Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

KHÓA LUẬN quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh thanh hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.97 KB, 88 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm luôn là nhiệm vụ cấp bách trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam, với cơ cấu lao động trẻ, nguồn lao động dồi dào thì giải quyết việc
làm cho người lao động đang là vấn đề rất được quan tâm của toàn xã hội.
Nhằm thực hiện thành công mục tiêu CNH, HĐH đất nước, trước hết cần tận
dụng những lợi thế của quốc gia, trong đó có nguồn lao động. Việc tận dụng
nguồn lao động là làm thế nào để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nói
chung và lao động nông thôn nói riêng, đó chính là con đường thoát nghèo,
bảo đảm an sinh, trật tự an toàn xã hội của nước ta nói chung.
Việt Nam với cơ cấu dân số trẻ, dân số trong độ tuổi lao động chiếm trên
62,1 triệu người. Tại Việt Nam có tới 80% dân số và 70% lao động sống và làm
việc tại nông thôn. Trong cả nước trung bình mỗi năm có khoảng 6 - 7 triệu lao
động dư, không có việc làm thường xuyên, trong số đó có 50% lao động có
việc làm từ 4 - 5 tháng/năm. Hàng năm lao động cả nước tăng từ 3,4 - 3,5%
trong đó nguồn lao động nông thôn đã tăng nửa triệu. Cùng với sự tăng dân số
và quá trình đô thị hóa ngày càng cao dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp bình
quân trên đầu người giảm xuống, tình trạng đất chật người đông, thiếu việc làm
là một tất yếu. Để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, trong nhiều năm
qua, nhà nước tìm kiếm và thực hiện nhiều giải pháp khác nhau, bên cạnh đó là
chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển dần lao
động nông thôn sang nghề dịch vụ và các ngành phi nông nghiệp. Do chịu ảnh
hưởng bởi nhiều nguyên nhân vì thế mà quá trình chuyển đổi này diễn ra một
cách chậm chạp. Vì vậy, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là vấn đề
phải được được quan tâm, nghiên cứu và tìm ra các biện pháp hữu hiệu để sử


2



dụng nguồn lao động nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng một
cách hiệu quả. Đồng thời các biện pháp phải bảo đảm tính lâu dài để phục vụ
sự sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn.
Mỗi vùng kinh tế có những đặc thù riêng, vì thế việc nghiên cứu phải
gắn sát với sự phát triển của địa bàn nghiên cứu để có thể đưa ra những giải
pháp, chính sách hiệu quả giải quyết việc làm cho lao động mỗi vùng miền.
Thanh Hóa là một tỉnh thuộc Bắc trung bộ của Việt Nam, với nhiều tiềm
năng thế mạnh trên cả ba vùng biển, đồng bằng, trung du miền núi nhưng
chưa được khai thác và phát huy hiệu quả, do đó hiện nay Thanh Hóa vẫn là
một tỉnh nghèo. Một trong số những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là
do nguồn nhân lực của tình chưa được sử dụng hiệu quả, lao động nông thôn
của tỉnh Thanh Hóa chiếm tới 80% lao động trong toàn tỉnh nhưng giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn lại chưa được quan tâm đúng mức.
Lao động nông thôn là nguồn lao động chủ yếu, đóng vai trò quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, do đó giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của tỉnh Thanh Hóa.
Tham gia và hoạt động giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa
bàn tỉnh có nhiều chủ thể trong xã hội cùng tham gia, trong đó Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo và trung tâm. Nhà nước tham gia vào quá trình này với vai
trò quản lý, điều tiết nhằm bảo đảm hoạt động giải quyết việc làm cho lao
động nông diễn ra theo đúng quy định của pháp luật và bảo đảm hiệu quả
trên thực tế. Nhưng thực tế trong những năm gần đây, hoạt động quản lý nhà
nước về giải quyết việc làm của chính quyền tỉnh Thanh Hóa chưa thực sự
hiệu quả, việc làm và thu nhập của lao động nông thôn trên địa bàn bản tỉnh
vẫn chưa được bảo đảm.
Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay”



3

làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp đại học ngành chính trị học,
chuyên ngành khoa học quản lý nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là
vấn đề được rất nhiều tác giả quan tâm. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
hiện nay, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển thì vấn đề việc làm cho
lao động nông thôn ngày càng được đề cập nhiều dưới góc độ khác nhau,
trong đó có một số công trình, tác giả có những bài viết về vấn đề này, tiêu
biểu như:
TS. Nguyễn Hữu Dũng – TS. Trần Hữu Trung (1997); chính sách giải
quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trj quốc gia, Hà Nội.
Tác giả Vũ Tiến Quang (2006); việc làm ở nông thôn, thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Thị Thơm, Phí Thị Hằng (đồng chủ biên) (2009); Giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
Các tác giải nêu trên đã trình bày một cách chi tiết, khoa học những vấn
đề lý luận cơ bản nghiên cứu về những chính sách mới để công tác giả quyết
việc làm nói chung và việc làm cho từng thành phần lao động nói riêng, trong
đó có việc làm cho lao động nông thôn ở Việt Nam. Từ đó đề xuất những giải
pháp, chính sách cụ thể góp phần hoàn thiện hệ thống pháp lý, làm cơ sở mở
ra hướng giải quyết việc làm cho lao động ở Việt Nam, trong đó có lao động
khu vực nông thôn. Đặc biệt cuốn sách “Việc làm ở nông thôn, thực trạng và
giải pháp” của tác giả Vũ Tiến Quang đã phân tích, chỉ rõ những mục tiêu,
giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả tạo việc làm nâng cao thu nhập cho
người dân nông thôn. Bên cạnh đó, tác giả đưa ra định hướng những nhiệm vụ
cụ thể và đề xuất giải pháp là đẩy mạnh sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự



4

vào cuộc của các cấp chính quyền địa phương đối với công tác giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn.
Giải quyết việc làm, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện nay
(2005) của tác giả Vũ Văn Phúc, Tạp chí Châu Á - Thái Bình Dương, số 42;
Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn (2008) của tác giả Vũ Đình
Thắng, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 19;
Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho
giai đoạn phát triển 2001 – 2005 (2001) Bùi Văn Quán, Tạp chí Lao động và
xã hội, số 12.
Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay (2003) của
GS.TS Phạm Đức Thành, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 298.
Các bài báo nêu trên tác giả đã đã làm rõ tính tất yếu khách quan của
quản lý nhà nước về việc làm cho lao động khu vực nông thôn. Các tác giả đã
nhấn mạnh các điều kiện cần thiết để tạo ra những việc làm tại chỗ, sự vào
cuộc của chính quyền trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Qua
đó các tác giả đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước về
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên
hiện nay, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, ngành kinh tế của tác giả Phạm Thị Nga
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2011.
Tác giả đã khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm và các
nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay để làm
cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở nông thôn Thái
Nguyên. Đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn tỉnh Thái
Nguyên, tìm ra nguyên nhân của thực trạng. Qua đó tác giả đã đưa ra một số
giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao
động ở nông thôn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.



5

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn Hòa Vang,
Thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ kinh tế chuyên ngành kinh tế phát
triển của tác giả Hoàng Tú Anh tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2012.
Tác giả đã làm rõ hơn cơ sở lý luận về giải quyết viện làm cho lao động
nông thôn, nêu thực trạng công tác giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
ở huyện Hòa Vang thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Tác giả cũng cho
rằng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là tất cả các việc làm ở nông
thôn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, mặt khác tác giả cũng đưa ra được ý
kiến về việc dư thừa lao động ở nông thôn hiện nay đang được coi là một vấn
đề đáng báo động. Một trong số các nguyên nhân tác giả nêu ra là do nhiều
làng nghề truyền thống mai một làm cho lao động nông thôn gặp khó khăn
trong tìm kiếm việc làm thường xuyên, dẫn tới các tệ nạn xã hội. Trong đề tài
của mình tác giải cũng đã đề xuất một số giải pháp giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn là sự thể hiện vai trò của xã hội đối với người lao động nông
thôn và hạn chế những phát sinh, tiêu cực cho xã hội do thiếu việc làm gây ra.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở huyện Tam Nông tỉnh Phú
Thọ hiện nay, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Út tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2015.
Trên cơ sở hệ thống một số vấn đề cơ bản luận văn phân tích thực trạng
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn huyện Tam nông, tỉnh
Phú Thọ. Chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở nông thôn hiện nay. Từ đó, đề xuất
một số phương hướng, giải pháp chủ yếu để tạo việc làm cho lao động nông
thôn ở huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ trong những năm tới.
Quản lý xã hội về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Thái Nguyên hiện nay, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý xã hội của

tác giả Phan Thị Thúy tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2014.


6

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý xã hội về giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn. Đánh giá thực trạng quản lý xã hội về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên. Đề xuất phương hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng quản lý xã hội về giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu khoa học của các công trình khoa học nêu trên có
giá trị tham khảo tốt để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của khóa luận. Nhưng
thực tế tới thời điểm hiện tại chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách toàn diện lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Đây là một đề tài mới,
không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu vấn đề việc làm và giải
quyết việc làm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục đích đó, đề
tài cần hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận quản lý nhà nước về giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn;
Hai là, khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay;
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh
Hóa giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là: lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa.


7

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: công tác quản lý nhà nước về giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu quá trình thực hiện hiện các nội dung của
quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Thanh Hóa.
Phạm vi về không gian: đề tài nghiên cứu khu vực nông thôn của tỉnh
Thanh Hóa.
Phạm vi về thời gian: từ năm 2011 đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước
về giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho lao động nông thôn
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu khóa luận
là: chủ nghĩa duy vật biến chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó
tác giả còn sử dụng các phương pháp logic - lịch sử, phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp thống kê.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn.

Đề tài góp phần tổng kết đánh giá những kết quả và hạn chế trong quản
lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2011 - 2015.


8

Đề tài đề xuất giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà
nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Khóa luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác
nghiên cứu quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn.
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho xây dựng, hoạch định chủ
trương chính sách và giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện
nay và định hướng những năm tiếp theo.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài có phần nội
dung được kết cấu thành 3 chương và 9 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh
Thanh Hóa.


9


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước
Để nghiên cứu khái niệm quản lý nhà nước, trước hết cần làm rõ khái
niệm “quản lý”. Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác
nhau tuỳ theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người
nghiên cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội
và khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới
góc độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt
động của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C. Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn
đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ
quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một
dàn nhạc phải có nhạc trưởng” [16, tr.23]. Tức theo Mác quản lý là nhằm
phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình
sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của
quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục
đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.



10

Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động
của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp
cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các
lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự
tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các
mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc
XHCN” [13, tr.30]. Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực
nhà nước, được sửa dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của nhà nước
trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt quản lý
nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến hoạt động tư pháp.
Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động hành pháp.
Quản lý nhà nước được đề cập trong đề tài này là khái niệm quản lý
nhà nước theo nghĩa hẹp. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết
được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, nhưng trực tiếp là các cơ
quan hành pháp. Bên cạnh đó có sự phối kết hợp của các cơ quan nhà nước
khác, các tổ chức chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân.
Như vậy, quản lý nhà nước là sự tác động tổ chức và điều chỉnh mang
tính quyền lực nhà nước của cơ các cơ quan Nhà nước đối với các quá trình



11

xã hội; đó là những tác động có căn cứ khoa học và có tính kế hoạch, được
tiến hành một cách liên tục để thực hiện các quá trình phát triển xã hội.
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nước ta rút ra các đặc điểm của quản
lý nhà nước như sau:
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và
tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập
trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được
hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người
với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được
hiểu là nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý
phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng
trong xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này
đỏi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối lên đối
tượng quản lý phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế
hoạch được vạch ra từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên
các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động
biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra
thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải
có tính ổn định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết
định của nhà nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt
động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.
1.1.2. Lao động và lao động nông thôn
Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng nói
chung lao động là hoạt động đặc thù của con người, là ranh rới để phân biệt



12

con người với con vật. Bởi vì, lao động của con người là lao động có mục
đích, ý thức, tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật thể của
tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người.
Theo C. Mác: “Lao động là hoạt động có mục đích để sáng tạo ra
những giá trị sử dụng và lao động là sự kết hợp giữa sức lao động của con
người và tư liệu lao động để tác động vào đối tượng lao động”. C. Mác đã
nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên,
một quá trình trong đó sức lao động của chính mình, con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên”.
Ph. Ăng ghen viết: “Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi
của cải. Lao động dung là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp
những vật liệu cho lao động để biến thành của cải. Nhưng lao động còn là
một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên
của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người”.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lê nin, Nxb Chính trị Quốc gia –
1999 có viết: “Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội”.
Theo Bộ luật Lao động năm 2012 của Việt Nam: “lao động là hoạt
động quan trọng nhất của người tạo ra của của cải vật chất và giá trị tinh
thần của xã hội” [18. tr13].
Lao động của con người hết sức quan trọng trong quá tình tạo ra của cải
vật chất. Thông qua lao động, con người tác động vào các vật chất tự nhiên,
biến đổi nó cho phù hợp với nhu cầu của con người. Quá trình đó con người
ngày càng phát hiện được những đặc tính, những quy luật của giới tự nhiên,
từ đó đã không ngừng thay đổi phương thức tác động vào thế giới tự nhiên,

cải tiến các thao tác và các công cụ lao động của họ ngày càng hiệu quả. Như


13

vậy, con người và tự nhiên có mối quan hệ hữu cơ với nhau trng quá trình con
người phát triển hướng tới hướng tới một xã hội văn minh hiện đại. Trong đó,
người lao động không chỉ nâng cao được trình độ hiểu biết về giới tự nhiên
mà còn cả kiến thức về xã hội và nhân cách đạo đức. Từ đó có thể thấy, lao
động là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung
và con người nói riêng.
Để tiến hành hoạt động lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần,
người lao động cần phải có sức lao động phù hợp để đáp ứng nhu cầu công
việc. Sức lao động là toàn bộ thể lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong con người.
Sức lao động là năng lực tiền ẩn trong mỗi người lao động, đánh giá
năng lực đó là quá trình hết sức phức tạp và đòi hỏi phải có một sự nhìn nhận
khách quan mang ý chí tư duy logic. Tuy nhiên, người ta thường dùng ba tiêu
chí cơ bản như sau để đánh giá về sức lao động, đó là: thể lực. trí lực và tâm
lực. Thể lực, con người có sức khỏe tốt thì mới có khả năng lao động với
năng suất cao và học tập đạt kết quả tốt. Trí lực, không phải là một loại năng
lực đơn độc, nó là sưc mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Trí lực bao
gồm sức quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ
năng thực hành và sức sáng tạo, trí lực là sự phối kết hợp của các loại năng
lực đó. Tâm lực là nhân cách, đạo đức và lối sống của con người, là phương
thức cư xử của con người với cộng đồng và xã hội.
Cho đến nay gần như chưa có định nghĩa hoàn chỉnh nào về nông thôn
được chấp nhận rộng rãi. Một số nhà khoa học đưa ra khái niệm về nông thôn
như sau: Nông thôn là vùng khác với thành thị ở chỗ ở đó có cộng đồng chủ
yếu là nông dân sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, cơ cấu hạ tầng kém
phát triển hơn, có trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn.

Với khái niệm như trên có thể phân tích đặc trưng chủ yếu của nông
thôn và so sánh với thành thị đó là:


14

Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng chủ yếu là
nông dân, là vùng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Với mọi vùng nông thôn
thì nông nghiệp luôn là ngành có vai trò quan trọng.
Nông thôn là vùng có cơ sở hạ tầng kém hơn thành thị và sản xuất hàng
hóa kém hơn.
Nông thôn là vùng có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ văn hóa,
khoa học và công nghệ thấp hơn thành thị. Nông thôn có tính đa dạng về tự
nhiên, đa dạng về kinh tế và xã hội, đa dạng về quy mô và trình độ phát triển,
… giữa các vùng nông thôn khác nhau thì tính đa dạng cũng khác nhau. Nông
thôn mang những bản sắc văn hóa của mỗi làng, bản được duy trì vững chắc,
trở thành truyền thống văn hóa của mỗi vùng, mỗi làng quê nông thôn.
Nông thôn là nơi chiến giữ tuyệt đại bộ phận tài nguyên của đất nước,
từ rừng núi, sông biển, với các loại hải sản, động vật thực vật, tới các khoáng
sản, kim loại quý, hiếm… Vì vậy, nông thôn có vai trò quan trọng trong việc
quản lý, khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên để phát triển bền vững và toàn
diện đất nước.
Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động và tham
gia hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong
nông thôn.
Có nhiều loại việc làm diễn ra trong nông thôn, nó phản ánh tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Việc làm của người lao
động ở nông thôn lại gắn với đặc thù của lực lượng lao động ở nơi đây, với
điều kiện tự nhiên họ sinh sống.

Lao động nông thôn phần lớn làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, do có những đặc điểm khác với với đặc điểm của các ngành khác. Vì
vậy, lao động nông thôn có những nét đặc thù riêng, không giống với lao động


15

làm việc ở khu vực thành thị và ở các lĩnh vực kinh tế khác. Cụ thể được biểu
hiện ở các đặc điểm sau:
Lao động nông thôn sống và làm việc rải rác trên địa bàn rộng. Đặc
điểm này làm cho việc tổ chức hiệp tác lao động và việc bồi dưỡng đào tạo,
cung cấp thông tin cho lao động nông thôn rất khó khăn.
Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo chiếm một tỉ lệ thấp. Lao động
nông thôn chủ yếu học nghề qua việc hướng dẫn của các thế hệ đi trước hoặc
hoặc tự truyền cho nhau nên lao động truyền thống và thói quen vẫn là chủ
yếu. Điều đó làm cho lao động nông thôn có tính chất bảo thủ nhất định, tạo
ra sự khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản suất và thực hiện phân
công lao động, hạn chế sự phá triển kinh tế nông thôn.
Nếu xét trên góc độ trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật của người
lao động thì có thể thấy rằng vẫn còn khoảng cách khá xa về chất lượng lao
động giữa thành thị và nông thôn.
Bảng 1.1. Tỉ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền linh tế
đã qua đào tạo phân theo thành thị và nông thôn Việt Nam
Năm

2011

2012

2013


2014

Cư trú
Cả nước
Thành thị
Nông thôn

15,4
30,9
9,0

16,6
31,7
10,1

17,9
33,7
11,2

18,5
34,9
12,4

2015
19,9
35,8
13,8
Nguồn: [20, tr.23]


Theo số liệu thống kê về lao động – việc làm ở Việt Nam, trình độ văn
hóa phổ biến của lao động nông thôn là ở mức tốt nghiệp tiểu học và trung
học cơ sở, số lao động này ở nông thôn chiếm tới 60% lao động ở nông thôn.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ chưa qua đào tạo ở nông thôn còn
khá lớn.


16

Qua bảng số liệu trên cho thấy, lao động đã qua đào tạo năm 2011 đang
làm việc là 15,4% thì đến năm 2015 tăng lên 19,9%. Trong đó, Tỉ lệ lao động
nông thôn đã qua đào tạo là rất thấp 9,0% năm 2011 và 13,8% năm 2015. Tỉ
lệ đã qua đào tạo còn thấp sẽ là một trong những cản trở trong quá trình phát
triển kinh tế ở nông thôn hiện nay.
Bên cạnh hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật, lao động nông thôn
còn hạn chế bởi thể lực. Thể lực của người lao động bao giờ cũng gắn với
điều kiện sống và chế độ chăm sóc sức khỏe. Mặc dù hiện nay đời sống của
ngườ dân ngày càng được nâng lên về cả vật chất lẫn tinh thần, thẻ lực của
người lao động được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, các dịch vụ khám chữa
bệnh cho người dân ở nông thôn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Lao động nông thôn mang tính thời vụ rõ rệt đặc biệt là các vùng thuần
nông. Do vậy việc sử dụng lao động nông thôn kém hiệu quả, hiện tượng
thiếu việc làm là phổ biến. Vì vậy, muốn giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho lao động nông thôn thì phải bằng mọi biện pháp nhằm hạn chế tới mức tối
đa tính thời vụ.
Lao động nông thôn có khả năng tiếp cận và tham gia thị trường kém,
thiếu khả năng nắm bắt và xử lý thông tin thị trường, khả nagw hoạch toán
hạn chế. Do đó khả năng giao lưu và phát triển sản xuất hàng hóa hạn chế,
khả nagw tự tạo việc làm gặp rất nhiều khó khăn.
1.1.3. Việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn

Việc làm là một vấn đề lớn luôn được các quốc gia, dân tộc và đặc biệt
là người lao động quan tâm. Bởi cuộc sống của bản thân và gia đình người lao
động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại và phát triển của mỗi
quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm.
Với tầm quan trọng như vậy việc làm được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau.


17

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia và mỗi cách tiếp cận khác
nhau, việc làm được hiểu theo nhiều nghĩa, chứa đựng những nội dung
không đồng nhất.
Các nhà kinh tế Anh cho rằng: việc làm, theo nghĩa rộng, là toàn bộ các
hoạt động kinh tế của một xã hội, nghĩa là tất cả những gì liên quan đến cách
kiếm sống của một con người, kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn
hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế. Theo quan điểm này thì tất
cả các hoạt động tạo ra thu nhập mà không cần phân biệt có được pháp luật
cho phép hay bị ngăn cấm, đều được gọi là việc làm. Quan điểm này chỉ đặt
nặng vấn đề kinh tế của việc làm, trong khi đó, tính pháp lý là một trong
những nguyên tắc cơ bản để xác định là việc làm thì chưa được đề cập đến.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã dưa ra quan niệm: Người có việc làm là những người làm một việc
gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các
hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình,
không nhận được tiền công hay hiện vật.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung, “việc làm là là
hoạt động lao động được thể hiện ở một trong ba dạng sau: làm các công
việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc hiện vật cho công việc đó;
Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân; Làm các công việc cho gia

đình” [3, tr.52]. Với quan điểm này, vấn đề việc làm được quan niệm một
cách rộng rãi hơn. Ở đây ngoài những hoạt động mang lại thu nhập (như tiền
công, tiền lương, lợi nhuận), các công việc gia đình tuy không trực tiếp mang
lại thu nhập nhưng cũng được coi là việc làm. Song quan điểm này vẫn còn
chưa đề cập đến một số hoạt động khác như hoạt động của các lực lượng vũ
trang, của những thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự. những hoạt động
mang lại lợi ích to lớn cho xã hội như vậy phải được xem là việc làm. Hơn


18

nữa quan điểm này cũng không dề cập đến tính pháp lý của việc làm, tức hoạt
động mang lại thu nhập nhưng phải được luật cho phép.
Giáo trình Kinh tế lao động của của trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội viết: “Sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến
đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người được hiểu là việc làm”
[8, tr.25]
Ngày nay các quan niệm về viêc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn
và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập mà
không bị pháp luật cấm. Khoản 1, Điều 9, Chương II Bộ luật Lao động Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2012 quy định: “Việc làm là hoạt
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm” [19, tr.13].
Theo quan niệm trên, việc làm là các công việc để nhận tiền công, tiền
lương hoặc hiện vật cho công việc đó. Làm những công việc tự làm mang lại
lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả
những công việc không được trả công bằng hiện vật. Như vậy, một hoạt động
được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo thu nhập cho người lao động và
cá thành viên trong gia đình;
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị

pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ cho
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm đó đã góp phần mở rộng
quan hệ về việc làm, khi đa số lao động hiện nay chỉ muốn tìm kiếm việc làm
trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan niệm của Bộ
luật Lao động đã nêu ra đầy đủ các yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
Khái niệm việc làm được đưa ra trong Bộ luật Lao động của Việt Nam
là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Rong


19

nền kinh tế thị tường định hướng xã hội chủ nghĩa, người lao động có thể làm
bất cứ việc gì, bát cứ ở đâu, miễn là không vi phạm pháp luật để mang lại thu
nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm trên đã mở ra một hướng mới cho vấn
đề gải quyết việc làm phong phú và đa dạng.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, địa
phương và trong một thời kỳ nhất định người ta còn quan tâm đến các vấn đề
việc làm và việc làm đầy đủ. Việc làm đầy đủ có thể hiểu là sự thỏa mãn nhu
cầu về việc làm của người lao động. Mội người lao động có thể tìm kiếm
đucợ việc làm một cách nhanh chóng. Tuy nhiên mức độ bảo đảm việc làm
cho người lao động còn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Thiếu việc làm là tinhd trạng người lao động không đủ việc làm
theo thời gian quy ddingj trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc
có thu nhập quá thấp không bảo đảm cho cuộc sống nên có nhu cầu làm việc
để tăng thu nhập.
Giải quyết việc làm là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm
và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng
và xã hội. Mục tiêu giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho
người lao động và cao hơn nữa là, phải tạo a việc làm được tự do lựa chọn để

thực hiện giải phóng sức lao động.
Giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của một con
người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy,
giải quyết việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở
chỗ tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó có
quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia
đình gớp phần xây dựng quê hương đất nước. Giải quyết việc làm không chỉ
dừng lại ở tạo việc làm đầy đủ cho mọi người lao động mà phải không ngừng
nâng cao chất lượng việc làm, việc làm có giá trị cao. Việc làm được tạo ra


20

phải bảo đảm tính lựa chọn và tính nhân văn để lao động không chỉ là phương
tiện để sinh sống mà còn là nhu cầu đầu tiên của mỗi người.
Giải quyết việc làm có thể hiểu ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và
chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kĩ thuật
áp dụng trong sản xuất và quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra được số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao
động phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao
động và sự di chuyển của lao động. Chất lượng lao động phụ thuộc vào sự
phát triển của giáp dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khỏe
cộng đồng.
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu
quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật… nhằm nâng cao hiệu
quả của việc làm.
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động
gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Trong Bộ
luật lao động 2012, chương II điều 9 có quy định: “Nhà nước, người sử dụng

lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho
mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm” [19, tr.13]. Giải
quyết việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng
lao động và vai trò của nhà nước.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là một quá trình tác động có chủ
đích của chủ thể xã hội và người lao động. Nhằm giúp người lao động có việc
làm, việc làm đầy đủ có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao
chất lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống
vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội có
liên quan đến công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Đó không chỉ là sự quan


21

tâm của người lao động, gia đình, mỗi quốc gia mà là vấn đề mang tính chất
toàn cầu. Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu và thước đo quan
trọng nhất để đánh giá tính ưu việt của một chế độ xã hội, trình độ văn minh
của nhân loại. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm,
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển bền vững.
“Người có việc làm là những người đang làm việc trong thời gian quan
sát và những người đó có việc làm nhưng hiện đang nghỉ tạm thời vì lý do
như đau ốm, đình công, nghỉ hè, nghỉ lễ, trong thời gian sắp xếp lại sản xuất,
do thời tiết xấu, máy móc hư hỏng v.v.” [9, tr.23].
“Người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả nagw
lao động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm” [22, tr.177].
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là giải quyết vấn đề thất
nghiệp của lao động nông thôn, tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn.
Làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, tìm ra việc làm mới, sắp xếp, bố trí việc làm phù
hợp cho lao động nông thôn.

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn chính là việc tạo ra các cơ
hội để lao động nông thôn có việc làm, tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của
bản thân, gia đình và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là nhằm khai thác
triệt để tiền năng lao động ở nông thôn, tạo ra những việc làm phù hợp. Chính
vì vậy, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với người lao động, tạo cho họ cơ hội thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có thể được hiểu ở một số
khía cạnh sau đây:
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là tạo ra số lượng và chất
lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào


22

vốn đầu tư, tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng
quản lý, sử dụng các tư liệu sản xuất đó.
Tạo ra số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động phụ thuộc
vào quy mô, tốc độ tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động và di dân. Chất
lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục và đào tạo, y tế, thể
dục thể thao và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm cho lao động nông thôn ổn
định đạt hiệu quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, quả lý nguồn lao
động… nhằm nâng cao hiệu quả việc làm cho lao động nông thôn. Giải quyết
việc làm nói chung và cho lao động nông thôn nói riêng cần phải được xem
xét ở cả phía người lao động, người sử dụng lao động, nhà nước và các chủ
thể khác trong xã hội.
1.2. Khái niệm và nội dung quản lý nhà nước về giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn

1.2.1. Khái niệm
Cho đến nay, chưa có một khái niệm đầy đủ của quản lý nhà nước về
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Theo các khái niệm liên quan đã
được đưa ra, tác giả quan niệm như sau: Quản lý nhà nước về giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn là sự tác động và điều chỉnh bằng quyền lực nhà
nước tới các hoạt động giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, nhằm
đem lại năng suất lao động cao.
Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn gồm
có bốn yếu tố cơ bản sau:
Chủ thể quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn là bộ máy quản lý nhà nước về lao động và việc làm gồm: Chính phủ; Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội; UBND các cấp, cơ quan chuyên môn quản
lý nhà nước về lao động và việc làm thuộc UBND.


23

Đối tượng của quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn bao gồm toàn bộ các hoạt động liên quan đến giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn của các chủ thể trong xã hội.
Mục tiêu của quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn là bảo đảm các nội dung quản lý nhà nước về lao động và việc làm
được thực hiện hiệu quả trên thực tiễn. Qua đó, lao dộng nông thôn được sử
dụng hợp lý, hiệu quả, năng suất lao động tăng lên, ổn định phát triển cả về
kinh tế và các lĩnh vực khác của xã hội.
Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý thông qua các chính sách vĩ mô,
hệ thống pháp luật về lao động và việc làm cùng với các chính sách pháp luật
có liên quan.
1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước
Tham gia vào quá trình giải quyết việc làm cho lao động nông thôn có

rất nhiều chủ thể trong xã hội. Trong đó nhà nước giữ vai trò trung tâm, thực
hiện quản lý hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền
và lợi ích của người lao động. Xuất phát từ tính đa dạng về chủ thể tham gia
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, dẫn đến tính phức tạp trong quản
lý hoạt động này. Về phía người sử dụng lao động, nếu không có sự giám sát
và quản lý của nhà nước, có thể sẽ xảy ra tình trạng cố tình hoặc vô tình xâm
phạm quyền, lợi ích của người lao động. Về phía người lao động, sự định
hướng của nhà nước về ngành nghề, góp phần hạn chế những rủi ro trong tìm
kiếm việc làm, có điều kiện để thực hiện các quyền lợi chính đáng của mình.
Về phía nhà nước, quản lý hoạt động giải quyết việc làm không những chỉ
giải quyết đơn thuần về mặt kinh tế, bên cạnh đó nó còn tạo ra sự cân bằng
cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò trung tâm
trong quá trình quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nói
chung và lao động nông thôn nói riêng. Nhà nước với vai trò vừa là chủ thể


24

giải quyết việc làm vừa là chủ thể quản lý hoạt động giải quyết việc làm của
các chủ thể khác trong xã hội. Có nghĩa là, ngoài hoạt động tìm kiếm việc làm
mới cho người lao động, nhà nước còn quản lý các hoạt động liên quan đến
giải quyết việc làm, bảo đảm tính bền vững và chất lượng của việc làm được
tạo ra cho người lao động.
Quản lý nhà nước đối với công tác giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Các
chủ thể quản lý, tiến hành hoạt động quản lý một cách có mục đích, sử dụng
các công cụ, phương tiện mang đặc trưng của các chủ thể quản lý tác động
vào quá trình giải quyết việc làm. Nhằm làm cho người lao động nông thôn có
việc làm phù hợp với năng lực, phát huy, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
của mỗi địa phương nói riêng.

Ở Việt Nam, Bộ luật Lao động năm 2012, tại điều 236 có quy định về
chủ thể quản lý nhà nước về lao động như sau:
“1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lao động trong phạm vi
cả nước.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về lao động.
Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm thực hiện và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
trong quản lý nhà nước về lao động.
3. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về lao động
trong phạm vi địa phương mình.” [19, tr.96]
Theo quy định này, Chính phủ có thẩm quyền cao nhất trong lĩnh vực
quản lý nhân lực, việc làm. Tham mưu cho chính phủ, đồng thời thực hiện
quyền hạn của mình có hai hệ thống cơ quan:


25

Cơ quan quản lý chuyên môn: gồm Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội; các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (ở cấp tỉnh) và các phòng
(ban) Lao động – Thương binh và Xã hội (ở cấp huyện). Các cơ quan quản lý
chung gồm UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; UBND quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các UBND xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra quản lý nhà nước về việc làm nói chung và việc làm cho lao
động nông thôn nói riêng còn nhiều cơ quan khác như: Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo… Mỗi cơ quan này tham gia quản lý lao động
việc làm những lĩnh vực khác nhau tùy thuộc vào vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của mình mà tham gia vào quản lý quá trình giải quyết việc làm.
Bộ luật Lao động đã ghi nhận và trong thực tế, hoạt động giải quyết
việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của doanh nghiệp và của toàn xã hội.

Trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trách nhiệm của nhà nước được quy
định như sau trong giải quyết việc làm cho người lao động:
Nhà nước định chỉ tiêu việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm và hằng năm. Chỉ tiêu tạo việc làm mới chính là số lao động
cần phải tuyển vào làm việc thường xuyên tại các tổ chức đơn vị và các cá
nhân ử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế. trong các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm năm và hằng năm của các cấp, các ngành, các
chương trình mục tiêu nhất thiết phải có chỉ tiêu tạo việc làm mới và thực
hiện chế độ nghiêm ngặt kiểm soát chỉ tiêu này của các chủ thể.
Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm cho
người lao động trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu làm
việc. Thông qua các chương trình mục tiêu đó giải quyết hợp lý mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động.
Lập quỹ quốc gia về giải quyết việc làm nhằm giành một khoản từ
nguồn thu ngân sách nhà nước và các nguồn thu khác để hỗ trợ giải quyết việc


×