Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

QUY LUẬT GIÁ TRỊ, tác ĐỘNG và VAI TRÒ của QUY LUẬT GIÁ TRỊ đối với nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.21 KB, 16 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, sự vận động và phát triển không
ngừng về mọi lĩnh vực như: Khoa học – kỹ thuật, kinh tế, thương mại, sự
giao lưu hợp tác giữa các nước trong khu vực và quốc tế hay nền kinh tế thị
trường,… ngày càng được quan tâm.
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như:
quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật
cạnh tranh… Nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa
thuộc về quy luật giá trị.
Đối với nền kinh tế thị trường, quy luật giá trị là một quy luật rất
quan trọng. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự xuất hiện
của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất
và lưu thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Quy luật giá
trị là nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kì, phân hóa
giàu nghèo,…
Đối với đất nước Việt Nam, một đất nước còn gặp rất nhiều khó khăn
về kinh tế như: Trình độ Khoa học – Kỹ thuật còn chưa phát triển, nghèo
nàn, lạc hậu,… Để có thể vươn lên đạt trình độ phát triển ngang hàng với
các quốc gia khác, Việt Nam cần phải tìm cho mình con đường phát triển
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong nước, vừa đảm bảo xu thế phát
triển chung của thế giới.
Do đó, việc áp dụng quy luật giá trị vào trong sự phát triển của nền
kinh tế đối với nước ta rất quan trọng và cần thiết. Chúng ta cần nghiên cứu
về quy luật giá trị, tìm hiểu vai trò và tác động của nó tới nền kinh tế, nhất
là trong thời kì phát triển ngày nay.

1


Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài: “Quy luật giá trị, tác động
và vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị trường”


PHẦN NỘI DUNG
I. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
1. Khái niệm
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát
huy tác dụng của quy luật giá trị
2. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Cụ thể là:
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết. Vì trong nền sản xuất hàng hóa, vấn đề đặc biệt quan
trọng là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không. Trong kinh tế hàng
hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá biệt của mình,
nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao phí lao
động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động xã
hội cần thiết. Vì vậy muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có
lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của
mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được. Mức hao phí
càng thấp thì họ càng có khả năng phát triển kinh doanh, thu được nhiều lợi
nhuận, ngược lại sẽ bị thua lỗ, phá sản,…
Trong lưu thông hay trao đổi hàng hóa cũng phải dựa trên cơ sở hao phí
lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi phải theo quy tắc ngang giá.
Hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau nhưng có lượng giá trị bằng
nhau thì phải trao đổi ngang nhau.

2


Đòi hỏi trên quy luật là khách quan, đảm bảo sự công bằng, hợp lí, bình
đẳng giữa những người sản xuất hàng hóa.

Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng
hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá
trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì
giá cả của nó sẽ cao và ngược lại.
Quy luật giá trị bắt buộc những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
tuân theo yêu cầu hay đòi hỏi của nó thông qua “mệnh lệnh” của giá cả thị
trường. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào nhiều nhân
tố khác như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của
các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị
và xoay quanh trục giá trị của nó.
Nhưng sự tách rời đó chỉ xoay quanh giá trị C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của
quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này, giá trị hàng hóa là trục, giá cả thị trường
lên xuống quanh trục đó. Đối với mỗi hàng hóa, giá cả của nó có thể lên
xuống cao thấp khác nhau, nhưng khi xét trong một khoảng thời gian nhất
định, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị
trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt
động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà
quy luật giá trị phát huy tác dụng.
3. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị
hàng hóa
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản thành quy luật giá cả sản xuất (giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền (giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền). Nó tiếp tục tồn tại và hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hộỉ các nước xã hội chủ nghĩa ở các nước và ở nước ta.
3


Ta xét mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền với
giá trị hàng hoá:

Giá cả: là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá trị: là cơ sở của
giá cả. Khi quan hệ cung cầu cân bằng, giá cả hàng hoá cao hay thấp là ở
giá trị của hàng hoá quyết định.
Trong diều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuống
xoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của
đồng tiền. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của
giá cả trên thị trường. Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá
trị, mặc dầu nó thường xuyên tách rời giá trị. Điều đó có thể hiểu theo hai
mặt:
Không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách rời giá trị
xã hội.
Nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài thì
thấy tổng số giá cả bằng tổng số giá trị, vì bộ phận vượt quá giá trị sẽ bù
vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị trường. Gía cả
thị trường là giá cả sản xuấtgiữa người mua và người bán thoả thuận với
nhau).
Giá cả sản xuất là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản
xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân nên hàng hoá không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất.
Giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận
quy luật giá trị mà chỉ là biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai
đoạn tư bản tự do cạnh tranh. Qua hai điểm dưới đây sẽ thấy rõ điều đó:

4


Tuy giá cả sản xuất của hàng hoá thuộc nghành cá biệt có thể cao
hơn hoặc thấp hơn giá trị, nhưng tổng giá trị sản xuất của toàn bộ hàng hoá
của tất cả các ngành trong toàn xã hội đều bằng tổng giá trị của nó. Tổng số

lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được cũng bằng tổng số giá trị thặng dư do
giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Giá cả sản xuất lệ thuộc trực tiếp vào giá trị. Gía trị hàng hoá giảm
xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá cả
sản xuất tăng lên.
Giá cả độc quyền:
Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả
hàng hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Gía cả độc quyền bằng chi phí
sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi
nhuận bình quân.
Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả
sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư
bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc
quyền.
Giá cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá, nghĩa là
giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị
thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị
chính là phần giá trị mà những người bán (công nhân, người sản xuất nhỏ,
tư bản vừa và nhỏ…) mất đi. Nhìn vào phạm vi toàn xã hội, toàn bộ giá cả
độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị.
II. Tác động và vai trò của quy luật giá trị đối với nền kinh tế thị
trường
1. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh
tranh và trong điều kiện độc quyền
1.1. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện cạnh tranh
5


Tự do cạnh tranh là tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành
khác, tức là tự phát phân phối tư bản (C và v) vào các ngành sản xuất khác

nhau nên hình thành tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Trong cạnh tranh có sự
ganh đua đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa
những người sản xuất với những người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ nhằm
dành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có
sự khác nhau về điều kiện sản xuất nên chi phí lao động cá biệt của người
sản xuất hàng hóa có sự khác nhau để dành được các điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm luôn biến động nên cạnh tranh diễn ra
liên tục. Do đó trong tự do cạnh tranh quy luật giá trị được biểu hiên thành
quy luật giá cả sản xuất.
1.2.

Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền
Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không

vượt ra khỏi quy luật giá trị của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở
rộng, phát triển những xu hướng sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của
nền sản xuất hàng hóa nói chung, làm cho các quy luật của nền sản xuất
hàng hóa và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới:
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đó áp đặt
giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi
bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền
vẫn không thoát ly và phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc
quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là chiếm đoạt một
phần giá trị của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống
kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Như
vậy trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, quy luật giá trị biểu hiện thành quy
luật giá cả độc quyền.

6



Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền.
Giá cả độc quyền thường cao hơn giá trị của hàng hóa. Do nắm được vai
trò độc quyền trong một ngành sản xuất nhất định nên tập đoàn có thể tự ý
quyết định giá bán trên thị trường, nhờ đó mà thi được lợi nhuận độc
quyền. Lợi nhuận độc quyền bằng lợi nhuận bình quân cộng với một số lợi
nhuận khác do địa vị thống trị của các tập đoàn độc quyền. Cơ chế thị
trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân đều có những mặt tích
cực và tiêu cực. Khi trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất đó vượt
khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thì tất
yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự điều tiết của Nhà nước, Cơ chế điều
tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sử dụng hợp cả ba
cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của Nhà nước nhằm phát
huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong cơ chế.
2. Tác động của quy luật giá trị
2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông
qua sự biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy
luật cung cầu. Nếu ở ngành nào đó khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa
sẽ lên cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ
xô vào ngành ấy. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động được dịch chuyển
vào ngành ấy tăng lên. Ngược lại, khi cung ở ngành nào đó vượt quá cầu,
giá cả hàng hóa giảm xuống, hàng hóa bán không chạy và có thể bị lỗ vốn.
Tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản xuất lại hoặc
chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hóa cao.
Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua giá cả trên thị
trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng


7


hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng
hóa thông suốt.
Như vậy sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự
biến động về kinh tế mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
2.2.

Kích thích cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ

thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của
mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ
hơn hao phí lao động xã hội của hàng hóa ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao.
Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và
tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của
mình, sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải
luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm
chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy
quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng
sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.
2.3.

Thực hiện lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo


Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những
người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị
kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã
hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không

8


có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh
nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
Những tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt quy luật giá trị chi phối
sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực
phát triển, mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự
bất bình đẳng trong xã hội.
III.

Thực trạng nền kinh tế nước ta và các giải pháp nhằm phát triển

kinh tế thị trường
1. Thực trạng nền kinh tế nước ta
Trong bối cảnh phức tạp của môi trường toàn cầu, kinh tế Việt Nam tiếp
tục bộc lộ những dấu hiệu cho thấy tính dễ bị tổn thương trước các cú sốc.
Không một nền kinh tế nào có thể coi là hoàn thiện, là phát triển tuyệt đối
dù cho đó có là nền kinh tế đi đầu thế giới. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại hai
mặt, cả mặt tốt và mặt trái, những mặt còn chưa tốt, hạn chế cần phải khắc
phục. Việc áp dụng các quy luật kinh tế vào việc vận hành và quản lí nền
kinh tế của một quốc gia ngoài những thuận lợi mà nó mang lại cũng tiềm
ẩn rất nhiều nguy cơ đổ vỡ nền kinh tế do vận dụng không đúng cách,

không đúng yêu cầu thực tế. Đó là một trong những vấn đề nan giải của rất
nhiều quốc gia trong đó có cả Việt Nam. Vậy chúng ta đang có một nền
kinh tế như thế nào và cần phải làm gì để phát triển kinh tế còn yếu kém đi
lên.
Thứ nhất, trong bối cảnh hiện nay, vốn đầu tư công luôn là động lực
quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế, là bộ phận không thể thiếu của
tổng cầu xã hội và góp phần gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế trong
việc xác lập, phát triển cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội quốc gia…
Thời gian qua, tổng vốn đầu tư của toàn xã hội liên tục tăng mạnh, với tỷ lệ
tăng bình quân là 12.7%/năm. Trong đó, vốn đầu tư công luôn chiếm tỷ
9


trọng lớn, bình quân là 40% và tăng trưởng nhanh, tỷ lệ tăng bình quân là
12%/năm. Bên cạnh những thành công đóng góp tích cực vào quá trình
phát triển đất nước thì việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công của Việt Nam
vẫn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là hiệu quả đầu tư còn thấp. Một số chương
trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công chưa đạt hiệu quả cao như mong đợi,
đã làm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm sút và ảnh hưởng nặng nề đến
nền kinh tế.
Thứ hai, về cơ sở hạ tầng của đất nước. Theo Bloomberg, trong vài
năm qua, trung bình mỗi năm Việt Nam chi 5,7% GDP cho cơ sở hạ tầng,
cao nhất Đông Nam Á, đứng sau mỗi Trung Quốc (6,8%). Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn cần tới 480 tỷ USD để có cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu
phát triển. Hãng Bloomberg cho biết, nếu Việt Nam muốn trở thành con hổ
tiếp theo của châu Á, với điều kiện nhân công giá rẻ như hiện nay là chưa
đủ, Việt Nam cần có cơ sở hạ tầng đủ tốt, thỏa mãn được các điều kiện của
các công ty nước ngoài mới mong lôi kéo các công ty này đầu tư vào Việt
Nam. Hiện tại, với việc mỗi năm chi 5,7% GDP cho cơ sở hạ tầng, hiện hạ
tầng của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như hệ thống

giao thông phát triển khá rộng khắp, các sân bay và đường cao tốc được
xây dựng trên khắp đất nước. Những cố gắng này của Việt Nam đã đạt
được những thành tích đáng kể: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam năm 2016 đã đạt mức kỷ lục 15,8 tỷ USD. World Bank (WB) cũng dự
báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng hơn 6% cho đến năm 2019, nằm
trong nhóm tăng trưởng nhanh nhất thập kỷ này. Tuy nhiên, từng đấy vẫn là
chưa đủ, nếu Việt Nam muốn thu hút nhiều hơn nữa vốn FDI để thực hiện
giấc mơ "con hổ châu Á" thì Việt Nam sẽ cần cần tới 480 tỷ USD từ nay
đến năm 2020 cho đầu tư cơ sở hạ tầng, bao gồm 11 nhà máy điện với tổng
công suất 13.200 MW và 1.380 km đường cao tốc. Nhưng theo một số
nguồn báo cáo, nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam chỉ có thể đủ để
10


chi trả cho 1/3 nhu cầu tài chính xây dựng cơ sở hạ tầng. Điều này thể hiện
rõ qua chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Bộ Giao thông
Vận tải đẩy nhanh kế hoạch thu hút đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên nói
chung về cơ sở hạ tầng của Việt Nam so với các nước trong khu vực và thế
giới vẫn còn chậm phát triển. Hệ thống giao thông không thuận lợi, kém
phát triển, hiện tượng ùn tắc giao thông còn diễn ra tại các thành phố lớn,
phương tiện công cộng chưa được chú trọng, quan tâm. Chính sách đầu tư
cho phát triển cơ sở hạ tầng còn chưa được quan tâm thích đáng. Các
nguồn tài nguyên thiên nhiên bị lãng phí hoặc bỏ quên còn nhiều. Những
điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, là con người. Trình độ văn hóa của con người còn thấp kém.
Tuy đã sử dụng các giải pháp để nâng cao trình độ văn hóa nhưng nhìn
chung vẫn còn nhiều khó khăn. Khả năng ứng dụng máy móc, trang thiết bị
hiện đại trong phát triển sản xuất chưa đã được cải thiện. Nhưng những
người có tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực lượng lao động của
đất nước. Hiện tượng tham ô, tham nhũng còn nhiều dẫn đến nợ ODA vẫn

kéo dài, chưa được giải quyết. Tất cả những yếu tố trên đã góp một phần
không nhỏ vào việc kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ tư, là vấn đề kĩ thuật, khoa học – công nghệ. Khoa học – công
nghệ đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Đã áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến:
viễn thám, địa vật lý… vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên
nhiên. Nhiều kết quả nghiên cứu môi trường được đánh giá cao: nghiên cứu
chính sánh và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và
xử lý ô nhiễm nước, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành
phố lớn… các biện pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất… Cũng
có một số phát minh mới về khoa học – công nghệ đạt được những thành
tựu cao. Tuy nhiên trình độ khoa học và công nghệ quốc gia còn tụt hậu xa
11


so với thế giới, kể cả với một số nhóm nước đầu trong khu vực Đông Nam
Á,… Nguyên nhân cơ bản là do Nhà nước không có chính sách đầu tư thích
đáng cho nghiên cứu, ứng dụng triển khai các thành tựu khoa học kĩ thuật
mới.
Thứ năm, là cơ cấu kinh tế. Tuy nền kinh tế nước ta đang vận hành theo
cơ chế thị trường nhưng cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn chưa chặt chẽ, hợp
lý, vẫn còn nhiều khe hở lớn, cơ cấu ngành nghề còn nhiều điều bất cập.
Ccác vùng kinh tế chưa được chú ý phát triển đồng đều, chỉ tập trung tại
một số thành phố lớn. Do đó sự phát triển của nền kinh tế quốc dân vẫn
đang bị kìm hãm.
Thứ sáu, là mức tăng trưởng dân số. Trong năm 2017, dân số của Việt
Nam dự kiến sẽ tăng 1.064.323 người và đạt 96.093.205 người vào đầu
năm 2018. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là dương, vì số lượng sinh
sẽ nhiều hơn số người chết đến 1.106.136 người. Nếu tình trạng di cư vẫn ở
mức độ như năm trước, dân số sẽ giảm 41.813 người. Điều đó có nghĩa là

số người chuyển đến Việt Nam để định cư sẽ ít hơn so với số người rời
khỏi đất nước này để định cư ở một nước khác. Theo ước tính, tỷ lệ thay
đổi dân số hàng ngày của Việt Nam vào năm 2017 sẽ như sau: 4.533 trẻ em
được sinh ra trung bình mỗi ngày; 1.502 người chết trung bình mỗi ngày;
-115 người di cư trung bình mỗi ngày. Dân số Việt Nam sẽ tăng trung bình
2.916 người mỗi ngày trong năm 2017. Nhìn chung, tỷ lệ tăng dân số hiện
nay vẫn còn cao. Nó đồng nghĩa với việc số lao động ngày càng gia tăng
trong khi việc làm ngày càng ít do sự phát triển của khoa học – công nghệ.
Chính những người thất nghiệp này là nguy cơ dẫn đến sự gia tăng của tệ
nạn xã hội, an ninh không được đảm bảo.
Cuối cùng là thể chế chính trị và quản lý của Nhà nước. Đây cũng là
nhân tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong phát triển kinh tế của
đất nước. Tuy rằng nước ta có một thể chế chính trị ổn định và tiến bộ
12


nhưng khả năng định hướng cho sự phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế, lý
do chính là sự điều tiết hướng phát triển của nền kinh tes còn chưa phù hợp,
gây ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, nạn thất nghiệp ngày càng
gia tăng,…
2. Giải pháp nhằm phát triển kinh tế thị trường
2.1. Những giải pháp của đảng và nhà nước ta
Để phát huy các tác động tích cực, đẩy lùi các tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường cần nâng cao vai trò quản lý của nhà nước thông qua quy
hoạch, kế hoạch, công cụ tài chính; qua các phương thức kích thích, giáo
dục, thuyết phục và cả cưỡng chế nữa. Chủ trương của Đảng ta trong thời
gian tới là:
Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là trung tâm. Đây là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước ta. Phát triển kinh tế,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từ đó tạo đà để thực hiện những nhiệm vụ

khác, đưa nước ta nhanh chóng phát triển, tiến theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tạo điều kiện cho các
thành phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thi trường, tăng cường
vai trò quản lý kinh tế của nhà nước. Đây là một yêu cầu cấp thiết, là điều
kiện cơ bản để xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đây là nhiệm vụ nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế
nước ta.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ
13


và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
2.2.

Những giải pháp của bản thân
Giải phóng lực lượng sản xuất, huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy

nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước bằng các công cụ, chính sách kinh tế
vĩ mô để dẫn dắt, hướng dẫn cho hệ thống thị trường phát triển, nhànước có
vai trò quan trọng trong quá trình phân phối đảm bảo công bằng, hiệu quả,
hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước cần chú ý hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở nước
ta. Ở nước ta một số loại thị trường thì phát triển nhanh chóng, phát huy

được hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, trong khi đó một số loại thị
trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một cách đầy đủ và bị biến dạng.
Vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy một số thị trường còn
đang dang dở, bỏ không.
Việc vận dụng quy luật giá trị trong định giá giả cả phải có giới hạn, có
căn cứ kỉnh tế rõ ràng. Như vậy mới có tác dụng trong việc phát triển sản
xuất.
Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải xuất phát từ nhiều quy
luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị
từng thời kì.

14


PHẦN KẾT LUẬN
Quy luật giá trị là một quy luật rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có sự
hoạt động của quy luật giá trị. Đặc biệt là trong thời buổi phát triển hiện
nay, việc vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế hiện nay là một điều hết
sức quan trọng và cần thiết. Chúng ta cần phải thật linh hoạt trong từng vấn
đề, từng lĩnh vực của sự phát triển kinh tế. Đứng trước xu thế phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì Việt Nam cũng đang trong quá trình
hội nhập, vận dụng những tiến bộ, áp dụng các quy luật kinh tế để đưa đất
nước đi lên, sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tiểu luận này em trình bày ra để làm rõ sự tác động của quy luật giá trị
trong sự phát triển kinh tế, để từ đó có thể tìm ra những giải pháp khắc
phục những hạn chế và khó khăn trong quá trình vận dụng quy luật giá trị.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ giáo dục và đào tạo – Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2016,
trang 214, 215, 216, 217.
Tạp chí tài chính: />Báo mới: />Báo dân trí: /> />
16



×