Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

VỊ TRÍ, VAI TRÒ của hệ THỐNG tín DỤNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.25 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi khi xã hội phát triển, đến một trình độ nhất định, tự
trong bản thân nó cho ra đời những sản phẩm - những công
cụ để phục vụ chính cho sự phát triển đó. Từ khi có sự phân
công lao động xã hội, và sự xuất hiện sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất đã tạo ra rất nhiều sản phẩm, mà một trong
những sản phẩm của nó chính là quan hệ tín dụng. Đến lượt
nó, khi ra đời sẽ thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển lên
trình độ cao hơn. Do đó, sự tồn tại của nó như một tất yếu
khách quan. Ngày nay, chúng ta biết rằng, khi kinh tế thị
trường là sự phát triển của nền kinh tế ở một trình độ cao.
Trong đó, các chủ thể độc lập với nhau về tính chất sản xuất
kinh doanh, về quyền sở hữu, về sự tuần hoàn và luân
chuyển vốn. Như vậy trong nền kinh tế có những doanh
nghiệp “thừa” vốn. Ví dụ như các doanh nghiệp có tiền bán
hàng nhưng không phải trả lương, thuế và các khoản chi
khác do đó tạm thời thừa tương đối. Trong khi đó có những
doanh nghiệp thiếu vốn những người thừa vốn sử dụng vốn
này để thu lợi nhuận còn doanh nghiệp thiếu vốn muốn sử
dụng phải đi vay để duy trì hoạc tién hành sản xuất kinh
doanh thu lợi nhuận. Như vậy hai nhu cầu này đều giống
nhau ở chỗ để thu lợi nhuận và mang tính chất tạm thời.
Nhưng chúng khác nhau về chiều vận động và quyền sở
hữu. Do đó trong nền kinh tế tất yếu tồn tại quan hệ tiêu
dùng và tín dụng. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá
độ chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, việc tồn tại các
loại hình tín dụng là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là
chúng ta phải nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng



trong nền kinh tế và từ đó xác định được loại hình tín dụng
nào tồn tại ở nước ta. Qua đó, nhà nước có các chủ trương,
chính sách để kích thích cho sự ra đời của nó.

2


1.

TÍN DỤNG LÀ GÌ?

1.1 Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế
hàng hóa
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phương tiện thanh toán
chủ yếu trong tất cả các mối quan hệ kinh tế, nền kinh tế
hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì tốc độ quay vòng
của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi
chủ thể kinh tế không thể tự đáp ứng được nhu cầu về vốn
của mình mà họ phải dựa vào các chủ thể kinh tế khác đặc
biệt là các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ tín dụng mới
có thể đáp ứng được nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta
có thể nói cơ sở hình thành và phát triển của quan hệ tín
dụng chính là sự tin tưởng và nhu cầu về vốn trong nền kinh
tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đưu ra một
khái niệm chung về quan hệ tín dụng như sau :
“Tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá
trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời
sống, theo nguyên tắc hoàn trả.”
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là

quan hệ mua bán , chỉ xảy ra trong thời gian nhất định và
phải được xác định trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau. Nói chung
đứng trên mỗi góc độ khác nhau người ta sẽ có cách hiểu
khác nhau về tín dụng , chính vì thế mà theo Luật các tổ
chức tín dụng của Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hoạt
động tín dụng như sau:

3


“ Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn
tự có, vốn huy động để cấp tín dụng ” . Trong đó cấp tín
dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử
dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay , chiết khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân
hàng và các nghiệp vụ khác .
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay)
cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay)
trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay
trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất.
Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho
vay còn gọi là chủ nợ, bên đi vay gọi là con nợ. Do đó, tín
dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - Một bên là người
cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên
ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay,
lãi suất phải trả,...
1.2 Nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của tín dụng .
Quá trình tái sản xuất là một quá trình liên tục trên cơ sở
phân công và hợp tác trong toàn bộ hệ thống kinh tế, vì vậy
khi mà doanh nghiệp này thừa vốn thì tất cả các doanh

nghiệp khác thiếu vốn. Đây là hiện tượng khách quan, đòi
hỏi phải có tín dụng làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu.
Trong cơ chế thị trường, tồn tại và phát triển luôn gắn bó với
nhau, vì vậy nhu cầu cho sản xuất không chỉ để duy trì mức
sản xuất như cũ, mà còn có nhu cầu đầu tư phát triển. Đối
với các doanh nghiệp, lợi nhuận tích luỹ để đầu tư có giới
hạn, vì vậy muốn thực hiện được nhu cầu mở rộng sản xuất
4


cần phải nhờ đến nguồn vốn trong xã hội. Nguồn vốn đáp
ứng cho nhu cầu này là vốn tiết kiệm xã hội, bao gồm vốn
tiết kiệm của các nhà kinh doanh, vốn tiết kiệm cá nhân và
ngân sách Nhà nước. Mỗi khoản tiết kiệm có một mục đích
nhất định: nhà kinh doanh tiết kiệm để mở rộng sản xuất;
cá nhân tiết kiệm để xây dựng nhà cửa, mua sắm xe cộ…
Mục đích của tiết kiệm có thể được thực hiện ngay hoặc chỉ
được thực hiện trong tương lai. Do đó trong thời gian chưa
thực hiện được mục đích đã định, những người chủ của vốn
tiết kiệm có thể cho vay dưới hình thức trực tiếp mua trái
phiếu hay gián tiếp gởi vào các tổ chức tiết kiệm. Như vậy
sự phát triển của tín dụng xuất phát từ nhu cầu tiết kiệm và
nhu cầu đầu tư.
1.3 Đặc điểm của tín dụng
Thứ nhất, quan hệ tín dụng Ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn
trả. Ngân hàng với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay” thông
qua nghiệp vụ tín dụng của mình
Thứ hai, đó là là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất
tạm thời. Đối tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ

hoặc là hàng hóa dưới hình thức kéo dài thời gian thanh
toán trong quan hệ mua bán hàng hóa. Tính chất tạm thời
của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng
giá trị đó. Nó là kết quả của sự thỏa thuận các đối tác tham
gia qúa trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa
thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị dó.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sư tin tưởng giữa
người đi vay và người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện
5


tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng Sự gặp gỡ giữa
người đi vay và người cho vay về, điểm này sẽ là điều kiện
hình thành quan hệ tín dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có
thể do uy tín của người đi vay do giá trị của tài sản thế chấp
hay do sự bảo lãnh của bên thứ ba.
1.4 Các hình thức tín dụng phổ biến


Căn cứ vào thời hạn tín dụng

– Tín dụng ngắn hạn: là những khoản vay có thời hạn đến 1
năm, thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt
tạm thời vốn lưu động và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt
của cá nhân
– Tín dụng trung hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 1
năm đến 5 năm; được cung cấp để mua sắm tài sản cố
định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các
công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
– Tín dụng dài hạn: là những khoản vay có thời hạn trên 5

năm. Loại tín dụng này được sử dụng để cung cấp vốn cho
xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô
lớn


Căn cứ vào đối tượng tín dụng

– Tín dụng vốn lưu động: được sử dụng để hình thành vốn
lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ
hàng hóa, mua nguyên vật liệu cho sản xuất…

6


– Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản
cố định.


Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn

– Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại cấp phát
tín dụng cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác
tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
– Tín dụng tiêu dùng: là hình thức cấp phát tín dụng cho cá
nhân để đáp ứngnhu cầu tiêu dùng.
– Tín dụng học tập: là hình thức cấp phát tín dụng để phục
vụ việc học tập của sinh viên.
Ngoài ra, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn còn có thể có
nhiều hình thức tín dụng khác.



Căn cứ vào chủ thể tín dụng

– Tín dụng thương mại:
+ Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
+ Đáp ứng nhu cầu vốn cho những doanh nghiệp tạm thời
thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ
được hàng hóa của mình.
– Tín dụng ngân hàng:
+ Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng
khác với các doanh nghiệp và cá nhân.
7


+ Không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật
tư, hàng hóa, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán
các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng
cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu
dùng cá nhân.
– Tín dụng Nhà Nước:
+ Là quan hệ tín dụng mà trong đó Nhà Nước biểu hiện là
người đi vay, người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh
tế, ngân hàng và nước ngoài.
+ Mục đích đi vay của tín dụng Nhà Nước là bù đắp khoản
bội chi ngân sách.


Căn cứ vào đối tượng trả nợ


– Tín dụng trực tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó người
đi vay cũng là người trực tiếp trả nợ.
– Tín dụng gián tiếp: là hình thức tín dụng mà trong đó
người đi vay và người trả nợ là hai đối tượng khác nhau.


Căn cứ vào tính chất của khoản vay

– Tín dụng có đảm bảo: các khoản vốn tín dụng phát ra đều
có hàng hóa, vật tư tài sản tương đương đảm bảo.
– Tín dụng không có đảm bảo: các khoản tín dụng phát ra
không cần có hàng hóa, vật tư, tài sản đảm bảo mà chỉ dựa
vào uy tín, sự tín nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân để cấp
vốn tín dụng.
8


2.

VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG CỦA NỀN KINH

TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1 Hoạt động tín dụng đảm bảo nhu cầu về vốn cho nhu
cầu sản xuất kinh doanh vốn nhu cầu tiêu dùng cho các
cá nhân trong nền kinh tế
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các
doanh nghiệp. Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần
điều hòa trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá
trình sản xuất được liên tục. Ngoài ra tín dụng còn là cầu
nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm

đồng thời là phương tiện cung cấp vốn cho đầu tư phát
triển. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tín dụng là một
trong những nguồn hình thành vốn lưu động và cố định của
các doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng đã góp phần động viên
vật tư đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn
mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn còn ở mức độ cao.
Vì vậy, thông qua việc đầu tư tín dụng sẽ góp phần sắp xếp
và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
Mặt khác, thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn
lao động và nguồn nguyên liệu một cách hợp lý, thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết
các vấn đề xã hội.

9


2.2 Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất
Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm
thời chưa sử dụng, mà vốn này nằm phân tán ở khắp mọi
nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước
và của cá nhân, trên cơ sở đó cho các đơn vị kinh tế vay.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không phải rải đều cho
mọi chủ thể có nhu cầu, mà việc đầu tư được tiến hành một
cách tập trung, chủ yếu là cho các doanh nghiệp lớn, những
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Đầu tư tập trung là
quá trình tất yếu, vừa đảm bảo tránh rủi ro tín dụng, vừa
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
2.3 Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém

phát triển và ngành mũi nhọn
Trong điều kiện nước ta nông nghiệp là ngành sản xuất đáp
ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội, là ngành chịu tác động
nhiều nhất của quá trình tự nhiên và là ngành đang trong
quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vì vậy, trong giai
đoạn trước mắt, nhà nước cần tập trung đầu tư phát triển
nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã
hội, đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế
khác. Bên cạnh đó, nhà nước cần tập trung tín dụng để tài
trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, nhằm tạo cơ sở và lôi
cuốn các ngành kinh tế khác.

10


2.4 Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế của các doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là hoạt động trên cơ sở hoàn
trả và có lợi tức. Vì vậy, hoạt động của tín dụng đã góp
phần kích thích sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì các doanh nghiệp phải
tôn trọng hoạt động tín dụng, tức là phải đảm bảo hoàn trả
nợ vay theo đúng thời hạn và tôn trọng các điều kiện khác
đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Bằng cách tác động như
vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng
quay của vốn, tạo điều kiện để nâng cao doanh lợi doanh
nghiệp. Tín dụng đã và đang ngày một có những đóng góp
đáng kể trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Lợi ích mà tín dụng mang lại khá lớn cho cả người vay và

người cho vay. Nó ảnh hưởng và tác động tích cực đến nền
kinh tế của nước nhà. Với những khoản tín dụng được chấp
nhận đã góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn của cá nhân, tổ
chức… từ đó giải quyết khá nhiều khâu quan trọng như đầu
tư, mua sắm hoặc phát triển kinh tế.
Tín dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, cụ thể tín dụng là
công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các
ngành mũi nhọn. Đồng thời, tạo điều kiện phát triển các
quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài
Một số cá nhân vì không hiểu rõ ý nghĩa của tín dụng nên
dễ dàng bị kẻ xấu trục lợi từ đó rơi vào bẫy tín dụng. Đặc
11


biệt là những tín dụng đen gây nên hiệu quả vô cùng
nghiêm trọng ảnh hưởng đến tài sản cũng như cá nhân
người dùng. Vì vậy, phải có những kiến thức tất yếu liên
quan đến tín dụng để tránh đi những sai lầm không đáng
có.
3.

HỆ THỐNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM

3.1 Tổng quan về các tổ chức tín dụng Việt Nam
Ngành tài chính ngân hàng của Việt Nam được kiểm soát
chặt chẽ. Giống như nhiều nước khác, các tổ chức tín dụng
(bao gồm cả ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài ) và hoạt động ngân hàng của các tổ chức
khác được giám sát và quy định bởi cơ quan nhà nước là
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ và Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước có các quyền hạn của Bộ trưởng. Ngân
hàng
-

Quản

Nhà


nước
tiền


tệ



các

nhiệm

hoạt

động

vụ

sau:


ngân

hàng;

- Hoạt động như một ngân hàng cho các tổ chức tín dụng;
- Chịu trách nhiệm về cấp, thu hồi giấy phép đã cấp cho các
tổ

chức

tín

dụng

- Là cơ quan đăng ký các giao dịch cho vay nhất định.
3.2 Quyền sở hữu trong tổ chức tín dụng Việt Nam
Theo Luật Các tổ chức tín dụng, quyền sở hữu cho phép tối
đa vốn điều lệ trong một tổ chức tín dụng cổ phần là 5 %
cho một cổ đông cá nhân và 15% cho cổ đông tổ chức. Hơn
nữa, cổ đông và người có liên quan của nó chỉ có thể nắm
12


giữ tối đa 20 % vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng cổ
phần. Mặc dù pháp luật hiện nay cho phép các ngân hàng
thuộc sở hữu toàn bộ vốn nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam, sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng thương mại
Việt Nam còn hạn chế nghiêm ngặt.
3.3 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Chi nhánh không được phép góp vốn, thành lập doanh

nghiệp tham gia vào các hoạt động liên quan đến bảo hiểm,
chứng khoán và cho thuê tài chính. Luật Các tổ chức tín
dụng hạn chế một chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở
rộng các cơ sở tín dụng với tổng giá trị vượt quá 15 phần
trăm vốn chủ sở hữu của nó với một khách hàng.
Một chi nhánh của ngân hàng thương mại nước ngoài
không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài văn
phòng

chi

nhánh

của

nó.

Tổ chức tín dụng nước ngoài được phép phát hành thẻ tín
dụng trên cơ sở đối xử quốc gia.
3.4 Hoạt động đầu tư của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Theo Luật Các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại chỉ
được dùng vốn điều lệ, quỹ dự phòng khác, khi thực hiện
góp vốn vào doanh nghiệp và không góp vốn vượt quá 40%
(bao gồm cả các công ty con và chi nhánh của nó ) vốn chủ
sở hữu của ngân hàng và quỹ dự trữ. Ngân hàng phải thành
lập hoặc mua lại các công ty con hoặc công ty liên kết để
thực hiện các hoạt động liên quan đến chứng khoán (ví dụ
như môi giới , bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu
13



tư ), bảo hiểm, cho thuê tài chính thay mặt cho các ngân
hàng. Hơn nữa, một ngân hàng thương mại (bao gồm cả các
công ty con và chi nhánh của nó ) có thể không được sở hữu
trên 11% vốn cổ phần của một doanh nghiệp hoạt động
trong bảo hiểm, chứng khoán, ngoại hối, vàng, lĩnh vực tín
dụng tiêu dùng. Một công ty tài chính được phép góp vốn
vào doanh nghiệp, quỹ đầu tư. Tổng sở hữu của một công ty
tài chính (bao gồm cả các công ty con và chi nhánh của nó )
không được vượt quá 11% vốn điều lệ của công ty mục tiêu.
Ngoài ra, tổng số vốn đóng góp của một công ty tài chính
(bao gồm cả các công ty con và chi nhánh của nó ) cho các
doanh nghiệp khác không được vượt quá 60 % vốn chủ sở
hữu và các quỹ dự trữ.
*Tín dụng ngân hàng tại Việt Nam:
- Thực trạng hiện nay:
Tín dụng ngân hàng có vị trí vô cùng quan trọng, nó là một
quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín
dụng cho các doanh nghiệp, các thể nhân khác trong nền
kinh tế. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân
hàng càng trở thành một hình thức tín dụng không thể thiếu
cả trong nước và quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là
ngân hàng còn một bên khác là các thể nhân trong nền kinh
tế.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan
hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn hoàn trả cả vốn lẫn lãi
14



sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên
cùng có lợi.
Việt Nam hiện tại đang có các ngân hàng bào gồm: Ngân
hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần,
Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam và ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Uy tín của các
ngân hàng được đánh giá dựa trên 3 tiêu chí chính: (1) Năng
lực và hiệu quả tài chính thể hiện trên báo cáo tài chính
kiểm toán năm gần nhất (tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi
nhuận sau thuế, hiệu quả sử dụng vốn, tỷ lệ nợ xấu,... ); (2)
Uy tín truyền thông được đánh giá bằng phương pháp Media
Coding - mã hóa các bài viết về ngân hàng trên các kênh
truyền thông có ảnh hưởng; (3) Điều tra khảo sát về mức độ

nhận biết và sự hài lòng của khách hàng với các sản phẩm/
dịch vụ của ngân hàng

15


Hình 1: Điểm quy đổi của Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy

tín năm 2018

HÌnh 2: Top 5 ngân hàng về tổng tài sản, cho vay, tiền gứi quý II/2018

Trong Top 5 ngân hàng Việt lớn nhất, tính đến hết quý II/2018, ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đang có tổng tài sản lớn nhất

hệ thống và đạt 1,268 triệu tỷ đồng, ngân hàng TNHH MTV Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) chỉ đứng thứ 2 với 1,197
triệu tỷ đồng, thứ 3 là ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
( Vietinbank ) 1,131 triệu tỷ đồng.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) được xếp vào Top 5 ngân hàng vì có
tổng tài sản đứng thứ 5 trong hệ thống ở mức 477.591 tỷ đồng. So với các
ngân hàng TMCP cùng quy mô là Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng
chỉ có tổng tài sản là 400.686 tỷ đồng, Á Châu (ACB) là 309.968 tỷ đồng,
Sài Gòn - Hà Nội (SHBank) là 303.929 tỷ đồng, Kỹ Thương
(Techcombank) là 300.404 tỷ đồng.
-

Mục tiêu tăng trưởng tín dụng vào năm 2019:

16


Năm 2019, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt mục tiêu tăng
trưởng tín dụng tương đương với năm 2018, tức là khoảng
14%/năm. Đây là thông tin được Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) cho biết tại cuộc họp báo về kết quả hoạt động năm
2018 và triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2019
diễn ra sáng 7/1.
Tại cuộc họp báo, Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng
cho biết, năm 2018, NHNN đã thực hiện đồng bộ, linh hoạt
các công cụ chính sách tiền tệ để ổn định thị trường tiền tệ,
ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 3,54% (là
năm thứ 5 liên tiếp lạm phát được kiểm soát ở mức dưới
4%) và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt 7,08% - cao nhất
trong 11 năm trở lại đây. Đến cuối năm 2018, tổng phương

tiện thanh toán tăng khoảng 12,5% so với cuối năm 2017.
Theo ông Phạm Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ
(NHNN), tín dụng đến cuối năm 2018 tăng khoảng 14% so
với cuối năm 2017. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều
chỉnh tích cực. Bên cạnh đó, NHNN đã điều chỉnh giảm lãi
suất chào mua OMO từ 5%/năm xuống còn 4,75%/năm để
góp phần giảm chi phí vốn cho tổ chức tín dụng. Mặt bằng
lãi suất của các tổ chức tín dụng năm 2018 về cơ bản ổn
định, lãi suất cho vay phổ biến khoảng 6-9%/năm đối với
ngắn hạn, trung - dài hạn khoảng 9-11%/năm.
Hoạt động tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với
xử lý nợ xấu trong năm cũng được đẩy mạnh với nhiều
chuyển biến tích cực. Ước tính đến cuối tháng 12/2018,
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 149,22
nghìn tỷ đồng nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ
17


chức tín dụng là 1,89%, giảm so với mức 2,46% cuối năm
2016 và mức 1,99% cuối năm 2017.
Về ứng dụng công nghệ số, ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng
Vụ thanh toán cho biết, ngân hàng là một trong những
ngành chủ động đi đầu ứng dụng các thành tựu của cách
mạng 4.0, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ, gia tăng các
tiện ích cho khách hàng, thúc đẩy thanh toán không dùng
tiền mặt.
Theo số liệu của NHNN, 9 tháng năm 2018, số lượng giao
dịch tài chính qua kênh Internet tăng tương ứng 33,03% và
18,34% so với cùng kỳ năm 2017; số lượng giao dịch tài
chính qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 29,74%

và 125,85% so với cùng kỳ năm 2017. Đến nay đã có 76 tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai dịch vụ thanh
toán qua Internet và 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán qua điện thoại di động.
Về đảm bảo nhu cầu tiền mặt cuối năm. NHNN cho biết sẽ
theo dõi sát diễn biến tình hình tiền mặt từng địa phương,
tập trung nguồn lực ở mức cao nhất để kịp thời điều
chuyển, bổ sung dự trữ. Năm nay, NHNN vẫn tiếp tục chủ
trương không đưa tiền mới in mệnh giá nhỏ ra lưu thông,
chủ trương này từ năm 2013 đến nay đã giúp tiết kiệm
hàng nghìn tỷ đồng cho ngân sách nhà nước.
Với năm 2019, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng
tương đương với năm 2018, tức khoảng 14%.Trong đó, tín
dụng sẽ vẫn được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, đảm
bảo kiểm soát rủi ro và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. NHNN

18


cũng triển khai một số giải pháp trọng tâm nhằm góp phần
hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2019.
4.

QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ

BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG.
4.1 Quan điểm cá nhân:
-

Phát triển thị trường tín dụng phải phục vụ tốt cho quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm thành công

-

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Phát triển thị trường tín dụng trên cơ sở tuân thủ pháp
luật; thông qua pháp luật, Nhà Nước thực hiện quyền

-

quản lý nhà nước một cách hiệu quả.
Phát triển thị trường tín dụng phải hướng tới mục tiêu

-

kép : hiệu quả kinh tế đi đôi với hiệu quả xã hội.
Phát triển thị trường tín dụng phải đảm bảo yêu cầu
hội nhập khu vực và quốc tế một cách chủ động, hiệu
quả. Đối với một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam
phải quán triệt tốt quan điểm này.Trên thực tế xuất
phát điểm trong

thị trường vốn nói chung và thị

trường tín dụng nói riêng ở nước ta rất thấp, chỉ là
bước khởi đầu (cả về công nghệ, tổ chức, quản lý, dịch
vụ tín dụng) .Trong khi đó, xu thế toàn cầu hoá kinh
tế, nhất là trong lĩnh vực tài chính- tiền tệ diễn ra
nhanh chóng, buộc các quốc gia trên thế giới phải phụ
thuộc nhau , chấp nhận nhau, cạnh tranh nhau để

cùng tồn tại và phát triển. Muốn thắng thế mỗi quốc
gia phải tạo độ mở trong cách thức tiến hành cũng
như tính độc lập trong phát triển thị trường vốn nói
chung, thị trường tín dụng nói riêng.

19


4.2 Những giải pháp cơ bản để phát triển thị trường tín
dụng:
-

Thực hiện nghiêm túc các quy định về lãi suất, tiết
kiệm chi phí để áp dụng lãi suất cho vay mới ở mức
hợp lý, xem xét thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ của
khách hàng, tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cho vay
đối với các khoản vay cũ để chia sẻ khó khăn đối với

-

doanh nghiệp và hỗ trợ người dân trên địa bàn.
Ưu tiên tập trung vốn cho vay lĩnh vực nông nghiệp,
sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ

-

cao, doanh nghiệp khởi nghiệp, các dự án có hiệu quả
Triển khai các chương trình tiết kiệm dự thưởng; chủ
động phân đoạn khách hàng để quản lý và chăm sóc,

đưa ra các chính sách ưu đãi lãi suất, lãi suất phụ trội
đối với từng khách hàng để thu hút, tạo sự gắn bó giữa
khách hàng với ngân hàng…

20


KẾT LUẬN
Tín dụng tập thể là hình thức tồn tại tất yếu trong nền kinh
tế thị trường, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn khi hộ gia đình
là đơn vị kinh tế tự chủ và khi ngân hàng chưa vươn tới từng
hộ nông dân. Nhìn từ khía cạnh kinh tế thì quan hệ tín dụng
góp phần tạo ra nhiều của cải hơn cho xã hội do nó làm
tăng vòng chu chuyển của tiền tệ, giảm thiểu lượng tiền
nhàn rỗi trong xã hội. Còn nhìn từ khía cạnh xã hội thì quan
hệ tín dụng cũng có nhiều ưu điểm mang tính tích cực. Tuy
nhiên điều đó chỉ trở thành hiện thực khi các tổ chức tín
dụng tập thể có cơ chế kinh doanh phù hợp, tồn tại và phát
triển trên cơ sở tôn trọng pháp luật, nhất là pháp luật trong
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, có sự giúp đỡ của Nhà nước. Hiện
nay, xu hướng thế giới là toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới
là một nền kinh tế mở, việc thông thương ngày càng trở nên
không có biên giới. Tình hình trên đặt ra cho nước ta nhiều
thời cơ cũng như thách thức. Chúng ta cùng hy vọng rằng
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước nước ta
sẽ tận dụng được những thời cơ, đẩy lùi những thách thức,
làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân
dân ngày càng được cải thiện, nhanh chóng đưa nước ta
vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.


21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/>






22



×