Tải bản đầy đủ (.docx) (118 trang)

Luận văn thạc sĩ xã hội học quan niệm, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng tới việc nuôi con bằng sữa mẹ ở phụ nữ đang nuôi con nhỏ tại hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.48 KB, 118 trang )

Mục lục
Danh mục các bảng ........................................................................................
Danh mục các hộp ...........................................................................................
MỞ ĐẦU.........................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu…………………………………………
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài…………………………………………
3.1. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………….....
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài…………………
4.1. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………
4.2. Khách thể nghiên cứu………………………………………………………
4.3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………
5. Câu hỏi nghiên cứu…………………………………………………..........
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài………………
6.1. Phương pháp luận của đề tài………………………………………………
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài………………………………
6.3. Phương pháp chọn mẫu……………………………………………………
7. Điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài………………………..
7.1. Điểm mới của đề tài…………………………………………………………
7.2. Ý nghĩa lý luận của đề tài…………………………………………………..
7.3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài………………………………………………..
8. Kết cấu của đề tài…………………………………………………………
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI..........................................
1.1. Các khái niệm...........................................................................................
1.2. Các lý thuyết.............................................................................................
1.3. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về Nuôi con bằng sữa mẹ...........
CHƯƠNG 2: QUAN NIỆM VÀ HÀNH VI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ Ở PHỤ NỮ ĐANG NUÔI CON NHỎ Ở
HÀ NỘI HIỆN NAY .......................................................................................
2.1. Quan niệm về việc Nuôi con bằng sữa mẹ...............................................


2.2. Hành vi có liên quan đến việc Nuôi con bằng sữa mẹ .............................
CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NUÔI CON
BẰNG SỮA MẸ Ở PHỤ NỮ ĐANG NUÔI CON NHỎ Ở HÀ NỘI HIỆN
NAY .......................................................................................................
3.1. Những yếu tố mang tính cá nhân..............................................................
3.2. Những yếu tố văn hóa-xã hội...................................................................
3.3. Những yếu tố hỗ trợ xã hội ......................................................................
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...............................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………....
PHỤ LỤC .......................................................................................................
11

6
6
7
7
8
16
16
16
16
16
16
17
17
18
18
18
20
21

21
21
21
22
24
24
28
34
36
36
58
77
77
84
90
108
112
116


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
1
Bảng 1: Tình hình Nuôi con bằng sữa mẹ tại Việt Nam
2
Bảng 2: Thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ tại Việt Nam

Trang
9

11

DANH MỤC CÁC HỘP
STT
Tên hộp
1
Hộp 1: Câu chuyện của mẹ CTNA: Máy hút sữa và sự tin
tưởng tuyệt đối vào việc Nuôi con bằng sữa mẹ
2
Hộp 2: Câu chuyện của những bà mẹ xin sữa
3
Hộp 3: Thông tin về mô hình Mặt trời bé thơ-Dự án
Alive&Thrive

22

Trang
61
65
102


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

“Nếu có một loại vắc-xin có thể giúp phòng tránh tử vong cho hơn một triệu trẻ
em, chi phí thấp, an toàn, có thể uống trực tiếp và không cần bảo quản lạnh, vắcxin đó sẽ là một nhu cầu cấp thiết cho sức khỏe cộng đồng. Nuôi con bằng sữa mẹ
có thể làm được tất cả những điều này và còn nhiều hơn thế” [31]. Lời khẳng định
trên đã phần nào nói lên được lợi ích của việc Nuôi con bằng sữa mẹ. Xét một
cách toàn diện, Nuôi con bằng sữa mẹ mang lại lợi ích cho trẻ, cho bà mẹ, cho gia

đình và cho toàn xã hội. Đối với trẻ, sữa mẹ giúp trẻ chống lại bệnh tật, đồng thời
tăng cường sức khỏe và thúc đẩy sự tăng trưởng tối ưu của trẻ. Đối với bà mẹ,
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp họ giảm được nguy cơ mắc các bệnh như tiểu đường,
ung thư, loãng xương, trầm cảm sau sinh hay thiếu máu, cho con bú cũng giúp họ
giảm cân sau sinh nhanh hơn và tránh thai tốt hơn. Nuôi con bằng sữa mẹ cũng có
lợi cho kinh tế gia đình khi giúp giảm thiểu chi phí tốn kém cho sữa công thức
(trung bình mỗi gia đình tốn khoảng 800.000-1.200.000 đồng mỗi tháng cho việc
mua các sản phẩm thay thế sữa mẹ cho trẻ). Cũng nhờ những lợi ích về mặt sức
khỏe do Nuôi con bằng sữa mẹ mang lại, các gia đình cũng tiết kiệm được thời
33


gian và tiền bạc cho việc khám chữa bệnh. Đối với xã hội, việc này cũng mang lại
những lợi ích vô cùng to lớn. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp làm giảm chi phí y tế
chung của quốc gia cho khám chữa các bệnh liên quan đến việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ
kém. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp ổn định lực lượng lao động cho các doanh
nghiệp khi các lao động nữ không phải nghỉ làm để chăm con ốm. Sữa mẹ cũng là
một nguồn lực hữu ích đảm bảo an ninh thực phẩm cho trẻ nhỏ và các gia đình trên
toàn thế giới khi có thiên tai, dịch bệnh hay khủng hoảng kinh tế [31].
Hiểu được những lợi ích đó của Nuôi con bằng sữa mẹ sẽ khiến các bà mẹ cho
con bú sữa mẹ nhiều hơn và lâu dài hơn. Tuy nhiên, không phải bà mẹ nào cũng
có hiểu biết đó, và không phải bà mẹ nào cũng có quan niệm ủng hộ việc Nuôi con
bằng sữa mẹ. Điều này tác động không nhỏ đến hành vi nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và
trẻ nhỏ của các bà mẹ (quyết định có cho con bú mẹ hay không). Ngoài ra có
những yếu tố ảnh hưởng tới việc Nuôi con bằng sữa mẹ như những yếu tố liên
quan đến cá nhân người mẹ, những yếu tố văn hóa-xã hội và những yếu tố hỗ trợ
xã hội.
Quan niệm, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng tới việc Nuôi con bằng sữa mẹ
đã được quan tâm nghiên cứu nhưng chủ yếu về mặt định lượng, số lượng các
nghiên cứu định tính vẫn còn rất hạn chế. Việc hiểu một cách sâu sắc các yếu tố

ảnh hưởng tới Nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giúp ích rất nhiều trong việc thiết kế các
chương trình/chính sách phù hợp nhằm tăng cường, thúc đẩy việc Nuôi con bằng
sữa mẹ trong xã hội hiện nay. Vì lý do đó, tác giả thực hiện nghiên cứu định tính
“Quan niệm, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng tới việc Nuôi con bằng sữa mẹ ở
phụ nữ đang nuôi con nhỏ tại Hà Nội hiện nay”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:

2.1. Thực trạng Nuôi con bằng sữa mẹ trên thế giới và ở Việt Nam hiện
nay
Trên thế giới, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là tương đối
thấp. Theo Ngân hàng dữ liệu toàn cầu của tổ chức Y tế Thế giới [29] về nuôi
dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trong giai đoạn từ năm 2006 đến 2013, tỷ lệ chung
44


của toàn thế giới là 37%; tỷ lệ ở từng khu vực cụ thể: thấp nhất là khu vực Tây
Thái Bình Dương (30%), tiếp đến là Châu Mỹ (31%), Châu Phi (35%), Đông Địa
Trung Hải (36%) và Đông Nam Á (47%); tính theo các nhóm thu nhập: tỷ lệ thấp
nhất thuộc về nhóm có thu nhập trên trung bình (29%), tiếp đến là nhóm thu nhập
dưới trung bình (39%) và tỷ lệ ở nhóm thu nhập thấp là 47%. Trong bài viết
“Những xu hướng toàn cầu về Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn” của mình, Cai và
đồng sự [4] đã chỉ ra tỷ lệ trẻ từ 0-5 tháng được bú sữa mẹ hoàn toàn năm 2010 ở
một số khu vực đang phát triển như Tây và Trung Phi là 28%, Đông Á và Châu Á
Thái Bình Dương 29%, Nam Á 45%, Tây và Nam Phi 47%, tỷ lệ chung của Châu
Phi là 35%, Châu Á (trừ Trung Quốc) là 41% và của nhóm các nước đang phát
triển là 39%. Bộ cơ sở dữ liệu về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ của UNICEF
[27] cũng đã đưa ra tỷ lệ trung bình trên thế giới trẻ vừa bú mẹ vừa ăn các thức ăn
bổ sung là 55%, tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 1 năm tuổi là 75%, đến 2 năm tuổi giảm
xuống còn 58%.
Là một nước đang phát triển nằm trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Việt

Nam cũng là một nước có tỷ lệ Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn khá thấp. Cuộc
Tổng điều tra Dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) và UNICEF
(2009-2010) [36] đã đưa ra bảng dưới đây thể hiện tình hình Nuôi con bằng sữa mẹ
ở Việt Nam:
Bảng 1: Tình hình Nuôi con bằng sữa mẹ tại Việt Nam
Các chỉ số về bú sữa mẹ
Thời gian mẹ cho trẻ bú dưới 1 giờ sau sinh
Bà mẹ cho trẻ bú sữa non
Tỷ lệ trẻ bú hoàn toàn đến 4 tháng tuổi
Tỷ lệ trẻ bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi
Thời gian bà mẹ cai sữa cho trẻ:
<12 tháng
12 tháng
13-24 tháng
>24 tháng
Trẻ dưới 2 tuổi bú bình

55

Tỷ lệ %
76,2
70,8
25,8
19,6
6,6
14,4
67,0
11,9
34,6



(Nguồn: Lê Nhất Phương Hồng, 2015, 68 Ngộ nhận và Giác ngộ về Nuôi con sữa mẹ - Sai
và Khó, Đúng và Dễ, NXB Phụ nữ)

Theo số liệu của WHO [29] tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
của Việt Nam năm 2011 là 17%. Theo nghiên cứu được tiến hành năm 2011 trên
địa bàn 11 tỉnh, thành phố với số mẫu tương đối lớn (10834 mẫu) của dự án Alive
& Thrive [30], tỷ lệ bú sớm sau sinh là 50,5% và Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu là 20,2%. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn và Nuôi con bằng
sữa mẹ là chủ yếu đều giảm dần trong 6 tháng đầu, ở trẻ 1 tháng tuổi, tỷ lệ Nuôi
con bằng sữa mẹ hoàn toàn là 41,4%, trong khi đó ở trẻ 5 tháng tuổi giảm chỉ còn
6,2%. 79,5% trẻ được bú mẹ đến 1 năm tuổi nhưng chỉ có 18,2% trẻ được tiếp tục
bú đến 2 năm tuổi. Tình trạng các bà mẹ Việt Nam thường cho con uống nước, sữa
bột và ăn thức ăn bổ sung quá sớm là khá phổ biến. Tỷ lệ ăn sữa bột là 17% ở trẻ
dưới 1 tháng tuổi, 24% ở trẻ 2-4 tháng tuổi và 41,9% ở trẻ 5 tháng tuổi.
2.2. Quan niệm và hành vi có liên quan đến Nuôi con bằng sữa mẹ
Nhìn chung, các bậc phụ huynh và đặc biệt là các bà mẹ đang nuôi con nhỏ xuất
hiện trong những nghiên cứu cả ở trong và ngoài nước đều có những quan điểm
khá đa dạng và nhiều khi là mâu thuẫn về Nuôi con bằng sữa mẹ, trong đó có cả
tích cực và tiêu cực [3]. Với một số người mẹ ở phương Tây, Nuôi con bằng sữa
mẹ mang đến sự liên kết về cả thể chất và tâm hồn, cảm giác viên mãn và là sự
phản ánh chất lượng của “việc làm mẹ” của họ, cho con bú có mối liên hệ và đồng
nghĩa với việc thể hiện tình yêu thương [20], với họ, NCBSM được coi như một
giá trị đặc biệt trong cuộc sống, nó là nhiệm vụ, là bản năng của người mẹ, nó đem
lại cảm giác gắn bó, niềm vui và niềm tự hào cho họ [14]. Hầu như các bà mẹ hiện
nay dù sống ở đâu cũng đều ít nhiều nắm được những kiến thức cơ bản về Nuôi
con bằng sữa mẹ và đều biết rằng sữa mẹ là quan trọng đối với trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ [11], [12], tuy nhiên những hiểu biết của họ ở đâu đó cũng có những nhầm lẫn
dẫn tới những quan niệm không mấy tích cực đối với việc này. Ở một số nơi, trong
đó có Việt Nam, Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn dường như không phải là một

chuẩn mực xã hội, không ít bà mẹ “không tin rằng những người khác Nuôi con
66


bằng sữa mẹ hoàn toàn hoặc những người khác cũng không mong đợi họ làm như
vậy.” [30]. Thậm chí, trong xã hội còn đang tồn tại một chuẩn mực khá tiêu cực và
có phần cổ hủ về việc này như cho con bú cần phải kín đáo, cho con bú nơi công
cộng là một điều khiếm nhã, bất lịch sự hay đáng xấu hổ [3]… Chính chuẩn mực
này đang xung đột với những lời khẳng định của các chuyên gia y tế rằng Nuôi con
bằng sữa mẹ là lựa chọn tốt nhất, là cần thiết cho trẻ, những chuẩn mực mâu thuẫn
lẫn nhau này đang gây ảnh hưởng không nhỏ đến quan niệm, quyết định và hành vi
liên quan tới việc cho con bú của người mẹ [5]. Có không ít bà mẹ bị ám ảnh bởi
những suy nghĩ như con mình không thỏa mãn với việc chỉ bú sữa mẹ hay nói cách
khác sữa mẹ là không đủ với chúng, cần phải cho uống sữa công thức/sữa bột con
mới “bụ bẫm” và họ lo lắng về vấn đề dinh dưỡng, họ cho rằng con họ cần phải ăn
dặm hơn là bú mỗi sữa mẹ [13], rồi thì sữa mẹ nóng con không tăng cân, hay
những lo lắng về việc mình không đủ sữa cho con [3], mẹ sinh mổ thì không có
sữa, rồi thì cho con bú sẽ làm hỏng bầu ngực, cho con bú là mất thời gian… Đó
chỉ là một vài trong số vô vàn những quan niệm của các bà mẹ về Nuôi con bằng
sữa mẹ. Những quan niệm này dẫn tới những hành vi khác nhau liên quan tới việc
nuôi dưỡng đứa trẻ.
Như số liệu đã trình bày ở phần trên cũng như rất nhiều những số liệu, kết quả
nghiên cứu khác đã chỉ ra, chúng ta nhận thấy rằng tỷ lệ Nuôi con bằng sữa mẹ
hoàn toàn trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng vẫn còn khá khiêm tốn.
Có rất ít người Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và hầu hết đều
ngưng hoặc dự định sẽ ngưng cho con bú khi đứa trẻ được 18 tháng tuổi [12].
Bảng dưới đây thể hiện kết quả Thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ trong nghiên cứu
của Alive&Thrive [30]. Kết quả này cũng phần nào nói lên được xu hướng hành vi
chung hiện nay:
Bảng 2: Thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ tại Việt Nam


77


(Nguồn: Alive and Thrive, 2012)

Nhìn vào đó, có thể thấy được tỷ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là
khá thấp (20,2%) và tỷ lệ tiếp tục bú mẹ đến 2 năm tuổi theo khuyến cáo của tổ
chức WHO cũng rất thấp (18,2%). Các bà mẹ hiện nay thường có xu hướng lựa
chọn cho trẻ bú bình (bú sữa công thức) hoặc bú kết hợp (cả sữa mẹ và sữa công
thức) [3]. Việc bổ sung quá sớm nước, sữa công thức/sữa bột, các loại chất lỏng
khác và thức ăn bổ sung cũng là một hành vi phổ biến ở các bà mẹ [1], [2], [9],
[30]. Theo số liệu thu thập được từ 6068 bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi trong
một nghiên cứu của Alive & Thrive được thực hiện tại 11 tỉnh, thành phố ở Việt
Nam năm 2013 [16] tỷ lệ trẻ được cho uống các chất lỏng khác ngoài sữa mẹ sau
sinh là 73,3%, tỷ lệ trẻ uống sữa công thức là 53,5%, uống nước lọc là 44,1%,
ngoài ra là các chất lỏng khác như mật ong, nước đường glucose….
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến Nuôi con bằng sữa mẹ:
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định có Nuôi con bằng sữa mẹ hay
không của các bà mẹ, trong đó, có thể chia các yếu tố này thành 3 nhóm chính, đó
là: những yếu tố mang tính cá nhân (thuộc về bản thân người mẹ), những yếu tố
văn hóa-xã hội và những yếu tố hỗ trợ xã hội.
2.3.1. Những yếu tố mang tính cá nhân:
Yếu tố mang tính cá nhân đầu tiên chính là tình trạng thể chất [3], [16], sức
khỏe [10] của người mẹ. Cơ thể người mẹ đó có đủ khỏe mạnh để tiết sữa nuôi
con hay không sẽ quyết định việc người mẹ đó có Nuôi con bằng sữa mẹ hay
không. Kế đến là tình trạng tâm lý của người mẹ: sự lo lắng về việc không đủ sữa
cho con bú hay con không đủ no, không đủ dinh dưỡng [3], [13], sự xấu hổ, không
88



thoải mái khi cho con bú nơi công cộng [3], [5], [10], [16] hay sự mong muốn có
sự tham gia của người chồng/cha của đứa trẻ vào quá trình chăm sóc con cái, cụ
thể là cho con bú [11]… chính là những yếu tố khiến cho các bà mẹ không lựa
chọn việc Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn mà thay vào đó là cho bú sữa công
thức/sữa bột hay ăn bổ sung sớm.
Trình độ học vấn nói chung [10] và kiến thức về Nuôi con bằng sữa mẹ nói
riêng [16], [30] của các bà mẹ cũng là một yếu tố có tầm ảnh hưởng lớn. Trình độ
học vấn cao [17] kết hợp với những hiểu biết phù hợp, chính xác về Nuôi con bằng
sữa mẹ, về việc cho trẻ ăn bổ sung đúng thời điểm [6] sẽ dẫn đến việc thực hành
Nuôi con bằng sữa mẹ tích cực. Ngược lại, sự thiếu kiến thức và tiếp nhận những
thông tin không chính xác cộng với việc thiếu phương tiện di chuyển hiệu quả gây
trở ngại cho khả năng tiếp cận với những chương trình và dịch vụ chăm sóc sức
khỏe tiền sản và hậu sản chính thống [24] là những yếu tố cản trở, gây khó khăn
cho quá trình Nuôi con bằng sữa mẹ hiện nay.
Tuy nhiên, yếu tố cá nhân gây cản trở nhiều nhất cho việc Nuôi con bằng sữa
mẹ hoàn toàn chính là việc người mẹ phải quay trở lại đi làm sau thời gian nghỉ
thai sản [6], [12], [30]. Sau thời gian nghỉ 6 tháng thai sản (trước đây là 4 tháng),
người mẹ thường sẽ phải quay trở lại với công việc, vì thế họ sẽ phải vắng nhà
trong thời gian làm việc đó (thường là 8 tiếng). Việc chăm sóc con nhỏ đành phải
giao phó lại cho người ở nhà (các bà nội, ngoại, người giúp việc…). Họ thường
ngại chạy về cho con bú giữa buổi hay vắt/hút sữa để ở nhà nên thường có xu
hướng cai sữa sớm, cho con uống sữa công thức/sữa bột và ăn bổ sung.
Ngoài ra, tác giả nhận thấy có một số yếu tố cá nhân cũng có ảnh hưởng không
nhỏ đến việc cho con bú sữa mẹ đối với người mẹ như độ tuổi, tình trạng hôn nhân
và điều kiện kinh tế. Tuy nhiên, trong phạm vi những tài liệu được tổng thuật,
những yếu tố này lại chưa được khắc họa thực sự rõ nét. Vì vậy, trong nghiên cứu
này, tác giả sẽ chú ý hơn đến những yếu tố này.
2.3.2. Những yếu tố văn hóa-xã hội:


99


Một trong những yếu tố văn hóa-xã hội đầu tiên cần phải nhắc tới chính là yếu
tố chính sách, pháp luật - một thiết chế xã hội quan trọng giữ vai trò chủ đạo trong
mọi hệ thống xã hội. Ở Việt Nam, liên quan đến Nuôi con bằng sữa mẹ, hiện đã có
một số văn bản quy phạm pháp luật có đề cập đến vấn đề này. Nhìn chung, quan
điểm của pháp luật Việt Nam là khuyến khích, ưu tiên và tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho việc Nuôi con bằng sữa mẹ, luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của sữa
mẹ đối với sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ; không khuyến khích thông tin
tuyên truyền, quảng cáo cũng như sử dụng các sản phẩm thay thế sữa mẹ, đặc biệt
là các sản phẩm dành cho trẻ nhỏ dưới 24 tháng tuổi, cụ thể:
Về các bộ luật, Luật Lao động [40] sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/5/2013 đã
quy định rõ thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ được tăng lên thành 6 tháng
chứ không phải là 4 tháng như trước đây, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các
bà mẹ Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Luật Quảng cáo [39]
2012 quy định các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo (điều 7) trong đó
cấm quảng cáo các “sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi,
sản phẩm dinh dưỡng bổ sung dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bú và vú ngậm
nhân tạo”.
Về các văn bản dưới luật, Nghị định số 21/2006/NĐ-CP [32] về việc Kinh
doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ đã cũng đã quy định
rất rõ về việc thông tin, giáo dục, truyền thông, quảng cáo, kinh doanh và sử dụng
các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, trong đó tại điều 3 và 4 Chương II đã
quy định cụ thể về những yêu cầu bắt buộc đối với thông tin, giáo dục, truyền
thông về lợi ích của việc nuôi trẻ bằng sữa mẹ (điều 3) và tài liệu thông tin, giáo
dục, truyền thông về nuôi dưỡng trẻ nhỏ (điều 4). Và như một sự bổ sung, làm rõ
hơn những quy định đó, Nghị định 176/2013/NĐ-CP [33] quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực y tế đã được ban hành, cụ thể tại Mục 6. Hành vi
vi phạm hành chính khác trong lĩnh vực y tế có đề cập đến những vi phạm quy

định về thông tin giáo dục, truyền thông về Nuôi con bằng sữa mẹ (điều 87) và vi
phạm quy định về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ
10


(điều 88) với những hình thức xử phạt hết sức cụ thể, rõ ràng đối với từng vi phạm.
Gần đây, Chính phủ tiếp tục ra Nghị định 100/2014/NĐ-CP [34] quy định về kinh
doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, bình bú và vú ngậm
nhân tạo, trong đó quy định về các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông và
quảng cáo; kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, bình bú
và vú ngậm nhân tạo; trách nhiệm trong kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh
dưỡng dùng cho trẻ nhỏ. Về cơ bản, Nghị định này là sự cập nhật và hoàn chỉnh
thêm của Nghị định 21/2006/NĐ-CP.
Yếu tố tiếp theo cần phải kể đến là những niềm tin, những chuẩn mực xã hội,
những quan niệm mang tính văn hóa, truyền thống có liên quan đến nuôi dưỡng trẻ
nhỏ đang tồn tại trong mỗi xã hội. Điều này được chia sẻ trong những nghiên cứu
của Duong DV [10], Lundberg PC & Thu TTN [15], Alive & Thrive [30] ở Việt
Nam và Cai [4], Lee và đồng sự [12] ở các nước khác. Những quan niệm truyền
thống này thường được đưa ra dưới dạng những lời khuyên cho những phụ nữ mới
sinh con bởi các bà, các mẹ của họ, bởi những phụ nữ lớn tuổi hoặc có kinh
nghiệm hơn hay từ bạn bè, hàng xóm, những người xung quanh, và những lời
khuyên này có tác động không nhỏ tới hành vi nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ trẻ.
Một yếu tố khác cũng được đề cập trong một vài nghiên cứu [21], [28], [30] đó
là yếu tố khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền thông. Nó có thể là một
công cụ giúp nâng cao hiểu biết và thúc đẩy việc thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ,
và ngược lại, cùng với sự quảng bá rộng khắp của các nhà sản xuất sữa công thức,
nó cũng có thể là yếu tố làm giảm thậm chí mất đi giá trị của việc cho con bú đối
với các bà mẹ trẻ-những người đang chịu nhiều sự chi phối của khoa học công
nghệ trong đời sống hiện đại ngày nay. Đây cũng sẽ là một yếu tố được tác giả cân
nhắc và đưa vào nghiên cứu này thông qua việc tìm hiểu sâu hơn tác động của việc

tiếp xúc với khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền thông nói chung và
việc tham gia vào những nhóm/hội ảo có liên quan đến Nuôi con bằng sữa mẹ trên
mạng Internet nói riêng của những phụ nữ trong nghiên cứu này.
2.3.3. Những yếu tố hỗ trợ xã hội:
11


Hỗ trợ xã hội được chia thành 3 nhóm chính: hỗ trợ tinh thần, hỗ trợ vật
chất/thể chất và hỗ trợ thông tin. Hỗ trợ về thông tin chủ yếu đến từ các cán bộ y
tế. Nghiên cứu của Deaden K và cộng sự [6] về Nuôi con bằng sữa mẹ ở khu vực
nông thôn Việt Nam và những nghiên cứu khác như của Phillips [20], Schimied và
cộng sự [22] và Lee và cộng sự [12] đã chỉ ra sự có mặt, hỗ trợ, những lời khuyên
từ các cán bộ y tế địa phương cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến quá trình
Nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ. Yếu tố này kết hợp với sự sẵn có của những
nguồn thông tin chính xác, dễ truy cập, dễ hiểu cũng như những dịch vụ hỗ trợ, tư
vấn chuyên nghiệp có liên quan đến Nuôi con bằng sữa mẹ, các lớp học tiền sản,
hậu sản nhằm giúp cung cấp kiến thức cũng như hướng dẫn thực hành, giải đáp
thắc mắc, tháo gỡ khó khăn trong quá trình nuôi con cho các bà mẹ là những điều
kiện không thể thiếu quyết định đến sự thành công của việc Nuôi con bằng sữa mẹ
[16], [18], [19], [22].
Ngoài ra, như đã nói ở trên, còn có các yếu tố hỗ trợ về mặt tinh thần và vật
chất/thể chất đối với người mẹ để họ an tâm và vững tin Nuôi con bằng sữa mẹ.
Dù đã được đề cập ở đâu đó trong một vài nghiên cứu tuy nhiên vẫn chưa thực sự
được quan tâm và khắc họa rõ nét. Vì vậy, trong đề tài này, tác giả sẽ đưa những
yếu tố này vào tìm hiểu sâu hơn, hy vọng phần nào làm rõ hơn ý nghĩa của những
hỗ trợ này đối với người mẹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:

3.1. Mục đích:
Tìm hiểu quan niệm, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng đến việc Nuôi con

bằng sữa mẹ ở một số phụ nữ đang nuôi con nhỏ tại Hà Nội hiện nay, từ đó đưa ra
những kết luận, khuyến nghị góp phần giúp nâng cao nhận thức của phụ nữ nói
riêng và toàn xã hội nói chung về tầm quan trọng của sữa mẹ đối với trẻ sơ sinh,
tiến tới tăng cường việc Nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam hiện nay.
-

3.2. Nhiệm vụ:
Phân tích và làm rõ khái niệm “Nuôi con bằng sữa mẹ” và một số khái niệm
liên quan.
12


-

Phân tích các tài liệu, các nghiên cứu có liên quan đến việc Nuôi con bằng

-

sữa mẹ
Thu thập và xử lý thông tin định tính về quan niệm, hành vi và những yếu tố
ảnh hưởng đến việc Nuôi con bằng sữa mẹ của một số phụ nữ đang nuôi con

nhỏ ở Hà Nội hiện nay
- Đưa ra kết luận và khuyến nghị.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Quan niệm, hành vi và những yếu tố ảnh hưởng đến việc Nuôi con bằng sữa
mẹ của phụ nữ đang nuôi con nhỏ ở Hà Nội hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể của nghiên cứu này là những phụ nữ hiện đang sinh sống trên địa bàn

thành phố Hà Nội đáp ứng các điều kiện sau:
-

Trong độ tuổi từ 18 – 35 tuổi
Sở dĩ tác giả lựa chọn độ tuổi này là bởi: thứ nhất, 18 tuổi là mốc tuổi
trưởng thành cả về mặt thể chất/sinh học cũng như về mặt pháp luật (được
phép kết hôn) ở nữ giới. Thứ hai, độ tuổi 18-35 cũng là độ tuổi thích hợp
nhất cho việc mang thai và sinh nở ở phụ nữ để đảm bảo về sức khỏe cho
người mẹ cũng như sức khỏe và sự phát triển của đứa trẻ, trẻ sinh ra sẽ ít
gặp các vấn đề về sức khỏe hơn so với các em bé được sinh ra bởi các bà
mẹ lớn hơn 35 tuổi. Thứ ba, đây cũng là độ tuổi phổ biến của các bà mẹ

-

đang nuôi con nhỏ hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Sinh con trong vòng 2 năm (24 tháng) trở lại thời điểm tiến hành nghiên cứu
Tác giả lựa chọn độ tuổi của trẻ là 2 tuổi (24 tháng) bởi đây là
khoảng thời gian tối thiểu các mẹ nên Nuôi con bằng sữa mẹ theo khuyến
cáo của tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Theo quan sát thực tế thì dường như
đây lại là mốc tối đa cho con bú của hầu hết các bà mẹ hiện nay và các
nghiên cứu về Nuôi con bằng sữa mẹ hiện có hầu như cũng không đề cập
đến số liệu có liên quan đến các bà mẹ cho con bú tới trên 2 tuổi.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
13


-

Địa điểm: thành phố Hà Nội, trong đó, lựa chọn người trả lời ở cả 2 khu vực
nội thành và ngoại thành với những khác biệt về đặc điểm kinh tế-xã hội và

đặc biệt là sự sẵn có của những hỗ trợ xã hội đối với việc Nuôi con bằng sữa
mẹ như tư vấn của cán bộ y tế, các nguồn thông tin, các lớp học tiền sản, hậu
sản... nhằm phần nào tìm hiểu những khác biệt (nếu có) trong việc Nuôi con

bằng sữa mẹ ở những phụ nữ đang nuôi con nhỏ ở 2 khu vực này.
- Thời gian tiến hành thực địa: từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 01 năm 2015
5. Câu hỏi nghiên cứu:
- Những phụ nữ tham gia vào nghiên cứu này quan niệm như thế nào về việc
Nuôi con bằng sữa mẹ?
- Những bà mẹ có con nhỏ đang nuôi dưỡng con họ như thế nào (liên quan tới
việc cho con bú sữa mẹ hay sữa công thức)? Họ có lựa chọn việc Nuôi con bằng
sữa mẹ hay không? Nếu có thì cách thức như thế nào? Vì sao những phụ nữ này
lại có những lựa chọn như vậy (có hay không Nuôi con bằng sữa mẹ)?
- Đâu là những yếu tố thúc đẩy việc Nuôi con bằng sữa mẹ?
- Đâu là những yếu tố gây trở ngại, khó khăn cho việc Nuôi con bằng sữa mẹ?
Và những phụ nữ này đã làm gì để vượt qua những khó khăn và trở ngại trong việc
này?
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài:

6.1. Phương pháp luận của đề tài:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng;
quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
Nuôi con bằng sữa mẹ, từ đó định hướng cho việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu,
luận giải các nhiệm vụ đã đề ra.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài:
Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính là chủ đạo với những phương pháp
thu thập thông tin cụ thể sau:
-

Phân tích tài liệu đối với tài liệu có liên quan đến Nuôi con bằng sữa mẹ,

trong đó bao gồm:

14


o Các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam quy định về việc nuôi

dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ nói chung và Nuôi con bằng sữa mẹ nói
riêng
o Các bài viết khoa học, các báo cáo nghiên cứu, các bài báo trong và
ngoài nước về Nuôi con bằng sữa mẹ
o Các tài liệu tuyên truyền, sản phẩm truyền thông về Nuôi con bằng
sữa mẹ, cùng những tài liệu có liên quan khác
Các tài liệu được thu thập chủ yếu từ Thư viện Quốc gia, Viện Dinh dưỡng và
một số cơ quan, tổ chức có uy tín khác trong lĩnh vực nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ
nhỏ nói chung và Nuôi con bằng sữa mẹ nói riêng. Các bài báo, báo cáo nghiên
cứu được lấy từ một số nguồn thư viện mở trực tuyến như Hinari (WHO),
PubMed, Midwifery, BMC public health, SAGE, UNICEF... Ngoài ra tác giả cũng
tham khảo thêm một số tài liệu từ một số website, diễn đàn về Bà mẹ và trẻ em có
uy tín, tương đối đáng tin cậy trên Internet hiện nay như Web trẻ thơ, Làm cha mẹ
hay Hội Nuôi con bằng sữa mẹ Việt Nam…
-

Ghi chép thực địa: tác giả kết hợp giữa việc phỏng vấn theo bản hướng dẫn
bán cấu trúc đã được soạn sẵn và việc ghi chép quan sát các yếu tố liên quan
tới phỏng vấn (khung cảnh xung quanh nơi diễn ra phỏng vấn như nhà ở hay
nơi làm việc, quan sát những diễn biến tâm lý, cử chỉ, thái độ của người trả

-


lời trong quá trình phỏng vấn không thể hiện trong băng ghi âm).
Phỏng vấn sâu (PVS) đối với 60 phụ nữ

Các cuộc PVS được thực hiện theo một quy trình nhất định. Trước hết, tác giả
và người trả lời thực hiện những thỏa thuận tham gia nghiên cứu, quá trình phỏng
vấn chỉ được bắt đầu khi người trả lời đồng ý với những thỏa thuận đó, người trả
lời hoàn toàn có quyền từ chối phỏng vấn hoặc kết thúc cuộc phỏng vấn bất cứ lúc
nào họ muốn. Sau đó, mỗi người tham gia vào các PVS đều được yêu cầu điền
một Bảng hỏi nhân khẩu học ngắn, điều này giúp nhà nghiên cứu dễ dàng tập hợp
và nắm bắt những thông tin, đặc điểm cơ bản của người trả lời trong nghiên cứu
của mình. Các cuộc PVS được ghi âm và ghi chép lại nội dung với sự đồng ý của
đối tượng tham gia. Những cuộc phỏng vấn này đều bám sát theo nội dung/chủ đề
15


trong các bản hướng dẫn PVS, mỗi cuộc diễn ra trong trong khoảng thời gian
khoảng 60 phút tại những địa điểm thuận tiện và đảm bảo sự riêng tư cho người trả
lời.
Mọi thông tin thu thập được (danh tính người trả lời, băng ghi âm và các văn
bản in ấn thu thập trên thực địa) đều được lưu trữ, bảo mật bởi nhà nghiên cứu, chỉ
được sử dụng bởi nhà nghiên cứu và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Các băng ghi âm của các cuộc PVS được gỡ băng ra dạng văn bản Word, tất cả
các nội dung ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (sự im lặng, khóc, cười…) đều được thể
hiện trong các bản gỡ băng. Việc gỡ băng được thực hiện bởi chính nhà nghiên
cứu, tất cả đều phải thực hiện cam kết về bảo mật thông tin. Các bản gỡ băng này
được “làm sạch” để đảm bảo thông tin gỡ được chính xác. Các bản gỡ băng này
kết hợp với những ghi chép thực địa của nhà nghiên cứu đối với mỗi cuộc phỏng
vấn tạo thành một bản dữ liệu tương đối hoàn chỉnh cho mỗi đối tượng tham gia
vào nghiên cứu. Quá trình xử lý và phân tích thông tin định tính được thực hiện
thủ công.

6.3. Phương pháp chọn mẫu:
Để có thể mời được những người trả lời đến từ những khu vực khác nhau, có
thể cung cấp thông tin đa dạng và toàn cảnh hơn, đề tài sử dụng phương pháp chọn
mẫu thuận tiện, có chủ đích. Người trả lời được mời tham gia vào nghiên cứu
thông qua sự hỗ trợ của các cán bộ dân số, cán bộ phụ nữ hoặc các nhà hộ sinh,
trạm y tế, trung tâm tư vấn dinh dưỡng cho trẻ nhỏ ở mỗi địa bàn dân cư.
Cụ thể, việc chọn mẫu được tiến hành như sau: các quận/huyện tham gia vào
nghiên cứu sẽ được lựa chọn tùy thuộc vào tình hình liên hệ thực tế:
-

Phỏng vấn sâu (PVS) đối với 60 phụ nữ, trong đó những phụ nữ này được
phân chia một cách tương đối vào 2 nhóm theo hành vi có liên quan tới việc
Nuôi con bằng sữa mẹ (dựa trên tính chất dễ xác định hơn khi lựa chọn
khách thể nghiên cứu trên thực địa của yếu tố hành vi so với yếu tố quan
niệm):

16


o Nhóm những phụ nữ Nuôi con bằng sữa mẹ trên 6 tháng (trong đó

Nuôi con bằng sữa mẹ bao gồm việc Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn
toàn, Nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp với sữa công thức hoặc kết hợp
với đồ ăn dặm)
o Nhóm những phụ nữ không Nuôi con bằng sữa mẹ dưới 6 tháng tính
hoặc hoàn toàn không Nuôi con bằng sữa mẹ
Số lượng các cuộc PVS được thể hiện cụ thể ở bảng bên dưới:

Phương pháp


Địa bàn

NCBSM trên 6 tháng

PVS

Nội thành
Ngoại thành

20
20

NCBSM dưới 6 tháng
hoặc không NCBSM
10
10

40

20

Tổng

Bảng mô tả đặc điểm nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu sẽ được trình bày
cụ thể ở phần Phụ lục của báo cáo này.
7. Điểm mới và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài:
7.1. Điểm mới của đề tài:
Đề tài này là một trong số không nhiều những đề tài nghiên cứu về chủ đề
Nuôi con bằng sữa mẹ ở Việt Nam. Đặc biệt, những nghiên cứu đã từng triển khai
ở nước ta về chủ đề này chủ yếu là những nghiên cứu định lượng và chủ yếu quan

tâm tới khía cạnh thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ. Ở đây, tác giả đề tài tiếp cận
vấn đề dưới góc nhìn định tính với mục đích tìm hiểu sâu về những quan niệm,
kinh nghiệm thực hành Nuôi con bằng sữa mẹ của mỗi bà mẹ ở mỗi hoàn cảnh
khác nhau, và hơn hết, tác giả đặc biệt quan tâm và muốn tìm ra đâu là những động
cơ, nguyên nhân hay những yếu tố tác động dẫn đến những lựa chọn của những bà
mẹ này có liên quan tới việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, đâu là những yếu tố
17


thúc đẩy, đâu là yếu tố gây trở ngại, khó khăn cho việc Nuôi con bằng sữa mẹ và
cách thức những bà mẹ vượt qua những khó khăn, trở ngại đó.
7.2. Ý nghĩa lý luận của đề tài:
Đề tài này góp phần bổ sung thêm vào số lượng những nghiên cứu về Nuôi
con bằng sữa mẹ ở Việt Nam hiện nay, đồng thời tạo cơ sở, nguồn số liệu cũng như
mở ra những hướng nghiên cứu mới cho những nghiên cứu tiếp theo.
7.3. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đề tài đưa ra cái nhìn rõ nét và sâu sắc hơn về những quan niệm, trải nghiệm
Nuôi con bằng sữa mẹ của một số bà mẹ đang nuôi con nhỏ ở Hà Nội cùng những
lý giải cho những hành vi, sự lựa chọn của họ trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc
con nhỏ. Từ những phát hiện của đề tài, tác giả hy vọng có thể góp thêm những
bằng chứng về tình hình Nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ ở Việt Nam nhằm giúp
ích cho quá trình thiết kế, xây dựng các chương trình can thiệp góp phần giúp nâng
cao nhận thức của phụ nữ nói riêng và toàn xã hội nói chung về tầm quan trọng của
sữa mẹ đối với trẻ sơ sinh, từ đó góp phần đẩy mạnh phong trào Nuôi con bằng sữa
mẹ ở Việt Nam trong thời gian tới. Những phát hiện của nghiên cứu này phần nào
cũng có thể tác động tới những chính sách tạo điều kiện cho việc Nuôi con bằng
sữa mẹ, khiến cho những chính sách ngày càng hoàn thiện theo chiều hướng tạo
thuận lợi hơn cho việc cho con bú sữa mẹ của các bà mẹ hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài:
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5. Câu hỏi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
8. Cấu trúc luận văn
18


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Quan niệm
1.1.2. Hành vi
1.1.3. Ảnh hưởng
1.1.4. Nuôi con bằng sữa mẹ và một số khái niệm liên quan:
1.1.4.1. Nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.4.2. Sữa công thức/sữa bột
1.1.4.3. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
1.2. Các lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết Giải thích văn hóa
1.2.2. Lý thuyết Hỗ trợ xã hội
1.3. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về NCBSM
CHƯƠNG 2: QUAN NIỆM VÀ HÀNH VI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ Ở PHỤ NỮ ĐANG NUÔI CON NHỎ Ở HÀ
NỘI HIỆN NAY
2.1. Quan niệm về việc Nuôi con bằng sữa mẹ
2.1.1. Quan niệm ủng hộ việc Nuôi con bằng sữa mẹ
2.1.2. Quan niệm không ủng hộ việc Nuôi con bằng sữa mẹ

2.2. Hành vi có liên quan đến việc Nuôi con bằng sữa mẹ
2.2.1. Hành vi ủng hộ việc Nuôi con bằng sữa mẹ
2.2.2. Hành vi không ủng hộ việc Nuôi con bằng sữa mẹ
CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC NUÔI CON
BẰNG SỮA MẸ Ở PHỤ NỮ ĐANG NUÔI CON NHỎ Ở HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Những yếu tố mang tính cá nhân
3.1.1. Độ tuổi, tình trạng thể chất, sức khỏe và tâm lý của người mẹ
3.1.2. Trình độ học vấn
3.1.3. Công việc
3.2. Những yếu tố văn hóa-xã hội
19


3.2.1. Niềm tin, chuẩn mực xã hội, quan niệm văn hóa, truyền thống
3.2.2. Khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền thông
3.3. Những yếu tố hỗ trợ xã hội
3.3.1. Hỗ trợ về mặt tinh thần
3.3.2. Hỗ trợ về mặt thể chất và vật chất
3.3.3. Hỗ trợ về mặt thông tin
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Quan niệm
Là "ý bao quát về một đối tượng nhất định do cách nhìn sự vật tạo thành
trong trí tuệ hay là cách hiểu một vấn đề" [41] hay cụ thể hơn là cách hiểu, cách suy
nghĩ của riêng mỗi người về một sự vật hiện tượng, một vấn đề nào đó.
Trong đề tài này, tác giả quan tâm tới quan niệm tức là quan tâm cụ thể tới
cách hiểu, cách suy nghĩ của các bà mẹ đang nuôi con nhỏ về Nuôi con bằng sữa
mẹ, cụ thể hơn là cách họ định nghĩa thế nào là Nuôi con bằng sữa mẹ, họ đánh giá
thế nào về Nuôi con bằng sữa mẹ và những tác động của nó, thái độ của họ đối với

việc này và đánh giá chung của họ về tình hình Nuôi con bằng sữa mẹ hiện nay.
1.1.2. Hành vi [43]
Theo Max Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội,
thậm chí ông còn nói: "Xã hội học là khoa học về hành vi xã hội". Nhà Xã hội học
T. Parsons cũng xuất phát từ hành vi xã hội để xây dựng lý luận Xã hội học của
ông. Theo quan niệm này, muốn giải thích một hiện tượng xã hội nào, phải quy về
những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một dữ kiện riêng. Nhưng
hành vi cá nhân tuyệt nhiên không phải là sản phẩm của một sự "tùy tiện" hay một
sự tư do tuyệt đối. Nó bao giờ cũng phát triển trong một hệ thống cưỡng chế ít hay
nhiều rõ rệt đối với chủ thể hành vi. Nó không phải là hoàn toàn do các cơ cấu xã
hội khách quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hóa,
20


nhưng nó không phải là hệ quả máy móc của xã hội hóa, nó còn dựa vào từ những
ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện hành vi
của chủ thể. Nói cách khác, hành vi xã hội của một cá nhân vừa mang tính khách
quan, vừa mang tính chủ quan. Cách hiểu theo quyết định luận (déterminisme)
cũng như của ý chí luận (volontarisme) đều phiến diện.
Như vậy, muốn hiểu một hiện tượng xã hội, trước hết phải hiểu những hành
vi của cá nhân tạo ra nó. Tại sao hành vi ấy xảy ra với người đó, trong hoàn cảnh
đó? Tại sao trong hoàn cảnh đó, hành vi ấy lại không xảy ra với người khác, và
ngược lại, tại sao cũng người ấy trong hoàn cảnh khác lại có hành vi khác? Hiểu
hành vi xã hội, do đó, có nghĩa là hiểu nó trong mối liên hệ cá nhân-xã hội chặt
chẽ. Hành vi cá nhân đều bao hàm những yếu tố bất biến (hằng số) của những bối
cảnh văn hóa khác nhau. Có thể coi những hằng số này hợp thành bản tính con
người, nhưng chỉ có thể hiểu được những hành vi cá nhân khi chúng tuân theo
những hằng số ấy (khoảng cách văn hóa và thời gian là một trở ngại về nhận thức
trong việc hiểu hành vi xã hội).
Trong đề tài này, tác giả quan tâm nghiên cứu tới những hành vi có liên quan

tới việc Nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ hiện nay, cụ thể là việc họ có cho con
bú sữa mẹ hay không, cho bú như thế nào và trong khoảng thời gian bao lâu. Quan
trọng hơn, tác giả quan tâm tìm hiểu trong những hoàn cảnh, bối cảnh xã hội khác
nhau (nông thôn và đô thị) thì hành vi của các bà mẹ này có giống và khác nhau gì
không và nếu có thì như thế nào; và cũng xem xét trong cùng một hoàn cảnh, các
bà mẹ có những hành vi khác nhau hay không; đồng thời đi tìm hiểu động cơ của
những hành vi đó.
1.1.3. Ảnh hưởng [43]
Trong liên hệ và giao tiếp xã hội, hành vi của người này (hay của những
người này) có tác động như một chỉ dẫn định hướng (tán thành, hay phản đối, hay
dửng dưng) đối với hành vi của người khác (hay những người khác). Tác động đó
là ảnh hưởng xã hội. Nói cách khác, ảnh hưởng xã hội bao gồm tất cả những gì tạo

21


ra một thay đổi hành vi do những sức ép chi phối trong một bối cảnh xã hội nhất
định.
Ảnh hưởng xã hội biểu hiện thành những quá trình khác nhau: bắt chước, lây
truyền xã hội, so sánh xã hội. Bắt chước không có nghĩa là sao chép nguyên xi
hành vi người khác mà là tiếp nhận những khuôn mẫu ứng xử để đi tới những hành
vi có hiệu quả hơn và hài lòng hơn (bắt chước mốt ăn mặc, chẳng hạn làm tăng
thêm sự hài lòng của người bắt chước và làm cho anh ta cảm thấy mình có giá trị
hơn đối với người khác). Lây truyền xã hội xảy ra khi những ý kiến hay những
xúc cảm nào đó từ một người (hay một số ít người), trong quá trình giao tiếp, nhân
lên thành của nhiều người, của đám đông, nhưng không phải bằng cưỡng bức.
Ảnh hưởng xã hội thường thông qua so sánh xã hội. Người ta không phải bao giờ
cũng tin chắc vào ý kiến và hành vi của mình, do đó có xu hướng tìm kiếm ở người
khác để xem ý kiến và hành vi của mình có đúng không, có được chấp nhận trong
nhóm, trong xã hội mình sống không. Nhưng đó không phải là một quá trình thụ

động. Các thí nghiệm tâm lý học xã hội cho thấy một cá nhân đã có phán xét vững
chắc của mình lại dễ tiếp nhận phán xét của người khác, hơn là một cá nhân không
tin chắc vào ý kiến của mình. Trong so sánh xã hội, ý kiến cá nhân đóng vai trò
tích cực.
Ảnh hưởng xã hội bao giờ cũng dựa vào những chuẩn mực xã hội. Sự hình
thành, củng cố hay sự thay đổi của ý kiến và hành vi cá nhân bao giờ cũng lấy
những chuẩn mực xã hội làm tiêu điểm.
Nhưng các cá nhân không chịu ảnh hưởng xã hội một cách giống nhau, ảnh
hưởng xã hội mang những hình thức khác nhau. Nó có thể được chấp nhận theo
lối khuôn phép hoặc vâng theo. Nhưng nó cũng có thể không được chấp thuận.
Đề tài này quan tâm nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng tới việc các bà mẹ
có Nuôi con bằng sữa mẹ hay không trong đó bao gồm những yếu tố liên quan tới
bản thân người mẹ như độ tuổi, tình trạng thể chất, sức khỏe, tâm lý, trình độ học
vấn, công việc; những yếu tố văn hóa-xã hội như niềm tin, chuẩn mực xã hội, quan
niệm văn hóa, truyền thống hay khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin và truyền
22


thông; và những yếu tố hỗ trợ xã hội về tinh thần, vật chất và thông tin. Đề tài đi
vào tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố và xem đâu là yếu tố có ảnh hưởng
tích cực và đâu là yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực tới những lựa chọn của các bà mẹ;
đâu là yếu tố thúc đẩy việc Nuôi con bằng sữa mẹ và đâu là yếu tố gây cản trở, khó
khăn cho việc này.
1.1.4. Nuôi con bằng sữa mẹ và một số khái niệm liên quan:
1.1.4.1. Nuôi con bằng sữa mẹ:
Theo UNICEF trong cuốn Hướng dẫn chương trình Dinh dưỡng cho trẻ sơ
sinh và trẻ nhỏ [26], Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn nghĩa là "trẻ chỉ bú sữa mẹ
(bao gồm cả sữa mẹ vắt ra bình hoặc sữa của mẹ khác) mà không cho ăn hay uống
bất cứ thứ gì khác, trừ Oresol (chất bù điện giải), thuốc, vitamin và khoáng chất."
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái niệm Nuôi con bằng sữa mẹ chứ

không chỉ có khái niệm Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn nhằm bao quát được tất
cả những bà mẹ có thời gian cho con bú sữa mẹ trên 6 tháng, kể cả cho bú mẹ kết
hợp uống sữa công thức/sữa bột; cho bú mẹ trực tiếp hay bú sữa mẹ vắt ra bình bằng tay hoặc bằng máy; cho bú sữa xin của mẹ khác... đều được xem là Nuôi con
bằng sữa mẹ.
1.1.4.2. Sữa công thức/sữa bột:
Theo ThS. Lê Nhất Phương Hồng - một chuyên gia về sữa mẹ [36], "sữa bột
cho trẻ được sản xuất lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 18 - có tên gọi gốc là Artificial
Baby Milk, có nghĩa là "sữa nhân tạo dành cho trẻ em", gọi tắt là "sữa bột cho trẻ
em", được tạo ra bằng cách phân tích thành phần hóa học của sữa mẹ và dùng sữa
của động vật khác bắt chước theo sữa mẹ. Sữa bột cho trẻ em phát triển dần cùng
với sự phát triển của công nghiệp thực phẩm, cụ thể là phương pháp thanh trùng và
sử dụng các chất bảo quản, phương pháp đông đặc và chưng khô."
"Trong khoảng 10 năm trở lại đây, tên gọi "sữa công thức" được các hãng
sữa tiếp thị rầm rộ để thay thế tên gọi "sữa nhân tạo cho trẻ em", khiến nhiều người
dùng thay đổi thái độ đối với loại hàng hóa này một cách vô thức. Vì tên gọi "sữa
nhân tạo" có hàm ý hàng nhái, không tự nhiên, không tươi nguyên. Trong khi đó,
23


tên gọi "sữa công thức" mang dáng vẻ cao cấp, khoa học hiện đại". Ở Việt Nam,
năm 2013, các sản phẩm sữa công thức thay thế sữa mẹ thậm chí đã được đổi tên
thành "thực phẩm bổ sung" hay "sản phẩm dinh dưỡng", điều này khiến những sản
phẩm này nằm ngoài sự kiểm soát của Bộ Tài chính về giá cả, đồng thời "ảnh
hưởng đến việc thực thi Luật Quảng cáo, trong đó quy định cấm quảng cáo các sản
phẩm thay thế sữa mẹ cho trẻ em dưới 24 tháng tuổi, có hiệu lực từ tháng 1 năm
2013".
1.1.4.3. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ:
Theo tổ chức UNICEF [26], trẻ sơ sinh (infant) là trẻ trong độ tuổi từ khi
mới sinh ra đến 12 tháng tuổi và trẻ nhỏ (young child) là trẻ trong độ tuổi từ trên
12 tháng đến 36 tháng tuổi. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, tác giả chỉ giới hạn

độ tuổi của trẻ nhỏ đến 24 tháng tuổi (tức 2 tuổi) dựa trên khuyến cáo của tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) về việc nên cho trẻ bú sữa mẹ tới 2 tuổi và cũng dựa trên tình
hình thực tế là 2 tuổi là mốc thời gian cho con bú sữa mẹ tối đa của hầu hết các bà
mẹ hiện nay.
1.2. Các lý thuyết
1.2.1. Lý thuyết Giải thích văn hóa
Theo Từ điển Xã hội học Oxford [35], "khi các nhà khoa học xã hội sử dụng
thuật ngữ Văn hóa thì họ có xu hướng nói về một khái niệm có giới hạn rộng hơn
so với những gì ngụ ý trong ngôn ngữ thường ngày. Trong khoa học xã hội, văn
hóa là tất cả những gì hiện diện trong xã hội loài người, những cái được chuyển
giao bằng con đường xã hội hơn là bằng con đường sinh học, trong khi đó việc sử
dụng thuật ngữ này trong ngôn ngữ thường ngày có xu hướng chỉ nói về văn học
nghệ thuật. Văn hóa vì thế là một thuật ngữ tổng quát để chỉ nhưng khía cạnh
mang tính biểu trưng và do học hỏi mà có của xã hội loài người, mặc dù một số
nhà nghiên cứu về hành vi động vật ngày nay khẳng định một số loài động vật linh
trưởng cũng có đôi chút năng lực văn hóa."
"Các quan điểm nhân học xã hội về văn hóa phần lớn dựa vào định nghĩa do
Edward Taylor đưa ra vào năm 1871, trong đó, ông đề cập đến văn hóa như một
24


phức hợp của tri thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp và tập quán do học
hỏi mà có. Định nghĩa này ngụ ý rằng văn hóa và văn minh là một và đồng nhất...
Trong khảo cổ học, mặc dù thừa nhận tính tổng thể của xã hội loài người, nhưng
cũng phân biệt giữa văn hóa vật thể (hay những đồ tạo tác) với những tập quán,
niềm tin, tức văn hóa phi vật thể hay văn hóa thích nghi được chuyển giao bằng
giáo dục và truyền thống. Các nhà khảo cổ học chỉ tiếp cận văn hóa vật thể, còn
văn hóa thích nghi là đối tượng của sử học, xã hội học và nhân học."[35]
"Ở Mỹ, đôi khi người ta cho rằng khái niệm văn hóa có thể cung cấp những
cách giải thích và thấu hiểu hành vi của con người, của các hệ thống niềm tin, các

giá trị và các hệ tư tưởng, cũng như những dạng nhân cách đặc thù về phương diện
văn hóa." [35]
Đồng quan điểm với Edward Taylor, Roger M.Keesing cho rằng "văn hóa
bao gồm các hệ tư tưởng cùng được chia sẻ, là hệ thống các khái niệm, những quy
định và ý nghĩa làm nền tảng cho cuộc sống và được thể hiện qua lối sống của mỗi
người" [7]. Như vậy, những thuộc tính của văn hóa phải được các thành viên của
một xã hội hay cộng đồng cụ thể cùng chia sẻ với nhau và có giá trị như là một
khái niệm trung tâm để giải thích lý do của những hành vi mà mỗi cá nhân trong
cộng đồng xã hội đó thực hiện.
Trong lĩnh vực sức khỏe, quan niệm, nhận thức về những vấn đề liên quan
tới sức khỏe và cách thức mà mỗi người lựa chọn để giữ gìn sức khỏe, đề phòng
bệnh tật, tai nạn hay ứng phó khi mắc bệnh, chấn thương xảy ra có căn nguyên từ
bản chất văn hóa và sự chi phối của văn hóa tới cách ứng xử đối với sức khỏe và
bệnh tật của con người trong từng hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, xã hội. Thuyết văn
hóa khi giải thích về nguy cơ sức khỏe cho rằng những cách thức mà mỗi người
thực hiện không thể được hình thành độc lập với bối cảnh xã hội [8]. Điều này có
nghĩa là mối quan tâm đến tình trạng sức khỏe và việc lý giải về các phương thức,
hành vi thực hiện liên quan đến sức khỏe của mỗi cá nhân có liên quan sâu sắc đến
đặc trưng văn hóa. Tiếp cận giải thích văn hóa là cách phiên giải ý nghĩa của hành
vi, của cách thức ứng xử có liên quan đến sức khỏe. Việc quan trọng là cần phải
25


×