cứu ở phạm vi thế giới cũng như ở Việt Nam. Trong phạm vi
nghiên cứu đề tài này, tôi đã cố gắng bám sát lý luận đã được trang bị ở môn
Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, đặc biệt là nội dung về mối
liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, từ đó phân tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy
và đổi mới kinh tế trong sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta. Nhưng do thời
gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, tài liệu tản mạn,
đồng thời vấn đề mà tôi nghiên cứu không phải là dễ. Vì vậy, đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi hy vọng rằng vấn đề này sẽ được tổ chức
nghiên cứu ở phạm vi rộng lớn và sâu sắc hơn.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X về
“Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác – Lê nin,
nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2004.
Lưu Hà Vĩ, Khái niệm lý luận, tạp chí Triết học, số đăng ngày 4/12/2006.
Nguyễn Phú Trọng, Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tạp chí Cộng sản điện tử, số đăng ngày 22/1/2007.
Phan Đình Diệu, Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế xã hội, tạp chí Tia
sáng, số đăng ngày 28/9/2006.
Trần Nhâm, Tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh, Việt báo, số đăng
ngày 8/2/2007.
Trần Văn Phòng, Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh, tạp chí Khoa học xã hội, số đăng ngày 28/4/2007.
Vi Thái Lang, Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, tạp chí
Triết học, số đăng ngày 11/5/2007.
Vũ Văn Phúc, Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế, Tạp chí
cộng sản điện tử, số đăng ngày 25/10/2008.

16

×