Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận môn đường lối đề tài xây dựng và phát triển nền văn hóa việt nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kì hội nhập (1986 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.28 KB, 16 trang )

1. Tổng quan về văn hóa, nền văn hóa Việt Nam, nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc
Nhắc đến văn hóa ta có thể bắt gặp rất nhiều khái niệm, cách định nghĩa
khác nhau:
Theo UNESCO: ‘Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt
động sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính
lịch sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có
tính nhân văn phổ quát, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc
riêng của từng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Vậy thì, thế nào là bản sắc văn hóa? Đó là những nét đặc trưng về văn hóa,
đời sống, xã hội . . . của một quốc gia do quá trình phát triển và lịch sử tạo ra. Vì
là nét đặc trưng nên bản sắc văn hóa là riêng biệt, không trùng lặp và được bảo
tồn qua các giai đoạn phát triển của xã hội. Đất nước Việt Nam ta có 54 dân tộc
anh em với những bản sắc văn hóa tuy riêng biệt nhưng cũng rất hài hòa, đồng
nhất Bản sắc đó còn được thể hiện trong những trang sử vẻ vang của dân tộc,
như dù cho bị phong kiến phương Bắc đô hộ 1000 năm, dân tộc ta vẫn không bị
đồng hóa, và trong thế giới hiện đại ngày nay, khi mà tất cả người dân Việt vẫn
luôn hướng về tổ tiên, ông bà, vẫn gìn giữ những thức quà giản dị nhưng thấm
đẫm tính dân tộc và những nét đẹp trong lối sống . . .
Một nền văn hóa tiên tiến là 1 nền văn hóa tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu
nước. Sự tiên tiến đỏ không chỉ về nội dung tư tưởng và cả trong hình thức biểu


hiện trong phương tiện chuyển tải nội dung bản sắc dân tộc bao gồm cả những
giá trị văn hoá truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam, thể hiện sức sống
bên trong của dân tộc, đồng thời còn thể hiện đậm nét trong những hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
2. Thực trạng vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong quá trình hội
nhập hiện nay
1


2.1. Hội nhập quốc tế
Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt
Nam phải đối mặt trước những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng: Kinh
tế, văn hoá, chính trị, …
Từ năm 1986, Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng quan điểm về
văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới quan điểm giản dị nhưng sâu sắc: Văn
hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển
chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm
làm giàu đẹp cuộc sống. Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và đúc kết hệ giá
trị chung của con người Việt Nam đương đại, trong đó phải triển khai đồng thời
ba việc lớn: Bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống;
chăm lo nuôi dưỡng, khẳng định những giá trị mới đang hình thành; tỉnh táo chỉ
ra, khắc phục những hạn chế lịch sử, những thói hư tật xấu của con người.
Là một nước bị xâm lược, bị đô hộ suốt hàng chục thế kỷ, Việt Nam đã bị
chiếm đoạt, đã mất đi rất nhiều những giá trị văn hoá, cả văn hoá vật thể lẫn văn
hoá phi vật thể. Có một số trong số những giá trị còn lại đó hiện được lưu giữ ở
một vài nơi trên thế giới. Nhờ sự hội nhập với thế giới mà một số những giá trị
văn hoá từ lâu không còn tìm thấy ở trong nước đã được trở về hoặc ít ra đã
được xác định nơi đang lưu giữ chúng.
Vượt lên trên hết, hợp tác, hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá đã tạo cơ hội
và khả năng tiếp xúc, giao lưu; làm xích lại gần nhau và hiểu biết lẫn nhau giữa

các dân tộc, qua đó góp phần nâng cao dân trí và tự khẳng định mình trước cộng
đồng quốc tế. Nhiều giá trị văn hoá của Việt Nam có những nét tương đồng với
các giá trị văn hoá Đông Á. Đó là các giá trị ham học hỏi, cần cù, đề cao tính
cộng đồng, tôn trọng gia đình và huyết thống. Đối với người Việt Nam, cũng
giống như đối với các dân tộc khác, không thể không nói đến tinh thần yêu nước
với tính cách một giá trị ưu trội mà nếu thiếu nó thì đất nước chúng tôi đã bị
thôn tính từ rất lâu rồi.
Phải khách quan mà thừa nhận rằng, các giá trị mang tính truyền thống trên
đây về cơ bản vẫn đang được đa số người gìn giữ, tôn trọng và đề cao. Tuy
nhiên, không thể không thấy rằng, cùng với sự tiến triển của nền văn minh nhân
loại, của sự phát triển kinh tế thế giới, của toàn cầu hoá, cả các giá trị chung
mang tính toàn cầu lẫn các giá trị mang tính chất khu vực, các giá trị quốc gia
dân tộc mang tính truyền thống, v.v. đều chịu những biến đổi nhất định. Dễ dàng
nhận ra rằng, khi hội nhập quốc tế, các giá trị truyền thống không còn bị trói
chặt, không còn bị đóng khung trong biên giới quốc gia dân tộc. Do sức sống
mạnh mẽ của chúng mà trong quá trình này, cả các giá trị văn hoá vật thể lẫn các
giá trị văn hoá phi vật thể của một quốc gia có thể vẫn giữ được những nét độc
đáo, những nét riêng biệt. Tuy nhiên, các giá trị ấy khó tránh khỏi sự thương mại
hoá một khi mà việc trao đổi và quảng bá rộng rãi chúng nhằm mục đích thu hút
2


sự chú ý của cộng đồng quốc tế trở thành nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia
để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là các giá trị, nhất
là giá trị văn hoá, kể cả các giá trị văn hoá phi vật thể, một khi đã nằm trong quá
trình quảng bá mang tính thương mại thì khó giữ nguyên giá trị nguyên sơ, ban
đầu, thâm nghiêm của chúng.
Tất cả những giá trị truyền thống của Việt Nam nêu ở trên như tinh thần
yêu nước, tính hiếu học, sự cần cù, đề cao tính cộng đồng, tôn trọng gia đình và
huyết thống cùng với nhiều giá trị khác nữa, dưới tác động của sự hội nhập quốc

tế đều đã có những biến đổi và thực sự cũng đang chịu những thách thức. Sự hội
nhập với thế giới làm cho mọi người dễ dàng nhận ra trình độ của các dân tộc
khác, các nước khác, từ đó thấy được mình đang ở đâu, thấy rõ mình
đang tụt hậu như thế nào, để từ đó thấy cần phải làm gì để rửa nỗi nhục nghèo
đói và kém phát triển. Thế nên giá trị của tinh thần yêu nước sẽ được đo bằng sự
đóng góp thực tế cho công cuộc phát triển đất nước, rút ngắn khoảng cách với
các nước tiên tiến về kinh tế. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về mặt trí tuệ, khoa
học, công nghệ. Yêu cầu và cũng là thách thức đó khác hẳn với những yêu cầu ở
các giai đoạn lịch sử trước đây. Có vượt qua được thách thức này mới có hy
vọng rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các nước khác, mới tránh
được nguy cơ tụt hậu xa hơn, trước hết là về mặt kinh tế.
Tinh thần hiếu học với tính cách một giá trị tuy nhìn chung vẫn giữ được,
song cũng đã có những điều khác với trước. Với nhiều người, việc học để khám
phá, để làm người không quan trọng bằng để có địa vị trong xã hội, để có nhiều
tiền, chỉ cốt để sao cho có đời sống vật chất cao hơn. Không thể coi điều này là
không chính đáng. Cái đáng lo ngại chỉ là ở chỗ, phần nhân văn, phần khoan
dung, tức là những phần cốt cách tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam có nguy cơ
bị đặt ra ngoài lề của sự học. Trong xã hội nổi lên một lối suy nghĩ phản giá trị
của sự học rằng, “văn hay, chữ tốt không bằng dốt lắm tiền”. Sự gia tăng của chủ
nghĩa thực dụng cực đoan, của thói thiển cận đe doạ giết chết giá trị chân chính
của sự học. Không thể nói rằng, điều này không liên quan gì với việc giao lưu,
với việc tiếp thu không có chọn lọc các quan điểm và lối sống khác nhau của thế
giới trong quá trình hội nhập.
Tương tự như vậy, một giá trị khác là sự tôn trọng gia đình và huyết thống,
dòng tộc thể hiện qua nhiều mặt như tinh thần trách nhiệm, sự gương mẫu của
cha mẹ đối với con cái, hành vi kính trên nhường dưới, kính già yêu trẻ, con
cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, lòng chung thuỷ và tình nghĩa vợ chồng đã có
từ ngàn xưa ở người Việt Nam. Trong bộ ba - gia đình, làng, nước - thì gia đình
là cơ sở quan trọng của người Việt Nam, của xã hội Việt Nam. Dù có biết bao
biến cố xã hội dữ dội, nhưng theo nhiều nghiên cứu, sự bền vững của gia đình

vẫn được coi là một giá trị và gia đình vẫn được coi là trung tâm của mạng lưới
các quan hệ xã hội của Việt Nam.

3


Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy một điều là giá trị gia đình, độ bền vững của
gia đình, độ lớn của gia đình đang biến đổi khá nhanh dưới những tác động khác
nhau. Số các gia đình lớn có từ ba thế hệ trở lên cùng chung sống ngày càng ít đi
không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn. Độ bền vững của gia đình xét trong
quan hệ vợ chồng cũng đã có phần khác trước. Điển hình nhất ở Việt Nam trong
thời gian vừa qua là xu hướng lấy chồng người nước ngoài bất kể người định lấy
có đui, què, mẻ, sứt hay nhân cách ra sao; bất chấp sự chênh lệch về tuổi tác,
miễn là được hứa hẹn ăn sung mặc sướng. Đáng buồn là có những gia đình
không những không khuyên can mà lại còn khuyến khích con gái làm việc đó
với hy vọng gia đình họ sẽ được đổi đời sau khi con gái ra được nước ngoài.
Chắc chắn rằng, tác động của lối sống không lành mạnh từ bên ngoài vào tình
trạng này thông qua giao lưu, hội nhập, thông qua các phương tiện truyền thông
hiện đại là không nhỏ.
2.2. Thành tựu
Nhờ những định hướng đúng đắn của Đảng, việc xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đạt được nhiều kết
quả tích cực. Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đã ban
hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến
nay, cả nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có 3.491 di
tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản văn hóa và thiên nhiên
thế giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu được UNESCO công
nhận. Đáng chú ý là có 145/288 di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu
số, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự
kiện văn hóa trong và ngoài nước được tổ chức, trong đó có các lễ hội, liên hoan

nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số; hệ thống bảo tàng tiếp tục
được mở rộng và ngày càng đổi mới về nội dung và hình thức trình bày, thực
hiện tốt công tác giáo dục truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa, khoa học cho
người dân, nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và
từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp xã, bao gồm
21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện các cơ quan nhà nước, lực
lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc dân, thư viện chuyên ngành. Trung tâm
văn hóa, nhà văn hóa không chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở trong nước
cũng được phát triển đến các thôn, bản; vai trò của gia đình, nhà trường và xã
hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh phúc, môi trường văn hóa lành
mạnh luôn được quan tâm.
Đầu tư cho sự nghiệp văn hóa không chỉ được coi trọng từ nguồn ngân sách
nhà nước mà còn thu hút ngày càng lớn từ nguồn xã hội hóa. Đội ngũ cán bộ
làm công tác văn hóa không ngừng lớn mạnh, trong đó có cả văn hóa quần
chúng, nghệ nhân và văn hóa đỉnh cao; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa được mở rộng và từng bước đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển
biến tích cực về tư tưởng, đạo đức, lối sống cho các tầng lớp nhân dân; hệ thống
thông tin, báo chí, xuất bản phát triển rộng khắp từ trung ương đến địa phương
4


với tất cả các loại hình báo chí, đáp ứng nhu cầu về thông tin trong nước và quốc
tế cho người dân, cùng với các lĩnh vực văn hóa khác, góp phần thu hẹp sự
chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền. Trong điều kiện công
nghệ thông tin, internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam rất coi trọng
bảo vệ, gìn giữ văn hóa truyền thống, đấu tranh chống lại các sản phẩm phi văn
hóa, các thông tin sai trái, thù địch. Ngoài ra, các lĩnh vực về quyền tác giả, các
quyền liên quan, công nghiệp văn hóa được xác định sớm, tầm nhìn đến năm
2030, với 12 ngành chính; hội nhập quốc tế về văn hóa, thực hiện các điều ước
quốc tế song phương và đa phương, thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế về

văn hóa tiếp tục phát triển sâu rộng.
Thành tựu nổi bật của hợp tác quốc tế về văn hóa trong những năm qua là
đã triển khai toàn diện các lĩnh vực hợp tác, giao lưu văn hóa, thông tin đối
ngoại, mở rộng quan hệ ở nhiều địa bàn, từng bước phát triển sang tất cả các
châu lục. Ví dụ, mấy năm gần đây, bước đột phá của hợp tác quốc tế về văn hóa
là chúng ta đã tạo được sự hiện diện của văn hóa Việt Nam tại khu vực châu Mỹ
và châu Phi. Đồng thời, chúng ta cũng đã tạo được nhiều phương thức, hình thức
hợp tác đa dạng, phong phú, phù hợp với từng khu vực, từng nước. Đây là bước
phát triển về quy mô và chất lượng của sự hợp tác quốc tế về văn hóa, qua đó đã
làm tốt hơn, có hiệu quả hơn nhiệm vụ "giới thiệu văn hóa, đất nước và con
người Việt Nam với thế giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học,
tiến bộ của nước ngoài", tạo nên sự đồng cảm, hiểu biết và xích lại gần nhau hơn
nữa giữa dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Đó cũng chính là mặt mạnh, tính
ưu việt của hợp tác quốc tế về văn hóa mà chúng ta đã và đang khai thác, phát
huy, qua đó, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, con người và
cuộc sống Việt Nam thời kỳ đổi mới được bạn bè thế giới hiểu biết rõ hơn, đúng
hơn.
Trong sự hợp tác đa dạng đó, chúng ta đã tổ chức thành công nhiều hoạt
động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài, đã chủ động lựa chọn, xây dựng, tạo
được một số sản phẩm, ấn phẩm, công trình văn hóa, chương trình nghệ thuật có
chất lượng cao phục vụ công tác giao lưu và hợp tác, được trình diễn, triển lãm ở
nước ngoài. Thời gian qua, chúng ta đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế về
văn hóa, nghệ thuật tại các cuộc thi, triển lãm, liên hoan quốc tế. Cùng với lực
lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, lực lượng đông đảo hoạt
động văn hóa, nghệ thuật quần chúng của các tổ chức và đoàn thể cũng đã góp
phần làm phong phú, đa dạng sự giao lưu văn hóa của nước ta với cả ở trong và
ngoài nước.
Những năm gần đây, chúng ta cũng đã triển khai nhiều hoạt động văn hóa,
nghệ thuật của các nước tại Việt Nam, trong đó có một số hoạt động lớn, có tính
quốc tế như Liên hoan phim châu Á - Thái Bình Dương, Tuần phim châu Âu,

Festival Huế, Tuần lễ văn hóa Nga ở Việt Nam, Triển lãm văn hóa - nghệ thuật
ASEAN, các trại điêu khắc quốc tế,... Đây là một bưóc phát triển mới, mở ra

5


triển vọng lớn để Việt Nam trở thành một địa chỉ văn hóa quen thuộc của sự giao
lưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và quốc tế.
Nhiều văn bản hợp tác quốc tế về văn hóa với các nước và với các tổ chức
quốc tế được ký kết và triển khai thực hiện. Chúng ta cũng đã tạo được ngày
càng nhiều các sản phẩm thông tin đối ngoại để giới thiệu có sức thuyết phục về
diện mạo đổi mới, những thành tựu của Việt Nam với nhân dân các nước, với
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và với người nước ngoài ở Việt Nam.
Sự phối hợp giữa văn hóa với du lịch, hàng không, thương mại trong các hoạt
động ở nước ngoài, cả kinh tế, văn hóa, du lịch, thông tin..., là một dấu hiệu mới,
có tác dụng tốt, tạo nên sức mạnh chung và qua đó, góp phần tăng cường hợp tác
đầu tư kinh tế, thương mại.
Như vậy, nhờ sức sống nội tại và bản lĩnh của văn hóa Việt Nam, do đã
từng trải nghiệm qua một quá trình lịch sử lâu dài biết sàng lọc và tiếp thu các
giá trị văn hóa từ bên ngoài vào Việt Nam, và do đường lối chỉ đạo phù hợp với
quy luật, nên từ những năm đổi mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu văn
hóa quốc tế, nền văn hóa Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đại
hơn. Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp
hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn lên hiện đại hóa của dân tộc ta.
2.3. Hạn chế và nguyên nhân


Hạn chế
Sau 20 năm hội nhập văn hóa thế giới, đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân ta được nâng cao, mở rộng, phong phú đa dạng và giàu có hơn nhiều.

Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bên cạnh những mặt tốt đó, thì nhiều mặt tiêu
cực của đời sống xã hội cũng nảy sinh. Đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng,
đời sống văn hóa bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội không còn được tôn trọng,
một số mặt xấu được duy trì công khai không có người lên tiếng, nhiều tệ nạn
không ngăn chặn được.
Cùng với những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng gây ra những hệ quả
tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam, như: một bộ phận giới trẻ có dấu hiệu xa
rời giá trị văn hoá truyền thống, một số giá trị văn hoá truyền thống không được
bảo quản, gìn giữ, thậm chí đem ra mua bán để trục lợi; có những giá trị tinh
thần bị biến dạng hoặc bị mai một. Không ít gia đình, phá bỏ quan hệ truyền
thống tốt đẹp; bị quan niệm sống thực dụng, tuỳ thích làm cho hạnh phúc gia
đình và sự ràng buộc trách nhiệm tan vỡ, rạn nứt. Một số người thay đổi nhanh
chóng lối sống: đang là người cần cù, chịu khó, khoan dung, độ lượng, chân
thật, bỗng dưng trở thành kẻ tham lam, ích kỷ, coi thường danh dự của tập thể,
cộng đồng, thậm chí của cả bản thân, chỉ tập trung vào việc thực hiện những
mục tiêu cá nhân đầy tính vụ lợi…

6


Có thể thấy, bên cạnh việc hình thành tư duy sống chất lượng, lối sống ích
kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu hình thành và ngày càng xâm nhập vào nhiều
tầng lớp trong xã hội. Lối sống thiên về hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần
nhân cách của nhiều người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai
một. Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn đối với
việc thiết lập các quan hệ xã hội và thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị.
Điều tra giá trị châu Á năm 2008 của Viện Nghiên cứu con người cho biết: có
tới 58,5% người Việt Nam cho rằng không thể tin vào bất kỳ ai mới tiếp xúc.
Bệnh “ngợp bởi vật chất” cũng khiến không ít người, nhất là giới trẻ hiện nay
thiên lệch về nhu cầu vật chất, thể hiện xu hướng thái quá hơn trên mọi khía

cạnh. Những “trào lưu”, “thị hiếu”, “thời thượng” chế ngự không ít những cá
nhân đang tìm đủ cách kiếm tiền, sống gấp...
Về lĩnh vực văn học nghệ thuật, 20 năm hội nhập thì văn chương nghệ
thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác phẩm hay và những tác phẩm
dở. Văn hóa bạo lực, tình dục ngang nhiên thách thức những thuần phong mỹ
tục, những tác phẩm rẻ tiền công kích những giá trị sâu sắc, thâm nghiêm. Tệ
xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học sinh, sinh viên
có xu hướng gia tăng; bạo lực học đường phổ biến ở cả những học sinh nữ; một
bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân cách, đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình
ảnh nghề giáo… làm gia tăng sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội.
Trong khi đó, tình trạng khủng hoảng giá trị giữa cũ và mới đã và đang phá
vỡ nhiều hình thức và nội dung trong lối sống truyền thống Việt Nam. Khi
khuếch trương mặt tích cực của tiêu dùng thì quan niệm tiêu dùng đã chuyển
thành quan niệm tiêu thụ thuần túy. Khi tiêu dùng trở thành mục đích sống thì
chất lượng của đời sống là tiêu thụ - hưởng thụ!. Tư tưởng tiêu dùng đã biến cả
nghệ thuật thành hàng hoá đơn thuần; giáo dục thành quan hệ đổi chác, mua
bán; sinh hoạt tâm linh vốn thiêng liêng nhiều khi cũng trở thành nơi thu lợi
nhuận. Từ lối sống tiêu thụ dẫn đến phân biệt giàu - nghèo qua cách “chơi trội”,
với ý thức đề cao tiện nghi. Lối sống lạnh lùng kiểu “tiền trao cháo múc” của xã
hội tư sản tràn vào xã hội Việt Nam dẫn đến tư tưởng xem thường thuần phong
mỹ tục, thậm chí xem rẻ nhân phẩm con người. Tư tưởng tuyệt đối hoá điều kiện
vật chất và kỹ thuật, lấy phương tiện sống làm thước đo sự phát triển con người
và xã hội của không ít người đang làm sai lệch các giá trị đích thực và lý tưởng
nhân văn cao đẹp mà ông cha ta đã hàng nghìn năm vun đắp. Cùng với đó, tình
trạng thiếu hiểu biết pháp luật, nhân cách kém và sự thiếu hụt, lệch lạc của giáo
dục truyền thống cũng đang ảnh hưởng không nhỏ tới giới trẻ…
Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc
dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây dựng quản lý văn hóa toàn
xã hội là vô cùng khó khăn phức tạp, là thách thức lớn cần có sức mạnh của
nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm được.



Nguyên nhân:

7


Trước một loạt những hạn chế yếu kém về văn hóa và đạo đức hiện
nay, đã đến lúc chúng ta phải réo lên tiếng chuông cảnh tỉnh người dân nói
chung và bộ phận giới trẻ nói riêng về tình trạng trên. Vậy đâu là nguyên nhân
của tính trạng yếu kém này? Ta có thể làm rõ vấn đề này qua 2 phương diện sau:
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan, thứ nhất là do sự tác động mạnh mẽ của
những mặt trái do quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Nó như là con dao hai lưỡi đối
với nền văn hóa nước ta, vừa đem lại những thành tựa tích cực bên cạnh đó cũng
gây lên sự xâm nhập tràn lan những sản phẩm văn hóa không hợp với thuần
phong mỹ tục của người Việt Nam. Từ đó dẫn đến những tư tưởng phức tạp
trong đời sống văn hóa, xã hội. Thứ hai, nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém về
những tiền đề vật chất để xây dựng nền kinh tế, mức sống và dân trí của nhân
dân còn thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Do đó, người
dân dễ bị lôi kéo vào những sai lệch văn hóa. Thứ ba là, cơ chế thị trường và sự
hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt
trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân
dân ta. Nguyên nhân khách quan cuối cùng phải kể đến đó chính là do kinh tế
nước ta còn nghèo, tuy nhu cầu về văn hóa lớn nhưng chưa đáp ứng đủ vì thiếu
thốn về vật chất.
Tồn tại song song cùng những nguyên nhân khách quan là những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính chúng ta, có thể kể đến một số nguyên
nhân như sau. Nguyên nhân quan trọng đầu tiên là do nhận thức trong Đảng từ
Trung ương đến cấp ủy đảng các cấp về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa

còn chưa thật đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng nhiệm vụ xây dựng
và phát triển văn hóa chưa quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Việc tổ
chức thực hiện còn thiếu tập chung, chưa đồng bộ, không kiên quyết. Hơn thế
nữa, do nhà nước tập trung vào phát triển kinh tế nên vai trò và nhiệm vụ xây
dựng văn hóa có nơi còn bị xem nhẹ, không được chú trọng nhiều. Bên cạnh đó,
trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay thì chúng ta vẫn chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp
phù hợp để phát triển văn hóa. Cuối cùng là, một số bộ phận tri thức, văn nghệ
sỹ, những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, thông tin, báo chí có những
biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong định hướng sáng tạo và hoạt động
nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, tạo ra một số sản phẩm văn hóa kém
chất lượng, thậm chí sai trái.
3. Đường lối xây dựng , phát triển nền văn hóa của Đảng trong thời kì mới
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận
thức mới, quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn
hoá, đối với con người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là
cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
8


Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào
có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".Đại
hội VI cũng đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư
tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định
đồng thời với xây dựng kinh tế, phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi
trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam
có đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:

- Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh
thần cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng
định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái
mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém.
- Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả cấc dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Cương lĩnh xác định giáo dục và đào toạ, khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu.
Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
- Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa
học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự
nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
- Nghị quyết Trung Ương 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản
chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn
hoá trong thời kỳ mới.
Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến
9



bộ thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển
kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người
phát triển toàn diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển; văn hoá là sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Mười nhiệm vụ cụ thể:
1. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những đức tính: tinh thần yêu nước, có ý thức tập thể, có lối sống lành mạnh...
2. Xây dựng môi trường văn hoá.
3. Phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật.
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá.
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ.
6. Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.
Bốn giải pháp lớn:
1. Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và
phong trào: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
2. Tăng cường xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách về văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.

10



4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
- Đến Hội nghị Trung Ương 9 khoá IX (1/2004) xác định thêm "phát triển
văn hoá đồng bộ với phát triển kinh tế".
- Hội nghị Trung Ương 10 khoá IX (7/2004) đặt vấn đề đảm bảo sự gắn kết
giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng chỉnh đốn Đảng là then
chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng - tinh thần xã hội.
Đồng thời cũng nhận định: cơ chế thị trường đã làm thay đổi mối quan hệ giữa
cá nhân với cộng đồng, thúc đẩy dân chủ đời sống xã hội, đa dạng hoá thị hiếu
và phương thức sinh hoạt văn hoá. Do đó phạm vi, vai trò của dân chủ hoá - xã
hội hoá văn hoá và của cá nhân ngày càng tăng lên và mở rộng là những thách
thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hoá của Đảng và Nhà nước
ta.
- Đại hội X, Đảng xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất
lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Gắn kết chặt chẽ
hơn với phát triển kinh tế xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam. Bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên,
sinh viên, học sinh, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức
và bản lĩnh văn hoá Việt Nam.Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội X, đối với văn hóa,
văn học nghệ thuật, Đảng đã dành sự quan tâm tới một số lĩnh vực tinh túy và
nhạy cảm thường xuyên tác động đến đời sống tinh thần của xã hội. Đó là 02 kết
luận quan trọng của Ban Bí thư (số 83 ngày 27/6/2008), Bộ Chính trị (số 51
ngày 22/7/2009) chỉ đạo việc tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 27 của
Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội”; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chỉ thị này. Nghị quyết
số 23- NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học- nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Theo đó sẽ có các đề
án của các ban, bộ, ngành phối hợp triển khai nhằm đưa các quan điểm chỉ đạo,

những chủ trương và giải pháp của Đảng về văn học, nghệ thuật thành hiện thực
phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân.
Ngày 6-5-2009 “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” ban hành
kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã xác định
mục tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hóa đến năm 2020 là:
* Mục tiêu:
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung,
trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và
11


xã hội, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân
cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hóa và xây dựng môi trường
văn hóa với vấn đề hình thành nhân cách.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị
tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc
đáo của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống
nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng những giá trị văn
hóa mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận
có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc,
bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người,
phát huy cao độ tính sáng tạo của trí thức văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hóa,
nghệ thuật; tạo cơ chế, chính sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn
hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với dân tộc và thời đại; nghiên cứu
toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc xây dựng và phát triển nền

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Bốn là, tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt
động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch
về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng
và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải
đảo.
Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội
hóa các hoạt động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, coi
văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn giữa nhiệm
vụ phát triển văn hóa, làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Xây dựng con người, lối sống văn hóa.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
- Bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật.
- Tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa.

12


Chiến lược phát triển văn hóa cũng đã chỉ rõ các nội dung liên quan đến
các lĩnh vực hoạt động văn hóa: nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật nhiếp
ảnh và triển lãm; xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm; thư viện; bảo tàng, di
tích và văn hóa phi vật thể; văn hóa cơ sở; nghiên cứu khoa học về văn hóa nghệ
thuật; quyền tác giả và quyền liên quan.

4. Phương hướng hoàn thiện vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc trong giai đoạn
hội nhập
+) Tăng cường công tác giáo dục, tuyển truyền để nâng cao nhận thức của
cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc, từ
đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ động, tích
cực tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ
vai trò hạt nhân trong quá tình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân
tộc. Đây là một quá trình không thể nóng vội, nhung cũng không thể chậm trễ
mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo
dục và tự giáo dục trong chính cộng động dân tộc.
+) Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc phải được quán triệt trong tổng hệ thống chính sách kinh tế - xã hội.
Để chính sách đi vào được cuộc sống, cần đảm bảo sự thống nhất trong tất cả
các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư
nguồn lực thích đáng. Mặt khác, phải xây dựng chiến lược phát triển công
nghiệp văn hóa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo là giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc vì sự phát triển bền vững của dân tộc.
+) Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế phải
do chính các chủ thể văn hóa thực hiện. Mọi nguồn lực bên ngoài chỉ có thể phát
huy tác dụng khi chủ thể văn hóa có ý thức tự giác giữ gìn và phá huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Những giải pháp phát triển về kinh tế để đáp ứng nhu cầu dân
sinh phải gắn với như cầu bảo vệ đời sống tinh thần, bảo vệ bản sắc văn hóa dân
tộc. Muốn vậy, mọi chính sách đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng
quyền quyết định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu
sắc về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp.
+) Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có phương pháp, cách thức
phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo phong trào làm
phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó sẽ
phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển
kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển

của các dân tộc.
+) Phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với phải gắn với bảo vệ mội tường
tự nhiên và môi trường xã hội. Đây là một trong những nhân tố đảm bảo cho sự
phát triển bền vững của dân tộc. Đặc biệt là việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
13


hóa cần phải gắn với giữ gìn không gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng
đồng dân tộc.
+) Nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học, công nghệ, trình độ quản lý
nhà nước cho phù hợp với yêu cầu và tốc độ của quá trình hội nhập quốc tế.
+) Nâng cao tính sáng tạo của nền văn hóa dân tộc, mở rộng dân chủ, khai
thác mọi tiềm năng, sáng tạo trong nhân dân, khuyến khích đội ngũ trí thức, văn
nghệ sỹ, các nhà doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân tham gia, vào quá tình xây
dựng và phát triển văn hóa dân tộc.
+) Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận văn hóa nhằm
bảo vệ các giá trị chân chính của chủ nghĩa Mac-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết đấu tranh
vạch trần mọi lưu toan lợi dụng toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, du nhập các trào lưu tư tưởng
trái với đường lối của Đảng.
+) Biết tôn trọng, lắng nghe để làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về những ý
kiến khác nhau với tính thần xây dựng để tiếp thu, để bồi đắp thêm trí tuệ và tinh
thần. Cần tăng cường công tác lãnh đạo của các cập ủy Đảng, vai tò quản lý cua
chính quyền các cấp và sự tham gia có hiệu quả của tổ chức chính trị- xã hội
nhằm ngăn chặn những luồng thông tin xấu, phim ảnh rẻ tiền, chạy theo cơ chế
thị trường có yếu tố không lành mành mang màu sắc độc hại.
+) ”Biết mình biết ta” để giữ vai trò chắt lọc, biết “mở cửa”, “đóng cửa” thì
ắt thành công. Không e ngại sự áp đảo của toàn cầu hóa, không “ dị ứng” với
mọi biểu hiện của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ

động, tự tin, tự nhiên, sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa dạng
văn hóa là một tất yếu của giao lưu, hợp tác. Trong mối quan hệ Đông - Tây, dân
tộc và nhân loại, cần phải xác định cái chung và cái riêng, vật chất và tinh thần,
nội sinh và ngoại sinh để tập trung giải quyết sự cân bằng, hài hòa giữa các yếu
tố. Tiếp thu toàn diện nhưng có “ chọn qua màng lọc” bản sắc văn hóa VN, tiếp
nhận để làm giàu cho văn hóa VN. Nói như vậy để thấy không phải mọi thứ mới
lạ đều bổ ích, cái mới mà hay thì tiếp thu, còn mới mà lai căng, xấu xa thì cương
quyết loại bỏ.

14


KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế khách quan.
Hội nhập là con đường tất yếu của cả dân tộc. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập
như thế nào. Với tư thế chủ động, hội nhập trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ
lực để vượt lên chính mình, thông qua quá trình hội nhập, chúng ta có thể nhận
thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc
mình. Đồng thời trong quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của
những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Một
khi đã nhận thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết hợp hài hoà các giá trị
truyền thống với các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy
những gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học
hỏi với bên ngoài thì sẽ vượt qua được những thử thách, sẽ khơi dậy được vai
trò động lực của các giá trị truyền thống.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO



Quyết định số 581/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Chiến

lược phát triển văn hóa đến năm 2020”

Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
(2016)

Tạp chí của Ban tuyên giáo TW

Trang thông tin điện tử Hội đồng lý luận TW

< />vanhoaxaydungc111nnguoiVietNam.aspx> truy cập ngày 6/12/2019
• < >truy cập ngày 6/12/2019

< > truy cập ngày
6/12/2019

16



×