Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.49 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang là một xu thế tất yếu của thời đại, nó
diễn ra mạnh mẽ khắp các châu lục chi phối đời sống kinh tế của hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Đa số các nước trên thế giới ngày nay đều rất coi trọng khả năng
độc lập tự chủ về kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc
mình trong cuộc đấu tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế nhất định trên
trường quốc tế. Nền kinh tế thế giới đang từng ngày, từng giờ biến đổi làm xuất
hiện xu thế mới- xu thế hình thành nền kinh tế toàn cầu.
Nhận thức được điều này, Đảng ta đã nhận định hội nhập kinh tế quốc tế là
một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và
hợp tác kinh tế quốc tế trong quá trình đổi mới đất nước. Trong 30 năm đổi mới
vừa qua, từ Đại hội VI đến Đại hội XII, Đảng ta đã đưa ra chủ trương đúng đắn
trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, nước ta đã từng bước, chủ động hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, phát triển nền kinh tế
nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trên cơ sở đó, em quyết định làm bài luận: “Phép biện chứng về mối liên hệ phổ
biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để tìm hiểu sự vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng đổi mới đất nước là hoàn toàn đúng
đắn.

NỘI DUNG


CHƯƠNG 1. LÍ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN
1. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong các mối
liên hệ, tương tác với nhau, nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi về
chất của sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt


đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phép biện chứng duy vật: Mac và Ảnggen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng và sau đó được Lênin pháp triển đã tạo cho phép biện chứng một hình thức sỡ
hữu mới vể chất. Đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện chúng duy vật là sự thống
nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biẹn chứng . Cho nên nó
đã khắc phục được nhũng hạn chế cùa 2 hình thức phep biện chứng trước đay và thực
sự trở thành khoa học. Đối tượng cúa phép biên chung duv vật là thế giới vật chất vô
cùng vô tận cho nên nội dung cua nó rất phong phú. Trong đó, nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến và sự phát triển có ý nghĩa khái quát nhất và là 2 nguyên lí cơ bản cùa
phép biện chứng duy vật. Tù đó Ăngghen định nghĩa: "phép biện chúng chẳng qua
chi là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triẽn của tư
nhiên, cùa xã hội loài người và của tư duy”

2


2. Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1.2.2. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ là sự quy định, tác động và chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến là tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời là các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của
thế giới. Trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối liên hệ tồn tại ở mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới.
2.2. Bản chất mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ giữa bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có những đặc điểm chung đó
là tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.


Tính khách quan




Sự quy định lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự




vật, hiện tượng là cái vốn có của nó và tồn tại độc lập.
Không phụ thuộc vào ý chí của con người.
Nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn.



Tính phổ biến



Bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống.
Hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi



lẫn nhau.

3





Tính đa dạng, phong phú



Các sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ cụ thể khác nhau, vị trí và vai trò khác
nhau với sự tồn tại và phát triển của nó.



Ở điều kiện cụ thể khác nhau thì hình thành những mối liên hệ cụ thể khác nhau: mối
liên hệ bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, trực tiếp và gián tiếp…
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến, chúng ta rút ra một số ý
nghĩa phương pháp luận sau đây:
Về quan điểm toàn diện: Đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại của sự vật đó với sự vật khác.
Về quan điểm lịch sử - cụ thể: Đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống
thực tiễn cần phải xét đến tính chất đặc thù của đối tượng và tình huống khác nhau.
Đồng thời xác định vai trò, vị trí khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong mỗi liên
hệ cụ thể để có những giải pháp đúng đắn và hiệu quả.

4


CHƯƠNG 2. MỐI LIÊN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VỚI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tà quá trinh "mở cửa" nền kinh tế, đưa các doanh

nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, sự tham gia vào phân
công lao động quốc tế sẽ tạo điều kiện mớ rộng không gian và môi trường đê chiếm
lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó cũng là
quá trình chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và thế giới, qua
đó mà thiết lập mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học và công nghệ với
các nước trên thế giới.
1.2.Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước
Hội nhập kinh tế quốc tể là con dường duy nhất dế đưa một quốc gia không
ngừng phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cua nước mình.
Theo quan diểm biện chứng về mối quan liên hệ phổ biến cua các nhà triết học
dà khảng định ở trên:"Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối liên hệ
phổ biến không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác động
lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau". Khi áp dụng quan điêm này
vào thực tế là hoàn toàn đúng khi một quốc gia tự mình tách ra khòi mối quan hệ với
các quốc gia khác thì nó không thể tồn tại và phát triển được. Bởi vì trước hết một
quốc gia không thể tự mình cung cấp những nhu cẩu cho quốc gia mình, do mỗi quốc
5


gia trên thế giới đều có một thế mạnh riêng như Nhật Bản mặc dù là một quốc gia
phát ưiển mạnh về khoa học kỹ thuật nhưng lại là một nước nghèo tài nguyên khoáng
sàn, thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước nhỏ bé. Nếu như Nhật Bản không hội
nhập kinh tế giao lưu với các quốc gia khác về trao đồi hàng hoá và mua nguyên vật
liệu thì Nhật Bản sẽ không thể tồn tại và phát triển như ngày nay. Và ca Mỹ mặc dù là
một quốc gia phát triển bậc nhất thế giới hiện nay, là trung tâm khoa học kỹ thuật của
thế giới nhưng để có sự phát triển như vậy là do Mỹ có chinh sách đúng đắn mỡ cửa
hội nhập kinh tế và thu hút nhân tài khắp thế giới cũng như mua được nhưng nguyên
vật liệu với giá rẻ và có thị tnường rộng lớn trên toàn thể giới. Đỏ là nlữrng quốc gia
có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới phát triển được nền kinh tế như ngày nay là
do sự phối hợp kinh tế quốc tế. Còn các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển

thì sao? Ta có thể khăng định rằng dù quốc gia giàu hay nghèo cũng phải tham gia
vào hội nhập kinh tế quốc tế. Sở dĩ như vậy bởi vì các quốc gia nghèo có nền kinh tế
kém phát triển là do trình độ khoa học kỳ thuật lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp. Nên
các nước này càng càn tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế dể tiếp thu thêm dược
những thành tựu khoa học kỷ thuật của các nước phát triển, các nước đi trước, dồng
thời trao dối mua bán với các nước phát triển như xuất khẩu nhân công dư thừa, xuất
khẩu nguyên vật liệu và mua các thiết bị kỹ thuật máy móc hiện đại nhẩm nâng cao
trình dộ khoa học kỹ thuật trong nước, phát triển công nghiệp góp phần thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề, những
điêu kiện cho một trinh dộ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu hút vốn,
6


khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quàn lý kinh tế và mở rộng thị
trường được đầy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển. Với một nền kinh tế yếu kem, nếu không tranh thủ được
những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại dù là toàn cầu hoá đang do CNTB chi phối thì
chúng ta không thể xây dựng CNXH dược. Chi riêng vấn đề "học hỏi" CNTB đă là
một đề tài khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với viộc xây dựng CNXH ơ các
nước chậm phát triển. Như Lenin đà nói:"Chúng ta không hình dung một thứ chủ
nghĩa xã hội nào khác hơn là CNXỈI dựa trên cơ sơ những bài học mà nền văn minh
hơn của CNTB đã thu được”.
1.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật
của kinh tế thế giới hiện nay. Thế giới đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của
cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học. Làm
tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân
phối, tiêu dùng thúc đẩy quá trình quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế, cũng như quá
trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đây

chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay các định chế và tổ chức
kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành đề phục vụ cho quá trinh
hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp luật chung vả để các nước cùng tham
gia vào quá trình giái quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc

7


gia nào có thể thực hiện một cách đơn lé. Đặc điểm cơ bán của hội nhập kinh tế quốc
tế trên thế giới hiện nay thể hiện qua một số xu hướng chính như sau:
- Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương.
- Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
- Thương mại dịch vụ dóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới.
- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cán thương mại hiện dại
2. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế
2.1. Khái niệm về nền kinh tề dộc lụp tự chú
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối canh toàn cầu hoá có thể được hiểu là
nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến dộng của tình hình quốc tế và
trong bất cử tinh huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì các hành dộng binh
thường cùa xã hội vá phục vụ dắc lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Đó là nền kinh tế phải có cơ cấu kinh tế họp lý, hiệu quá và đảm bảo độ an
toàn cần thiết, có tốc độ phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh cao, cơ cấu xuất
nhập khẩu cơ bản cân đối, cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tý lệ các mặt
hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế, cơ cấu thị trường quốc tế; đối
tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu; đám bảo nền
tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân thanh toán và có
nguồn dự trữ quốc gia mạnh.

8



Như vậy nền kinh tế dộc lặp tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc
vào các nước khác, người khác hoặc một tồ chức kinh tế nào đó về đường lối chính
sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương
mại, viện trợ để áp đặt khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản
của dân tộc. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động cùa thị
trường, trước sự khúng hoảng cúa nền kinh tế tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả năng
cơ bản duy trì sự ổn dịnh và phát triển trước sự bao vây, cô lập và chống phá cùa các
thế lực thù địch, nên vẫn có khá năng đứng vững không bị sụp đồ, không bị rối loạn.
Trong thời dại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không còn dược hiếu dó là
một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ biện chứng
với mở cửa, hội nhập, chủ dộng tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế
trên cơ sơ phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Điều nảy có nghĩa
là độc lập tự chủ về kinh tế cũng dồng thời hội nhập được vào nền kinh tế quốc tế.
2.2.2. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh
tế quốc tế
Nếu như chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế mà không có xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ thì quốc gia đó có phát triển bền vững được không? Câu trả lời ở đây là
không. Qua những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước châu Á rút ra sau khi
bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề năm 1997-1998, là sự phụ
thuộc của nền kinh tế về vốn, công nghệ, thị trường nước ngoài và sự đầu cơ trục lợi
của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và các luồng vốn ngắn
9


hạn. Các nền kinh tế này vượt qua được giai đoạn khó khăn, nhanh chóng phục hồi
một phần rất quan trọng, theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế nước ngoài là do
nền kinh tế Mỹ mấy năm qua có sự tăng trưởng khá.
Theo tổng kết của UNDP (tổ chức hỗ trợ phát triển của liên hiệp quốc) cho rằng

“từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoá đến nay trên thế giới có 10 nước giàu lên,
nhưng có 180 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình quân đầu người thấp họ
trước khi tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nước vay nợ để phát triển cho thấy
chưa đến 10% số nước có khả năng trả được bợ, số còn lại trở thành con nợ lưu cữu”.
Qua những số liệu tổng kết ở trên chúng ta thấy rằng nếu một quốc gia không tự mình
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mà chỉ phụ thuộc vào các phe phái mạnh hơn
hoặc phụ thuộc vào một nước lớn hơn sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng làm cho nền
kinh tế của quốc gia đó luôn chịu sự ảnh hưởng đối với từng biến động của nền kinh
tế quốc gia khác và sẽ không tự mình đứng dậy được khi có sự biến kinh tế xảy ra.
Như vậy nền kinh tế của quốc gia đó sẽ luôn lạc hậu và chậm tiến. Đó chính là lý do
vì sao trong quá trình hội nhập kinh tế phải gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ.
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có mối
quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ và tác động lẫn nhau cùng đi đến mục đích cuối
cùng là tạo ra sự phát triển nền kinh tế của quốc gia đó. Đồng thời giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế còn là mối quan hệ bên trong và
bên ngoài. Mối quan hệ bên trong là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và mối quan
10


hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc tế. Và cả hai mối quan hệ này đều tác động trực
tiếp đến sự phát triển đất nước trong đó xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là yếu tố
quyết định đến vận mệnh của đất nước còn hội nhập kinh tế quốc tế là nhân tố thúc
đẩy, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Bởi chỉ có xây dựng được một
nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động
hội nhập đúng hướng và hiệu quả kinh tế quốc tế và ngược lại, chỉ có chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ xung sức mạnh nội lực còn khiếm
khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện
mình để giữ vững hơn nữa độc lập tự chủ. Hơn nữa, muốn chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế một cách đúng đắn và mạnh mẽ không thể không bắt đầu từ nền tảng sức

mạnh tổng thể của một nền kinh tế độc lập tự chủ. Nếu vấn đề thứ nhất là tiền đề là
điều kiện đảm bảo cho vấn đề thứ hai thì đến lượt nó, vấn đề thứ hai lại là hệ quả, là
động lực, là môi trường phát triển mới của vấn đề thứ nhất. Đó là một quá trình biện
chứng.
Vấn đề dặt ra ở đây là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế?
Ở đây xây dựng “độc lập, tự chủ” không có nghĩa là tự biệt lập hoặc cô lập mình
mà phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực “mở cửa” không có nghĩa là “ngó
cửa”, “hội nhập” không phải là “hoà tan”. Phải nắm bắt được khả năng nội lực của
quốc gia để linh hoạt trong hợp tác đối ngoại kinh tế.

11


Như đã nói ở trên xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế lớn
của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế từ vài thập niên trở lại đây. Xu hướng
này lôi cuốn nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa thúc
đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Do vậy, để hội nhập mà không hoà tan rất
cần sự tỉnh táo nhìn nhận trong thực tế tự do hoá thương mại một số nước giàu lên
trong khi một số nước khác nghèo hẳn đi. Ngay trong từng nước sự tự do thương mại
cũng có lợi cho tầng lớp này, nhưng lại có hại cho tầng lớp khác. Cụ thể như Mỹ và
Liên minh châu Âu (EU), tuy tự do hoá thương mại nhưng vẫn duy trì chính sách bảo
hộ hàng nông sản - thể mạnh chủ lực của các nước kém phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng . Hoặc như vụ kiện cá ba sa của Việt Nam, về thực chất chính là để
bảo vệ những ngành kinh tế không còn đủ sức cạnh tranh. Điều này liệu có công bằng
: trên thực tế chính phủ các nước, dưới áp lực của cử tri bỏ phiếu cho mình không thể
nào đồng ý những điều khoản thương mại có thể gây hại cho một bộ phận, một ngành
kinh tế của họ.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế hiện nay, các nước giàu đã thành
công trong việc thiết lập “cuộc chơi” tự do hoá thương mại với những luật chơi do họ

đặt ra. Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã thành công trong việc buộc các nước khác gỡ bỏ
những rào cản để hàng công nghiệp và dịch vụ của mình tràn vào các nước này.
Ngược lại họ cũng lại thành công trong việc duy trì mức thuế cao đánh vào hàng
nông sản nhập khẩu đơn giản là vì luật chơi trong tay ké mạnh.

12


Nói như vậy, không có nghĩa là sân chơi không “đẹp” thì không chơi mà việc
tham dự một cách tích cực vào sân chơi này là chuyện tất yếu và không thể phủ nhận,
vì bên cạnh những mặt chưa được vẫn còn rất nhiều mặt được và vấn đề là tận dụng
các cơ hội này như thế nào? Về thực chất hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp nội
lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm bảo
vệ lợi ích của dân tộc, phát triển kinh tế đất nước.
3. Sự vận dụng nguyên lí về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của Đảng và
Nhà nước ta trong việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1.

Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Những thành tựu cơ bản mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua khi
tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn lao. Đất nước ta thoát ra khỏi tình trạng
bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho
công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và
thương trường thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã ký kết, thực thi, và đang đàm phán
tổng cộng khoảng 16 các hiệp định thương mại tự do (FTA),, thiết lập quan hệ với các
tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là thành viên của ASEAN, ASEM , APEC... Theo
thống kê mới nhất hiện nay, GDP của nước ta trong cả năm 2017 đã tăng 6,81% so
với năm trước đó và cao nhất trong 6 năm trở lại đây. Hạ tầng cơ sở được cải thiện rõ
rệt. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo định hướng tăng

dần tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp
13


trong cơ cấu thu nhập quốc dân. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo
hướng hình thành các vùng trong điểm , các khu xuất nhập khẩu tập trung, các khu
chế xuất, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang môi trường cạnh tranh lấy mục đích và
hiệu quả kinh tế xã hội làm cơ sở,
Sang môi trường cạnh tranh hay mục đích và hiệu quả kinh tế xã hội làm cơ sở,
thay đổi thói quen trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước của các doanh nghiệp. Mở
rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tạo
thêm việc làm, tăng thu ngân sách. Tính đến cuối năm 2017, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu ước tính đạt 213,77 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm trước, đây là mức tăng
cao nhất trong nhiều năm qua, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 58,53 tỷ USD,
tăng 16,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 155,24 tỷ USD,
tăng 23%. Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2017 ước tính đạt 211,1 tỷ USD, tăng
20,8% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 84,7 tỷ USD, tăng
17%;khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 126,4 tỷ USD, tăng 23,4%. Bên cạnh đó
nước ta còn thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Theo
báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, tính chung 12 tháng năm 2017, vốn FDI vào
Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD- mức cao nhất từ năm 2009. Tranh thủ được kỹ thuật tiên
tiến và khoa học quản lý mới.Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính
thức(ODA) ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài.
Tuy nhiên bên cạnh đó nước ta còn tồn tại không ít khó khăn hạn chế đó là năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô chưa tạo
14


được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh
nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mô nhỏ, ít vốn. Đa phần các doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả kinh tế và
có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Hệ thống chính sách, cơ chế quan
lý của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Môi trường kinh doanh vẫn còn một số bất cập về
khuôn khổ pháp lý và thể chế, cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Thể chế kinh
tế thị trường chưa hoàn thiện thể hiện ở sự thiếu đồng bộ của các yếu tố như thị
trường tiền tệ, thị trường đất đai, thị trường lao động, khoa học công nghệ... các cơ sở
pháp lý đảm bảo cạnh tranh chậm được ban hành và sửa đổi. Bên cạnh đó việc thực
thi pháp luật còn rất hạn chế. Những chủ trương chính sách đúng đắn của đảng và
chính phủ ban hành chưa được thực hiện triệt để. Bộ máy điều hành ở một số bộ và
địa phương còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
3.2. Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi bật
của kinh tế thế giới, tạo ra sức ép buộc chúng ta phải chấp nhận “cuộc chơi” nếu
không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì Việt Nam có nguy cơ bị
tụt hậu và chịu thua thiệt của người đi sau. Hội nhập kinh tế hiện luôn có hai mặt,
trước hết hội nhập kinh tế khiến các nước phải mở cửa thị trường về thương mại hàng
hoá, làm giảm những khác biệt thông qua việc tiến tới bãi bỏ hàng rào và biện pháp
phi thuế quan mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư.
15


Với việc tham gia vào quá trình này chúng ta sẽ có cơ hội mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhất là
tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời
giảm đáng kể nợ nước ngoài, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý,
đào tạo được một đội ngũ cán bộ năng lực để tham gia hội nhập. Nhưng quan trọng
hơn cả là thực hiện được chủ trương chuyển toàn bộ nền kinh tế kế hoạch sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt tất cả doanh nghiệp vào môi
trường cạnh tranh, lấy hiệu quả là mục tiêu của doanh nghiệp, xoá bỏ tư tưởng bao

cấp trông chờ vào sự trợ giúp và bảo hộ của Nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế
cũng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn, nhất là từ phía Trung Quốc, Ấn Độ, và phần
lớn là các nước ASEAN, vốn là những nước sản xuất mang tính cạnh tranh với nước
ta và có nhiều ưu thế hơn ta, thậm chí ngay cả trong những ngành hàng xuất khẩu chủ
lực của ta hiện nay như nông sản, thuỷ sản, may mặc, giày dép, Trong thu hút FDI
chúng ta cũng vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ sẽ giảm FDI nước ta
nếu chúng ta không có những chính sách và biện pháp cải thiện môi trường đầu tư
mạnh mẽ làm tăng tính hấp dẫn hơn hẳn so với các nước trong khu vực.
3.3. Đường lối đổi mới và chủ chương của Đảng và Nhà nước trong tiến trình
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
Trước những biến đổi của tình hình thế giới, xu thế tất yếu của quốc tế hội nhập
quốc tế , Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, quan điểm, nguyên tắc về chính sách
16


đối ngoại của đất nước, nhằm có thêm bạn bè, tạo thêm thế mạnh, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ cho sự phát triển kinh tế. Với nhận thức như vậy Đảng ta đã đưa ra quan
điểm: thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế, mở rộng hợp tác, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng
độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Đại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì độc lập hoà bình và phát triển”. Đây là
bước mở đầu cho quốc tế hội nhập, quyết đ.ịnh sáng suốt có tính bước ngoặt về chính
sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
Để phát triển kinh tế , đảng ta chỉ rõ phải tận dụng tối đa ngoại lực, trên cơ sở
dựa vào sức mình là chính. Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng hợp tác quốc
tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào sức mình là chính, đi đôi
với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập khu
vực và thế giới hướng mạnh vào xuất khẩu.

Cũng trong văn kiện đại hội IX, chính sách đối ngoại của đảng từng bước được
bổ xung hoàn thiện hơn. Đảng ta tiếp tục khẳng định “chủ động hội nhập kinh tế
tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định
hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc, bình đẳng cùng có lợi,
vừa có hợp tác, vừa đấu tranh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối
ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch”.

17


Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta đã khẳng định phương châm
đối ngoại “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Đây là một luận điểm mới, có ý nghĩa định
hướng, chỉ đạo quá trình hội nhập quốc tế của đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội : kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
Khẳng định: “hội nhập là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh” là kết quả sự đổi mới
tư duy, sự phân tích sâu sắc tình hình thế giới, khu vực và của đất nước dựa trên sự
kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh
nghiệm thực tiễn lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt là trong thời
kỳ đổi mới. Vì vậy, quan điểm “vừa hợp tác vừa đấu tranh” trong quá trình hội nhập
quốc tế mà Đại hội XII đưa ra cần phải được nghiên cứu, quán triệt một cách sâu sắc,
vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.

18


KẾT LUẬN
Trên cơ sở vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta đã tìm hiểu một
cách khá sâu sắc và toàn diện về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ. Phân tích mối liên hệ này, chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa

xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có mối
quan hệ biện chứng. Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta
mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu quả.
Và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ
sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hút, rút ngắn con đường phát
triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững nền độc lập dân tộc.
Trong xây dựng kinh tế độc lập - tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, nước Việt
Nam ta đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào bên cạnh đó là những khó khăn,
thách thức đặt ra cho toàn đảng, toàn dân ta. Trong thời gian tới, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ở nước ta được nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam
kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc
lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Chúng ta phải kết hợp song song giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế để xây dựng độc lập tự chủ ngày càng vững mạnh, đảm bảo
thành công cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướ, thực hiện mục tiêu

19


dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ, vững bước đi lêncChủ
nghĩa xã hội.
Trong quá trình làm bài tiểu luận này, em còn gặp phải nhiều sai sót, em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy giáo để bài tiểu luận của em được
hàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình “ Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin” (dành cho sinh


2.

viên đại học, cao đẳng khối ngành không chuyên) , NXB Chính trị Quốc gia, 2017
Bộ giáo dục và đào tạo (2004), Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB chính trị quốc

3.

gia.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế
/>
4.

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Vài đánh giá và trao đổi
/>
20


5.

Đại hội XII của Đảng và những điểm mới về chính sách đối ngoại, hội nhập kinh
tế:
/>
34736.html
6.

Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2017
/>
21




×