Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT TRONG TÍNH TOÁN HỆ SỐ AN TOÀN VỐN TỐI THIỂU THEO THÔNG TƯ 412016TTNHNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.96 KB, 17 trang )

NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT TRONG TÍNH TOÁN HỆ SỐ AN TOÀN VỐN
TỐI THIỂU THEO THÔNG TƯ 41/2016/TT-NHNN
Là một trong ba trụ cột chính của hiệp ước Bassel kể từ khi ra đời, quy định về hệ
số an toàn vốn tối thiểu luôn đóng vai trò quan trọng đối với các ngân hàng trung
ương trên thế giới trong việc quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD)
trong hệ thống. Tại Việt Nam, quy định về việc tính toán hệ số này đã được đưa
vào các văn bản quy phạm pháp luật như Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN,
Thông tư 13/2010/TT-NHNN, Thông tư 36/2014/TT-NHNN, Thông tư 06/2016/TTNHNN sửa đổi, bổ sung cho Thông tư 36/2014/TT-NHNN và mới đây nhất là
Thông tư 41/2016/TT-NHNN. Trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ ra những điểm
nổi bật và thay đổi trong việc tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu tại Thông tư
36/2014/TT-NHNN và Thông tư 41/2016/TT-NHNN, bên cạnh đó đưa ra những so
sánh trong các quy định tại Việt Nam với các chuẩn mực được khuyến nghị tại
hiệp ước Basel II. Đây là cơ sở để các cơ quan quản lý Nhà nước và các TCTD
nhận thức rõ nét hơn các số liệu về tỷ lệ an toàn vốn được tính toán và báo cáo,
làm cơ sở để đưa ra các quyết định kinh doanh và điều hành vĩ mô của mình.
1. Những vấn đề đặt ra khi tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư
36/2014/TT-NHNN
1.1. Quy định về tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư
36/2014/TT-NHNN và Hiệp định vốn Basel II
Hiệp định vốn Basel II được chính thức ban hành vào giữa năm 2004, với
mục tiêu khắc phục những hạn chế của Basel I (1988), nâng cao chất lượng và sự
ổn định của hệ thống ngân hàng các quốc gia trên thế giới, đẩy mạnh việc tuân thủ
các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực quản trị rủi ro. Trong hiệp ước vốn này, Ủy ban
Basel đã lần đầu đề xuất khung đo lường mới với ba trụ cột chính: (i) quy định an
toàn vốn tối thiểu; (ii) giám sát quá trình đánh giá nội bộ và đầy đủ vốn của các tổ
chức tài chính và (iii) đẩy mạnh kỷ luật thị trường qua việc công bố thông tin.
Trong đó, việc tính toán vốn tối thiểu (CAR) được căn cứ vào ba loại rủi ro chính
mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.


Các nhà quản lý tại các quốc gia trên thế giới đều ủng hộ và tin tưởng rằng khuôn


khổ Basel II sẽ cải thiện công tác quản lý rủi ro, tăng cường hiệu quả giám sát cho
cơ quan điều hành. Chuẩn mực Basel II đã được các quốc gia áp dụng từ lâu nhưng
đối với quốc gia có hệ thống ngân hàng đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như
Việt Nam thì việc áp dụng khuôn khổ mới này còn gặp nhiều khó khăn.
Tính đến thời điểm hiện nay, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam vẫn đang
thực hiện tính toán mức độ đầy đủ vốn theo hướng dẫn từ Thông tư 36/2014/TTNHNN ban hành vào ngày 20/11/2014 (Thông tư 36). Thông tư này ra đời trong
bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tích cực thực hiện quá trình tái cơ cấu
nhằm thiết lập hệ thống lành mạnh và phát triển, giảm thiểu nguy cơ rủi ro, đặc
biệt là rủi ro tín dụng. Mặc dù so với Thông tư 13/2010/TT-NHNN trước đó,
Thông tư 36 được đánh giá là có nhiều điểm đổi mới, khi đưa ra những quy định
tiếp cận sát hơn với thông lệ quốc tế về quản trị ngân hàng, giám sát ngân hàng,
nhưng vẫn còn một số khác biệt lớn trong cách tính toán mức độ an toàn vốn tối
thiểu theo thông tư này và theo chuẩn mực Basel II.
Hình 1. Quy định về tính toán hệ số CAR theo TT 36 và Basel II


Chỉ số
RR tín dụng
Đánh giá
rủi ro

Thông tư 36/2014

Basel II (Trụ cột 1)

Vốn tự có / TSCRR quy đổi (RR tín
dụng) ≥ 9%

Vốn tự có / TSCRR quy đổi (RR tín
dụng) + Vốn cho RR thị trường + Vốn

cho RR hoạt động) ≥ 8%

Đánh giá dựa trên cơ sở tỷ trọng đồng
hạng: hệ số từ 0% đến 150%
- Xếp loại khách hàng
- Vị trí địa lý

Đánh giá rủi ro có tính đến chất lượng
đối tác và bản chất giao dịch
Hệ số rủi ro từ 0% đến 150%

- Bảo lãnh và TSBĐ là 2 trong số 4
phương thức giảm thiểu rủi ro tín
dụng.
- Phạm vi và tính tương thích thay đổi
phụ thuộc vào phương pháp được lựa
chọn (tiêu chuẩn hay đánh giá nội bộ
IRB)

Bảo lãnh và
bảo đảm

- Bảo lãnh: chỉ tính đến khi bên bảo
lãnh là một nước OECD hoặc một
ngân hàng thuộc OECD…
- Tài sản bảo đảm: chỉ thừa nhận một
số loại TSBĐ tài chính: tiền mặt, trái
phiếu CP hoặc tổ chức thuộc các nước
OECD, ngân hàng OECD…
- Không tính đến giá trị TSBĐ


RR thị trường

Không tính đến

Phương pháp chuẩn hóa và phương
pháp mô hình nội bộ VAR

RR hoạt động

Không tính đến

Phương pháp chỉ số cơ bản, tiêu
chuẩn và tiếp cận nâng cao

Một chỉ số bảo đảm an toàn tương
đối đơn giản dựa trên cơ sở rủi ro
đồng hạng, độc lập của ngân hàng

Chỉ số bảo đảm an toàn có tính đến
chất lượng tiềm ẩn của đối tác và cấu
trúc giao dịch

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
- Giá trị ngưỡng an toàn: Theo quy định trong trụ cột 1 của Basel II, một
ngân hàng được coi là tạm đủ về vốn nếu duy trì được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
trên 8%. Trong khi đó, Thông tư 36 của NHNN, tỷ lệ này đối với các NHTM Việt
Nam phải trên 9%. Mặc dù đưa ra một giá trị ngưỡng cao hơn, nhưng điều này
không đồng nghĩa với việc các NHTM Việt Nam có mức độ an toàn vốn cao hơn,
bởi trong cách tính chỉ số CAR theo quy định tại Thông tư 36 thì phần tài sản có

rủi ro quy đổi mới chỉ tính đến rủi ro tín dụng mà chưa đề cập đến các loại rủi ro
khác mà ngân hàng phải đối mặt. Theo chuẩn mực quốc tế Basel II, phần tài sản có
rủi ro quy đổi của các TCTD cần phải được tính đến cả rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường và rủi ro hoạt động.


- Rủi ro tín dụng: Thông tư 36 hướng dẫn các TCTD chia tài sản trên bảng
cân đối thành 5 nhóm với các hệ số rủi ro tương ứng là 0%, 20%, 50%, 100% và
150%. Trong đó, các hệ số rủi ro này sẽ được xác định căn cứ vào loại tài sản (tiền
mặt, vàng, khoản cho vay…) của ngân hàng, đối tượng khách hàng (Chính phủ,
các tổ chức tín dụng khác, doanh nghiệp…) và vị trí địa lý của khách hàng (trong
nước hay ngoài nước). Trong khi đó, Basel II cũng đưa ra các hệ số rủi ro từ 0%
đến 150%, nhưng trước khi áp các hệ số rủi ro này, các tài sản chịu rủi ro tín dụng
sẽ được phân chia thành rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối tác. Căn cứ vào bản
chất của các giao dịch và chất lượng của đối tác, của khách hàng, thì các khoản vay
sẽ có các hệ số rủi ro khác nhau.
- Bảo lãnh và bảo đảm tín dụng: Theo quy định trong Thông tư 36, bảo lãnh
không phải là một phương thức giảm thiểu rủi ro tín dụng, mà chỉ xem xét đến hoạt
động này nếu bên bảo lãnh mà một quốc gia, một ngân hàng thuộc tổ chức Hợp tác
và phát triển kinh tế (OECD) hoặc một tổ chức tài chính quốc gia thì khoản phải
đòi đó sẽ có hệ số rủi ro là 0% hoặc 20%. Một điểm nữa trong thông tư này là xếp
loại tài sản vào với các hệ số rủi ro thì TCTD chỉ xem xét đến một số tài sản đảm
bảo nhất định như tiền mặt, trái phiếu chính phủ,… mà không xem xét đến giá trị
các tài sản đảm bảo. Còn theo quy định quốc tế, bảo lãnh và tài sản đảm bảo là 2
trong số 4 phương thức giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các khoản phải đòi trên bảng
cân đối của TCTD. Phạm vi xem xét bảo lãnh và TSĐB trong Basel II rộng hơn
nhiều so với Thông tư 36.
- Rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động: Basel II đã có hướng dẫn cụ thể
trong việc tính toán vốn cho hai loại rủi ro này, gợi ý các phương pháp từ dễ đến
khó phù hợp cho các quốc gia với điều kiện kinh tế - tài chính khác nhau có thể áp

dụng. Trong Thông tư 36 của NHNN thì chưa có những quy định về việc tính toán
hai rủi ro này bởi những hạn chế trong dữ liệu cũng như nền tảng công nghệ của hệ
thống ngân hàng Việt Nam.
Như vậy, hệ số CAR mà các TCTD ở Việt Nam đang tính toán hiện nay là
một chỉ số với cách tính tương đối đơn giản, thực hiện dựa trên cơ sở hồ sơ rủi ro


đồng hạng và độc lập của ngân hàng, chưa hề tính đến chất lượng tiềm ẩn của đối
tác cũng như bản chất của các giao dịch. Điều này cho thấy, từ cách tính toán hệ số
an toàn vốn theo Thông tư 36/2014 và theo chuẩn mực quốc tế (Basel II) là một
khoảng cách rất lớn, khiến cho việc tính toán và công bố chỉ số này trở nên thiếu
chính xác và có độ tin cậy không cao trên quan điểm của các nhà nghiên cứu quốc
tế.
1.2. Thực trạng đảm bảo an toàn vốn tại các NHTM Việt Nam
Hình 2. Hệ số CAR trung bình của các NHTM giai đoạn 2012-2018
16
14
12
10
8
6
4
2
0
2012

2013

2014


2015

2016

2017

2018

Tỷ lệ an toàn vốn
Vốn cấp 1/TSCRR điều chỉnh

Nguồn: Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia
Về cơ bản, hệ thống các TCTD đều đạt yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu, tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỷ lệ này có xu hướng giảm nhẹ. Điều
này cho thấy tốc độ tăng vốn tự có của hệ thống ngân hàng chậm hơn so với so với
tốc độ mở rộng tài sản rủi ro, đồng nghĩa với rủi ro nói chung có xu hướng tăng
lên.
Bảng 1: Hệ số an toàn vốn tối thiểu của các NHTM Việt Nam (%)
Ngân hàng
Vietcombank
Vietinbank
BIDV
VPBank
VIB

2012
19.4
12.5
9.65
12.5

10.33

2013
18
12.5
10.23
12.5
13.17

2014
10.73
9.42
9.07
9.65
18.54

2015
10.01
9.64
9.01
11.6
17.76

2016
10.21
9.49
9.02
13.04
13.16


2017
11.6
10
10.9
13.2
13.1


Techcombank
19
19.81
13.1
12.35 11.18
15.9
Maritime Bank
10.56 11.24
15
23.24 22.59 19.48
Sacombank
10.35
9.95
9.87
9.51
9.61
11.3
MB
11.15
11
10.07 12.85 10.82
12

ACB
13.5
14.7
12.25 10.97 11.13
11.5
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và báo cáo tài chính các NHTM
Từ bảng ở trên, có thể thấy các NHTM do Nhà nước nắm cổ phần chi phối
có hệ số an toàn thấp hơn so với khối các NHTMCP. Có một số nguyên nhân có
thể lý giải cho vấn đề này, đó là:
Thứ nhất, các NHTMNN gặp nhiều khó khăn trong việc tăng vốn trong khi
khối NHTMCP lại có nhiều cơ hội tăng vốn thành công như phát hành cổ phiếu
riêng lẻ, thưởng cổ phiếu từ nguồn thặng dư hay chi trả cổ tức bằng cổ phiếu…
Trong khi đó, các NHTMNN khó khăn trong việc tìm đối tác chiến lược nước
ngoài và không được chia cổ tức bằng cổ phiếu, bởi những quyết định này phải
được sự thông qua từ phía NHNN. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu với thời hạn
dài (20-30 năm) để tăng vốn cấp 2 cho các ngân hàng cũng không dễ dàng gì do sự
kém phát triển của thị trường trái phiếu. Trên thị trường Việt Nam, số lượng các
nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ hưu trí… còn rất hạn chế, đồng thời, các trái phiếu
không được xếp hạng cũng là một nguyên nhân khiến thị trường trái phiếu dài hạn
cũng không phải là kênh đầu tư hấp dẫn. Trong các NHTMNN này, Vietinbank là
ngân hàng gặp nhiều khó khăn nhất khi hệ số an toàn vốn đã chạm gần đến
ngưỡng, trong khi các phương án tăng vốn cấp 1 và cấp 2 đã khai thác hết. Chính
vì vậy, ngân hàng phải sử dụng phương án tăng vốn bằng cách xin chia cổ tức bằng
cổ phiếu hoặc giữ lợi nhuận để tăng vốn, không chia cổ tức thì mới có thể cải thiện
được hệ số CAR.
Thứ hai, các NHTMNN vẫn có xu hướng duy trì mức tăng trưởng tín dụng ở
mức cao và quy mô tài sản lớn. Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết các
ngân hàng đều có xu hướng chuyển dịch phát triển các hoạt động phi tín dụng và
chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng ngắn hạn, nhưng ngoại trừ VCB, các ngân
hàng khác vẫn giữ quy mô tín dụng cao trong tổng tài sản. Với trường hợp của

Vietinbank, từ năm 2017 đến nay, ngân hàng chủ động duy trì tốc độ tăng trưởng


tín dụng ở mức thấp (8-9%), nhưng tỷ trọng hoạt động tín dụng vẫn chiếm 73%
trong tổng tài sản, trong đó, nợ trung dài hạn vẫn chiếm 45%. BIDV thì vẫn duy trì
tăng trưởng tín dụng ở mức cao với tốc độ tăng 15 - 20%, và tỷ trọng tín dụng
chiếm 74,3%.
Như vậy, hệ số CAR của các NHTM Việt Nam vẫn đang được tính toán theo
Thông tư 36/2014/TT-NHNN với nền tảng chính từ Hiệp định vốn Basel I, trong
đó mới chỉ tính toán đến rủi ro tín dụng. Cách tính toán mức độ đầy đủ vốn của
ngân hàng theo Thông tư 36 chưa bắt kịp với xu hướng thay đổi trong chuẩn mực
quốc tế và vì vậy, chưa thực sự phản ánh được chính xác mức độ rủi ro của các
ngân hàng. Năm 2016, NHNN đã ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN
(Thông tư 41) và sẽ đi vào áp dụng từ 1/1/2020, trong đó, đưa ra quy định mới về
cách tính toán hệ số an toàn vốn cho các NHTM tiếp cận với chuẩn mực theo Basel
II. Sự ra đời của văn bản này không chỉ thể hiện sự tiệm cận của các quy định Việt
Nam với thông lệ quốc tế mà còn thể hiện sự phát triển về chất lượng của hệ thống
tài chính Việt Nam.
2. Mức độ tiệm cận trong tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu của Thông tư
41/2016/TT-NHNN với Basel II
Thông tư 41 được xây dựng trên nền tảng hiệp định vốn Basel II nên về cơ
bản, nội dung của thông tư khá tương đồng với chuẩn mực quốc tế này. Trong
hướng dẫn của Basel II về cách tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR, Ủy ban
Basel đưa ra gợi ý cách tính toán tài sản có điều chỉnh theo rủi ro tín dụng, mức
vốn cho rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường với các phương pháp khác nhau, từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với điều kiện về dữ liệu và trình độ kỹ
thuật của các TCTD. Về cơ bản, Thông tư 41 của Việt Nam đang hướng dẫn các
TCTD triển khai tính toán các cấu phần của hệ số CAR theo các phương pháp đơn
giản. Áp dụng việc tính toán hệ số CAR theo phương pháp này sẽ dễ dàng hơn cho
các ngân hàng, tuy nhiên, phương pháp đơn giản có hạn chế là khuếch đại rủi ro và

khiến các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn nhiều hơn so với nhu cầu thực sự.
Bảng 2: Mức độ tương đồng giữa Thông tư 41 và Basel II


Tiêu
chí
Chỉ số

Thông tư 41/2016

Basel II

CAR = Vốn/ TSCRR quy đổi CAR = Vốn/ TSCRR quy đổi (Rủi ro
(Rủi ro tín dụng + Rủi ro thị tín dụng + Rủi ro thị trường + Rủi ro
trường + Rủi ro hoạt động) ≥ hoạt động) ≥ 8%
8%

Nợ thứ Không quy định

Vốn tự có
Tính vào vốn cấp 2, tối đa là 50% vốn

cấp có

cấp 1

kỳ hạn
Nợ thứ Không quy định

Khuyến nghị sử dụng để hỗ trợ rủi ro


cấp

thị trường (Vốn cấp 3), tối đa 250%

ngắn

vốn cấp 1.

hạn
Khoản

Quy định một số khoản phải Không quy định

phải

trừ khỏi vốn cấp 2: chênh

trừ

lệch dương giữa dự phòng

khỏi

chung và 1,25% Tổng tài sản

vốn cấp tính theo RRTD…
2
Rủi ro tín dụng
PP tính Áp dụng phương pháp Gợi ý 2 phương pháp:

(i) PP Chuẩn hóa (Standardized
toán
chuẩn hóa (SA)
- Các khoản vay được phân Approach-SA):
vốn
- Các khoản vay được phân loại dựa
loại dựa trên đối tác, sản
trên chất lượng thực tế của đối tác
phẩm, tài sản đảm bảo, chất
(quốc gia, ngân hàng, doanh nghiệp, cá
lượng nợ.
- Sử dụng xếp hạng tín nhân…) và bản chất của giao dịch.
- Sử dụng xếp hạng tín nhiệm của tổ
nhiệm của tổ chức xếp hạng
chức xếp hạng tín nhiệm độc lập
tín nhiệm độc lập.
(ii) PP Xếp hạng tín nhiệm nội bộ
Khuyến khích các NHTM tự
(IRB): Các NHTM tự thiết kế khung
xây dựng khung đánh giá nội
đánh giá nội bộ của mình với các đối


bộ.

tác và khoản vay
- PP xếp hạng nội bộ cơ bản – FIRB:
Các NHTM tự xây dựng mô hình đo
lường PD và sử dụng các hệ số LGD,
EAD, M do cơ quan giám sát cung cấp

- PP xếp hạng nội bộ nâng cao – AIRB:
Các NHTM tự xây dựng mô hình đo
lường cả 4 cấu phần PD, LGD và

Hệ

số 0% - 250%

EAD, M
0% - 150%

rủi ro
Tài sản Sử dụng phương pháp đơn Gợi ý 2 phương pháp:
- PP Đơn giản (Simple Approachbảo
giản.
Chỉ chấp nhận các TSBĐ tài SA):
đảm
+ Hệ số rủi ro của khoản phải đòi được
chính hợp lệ (tiền mặt và
thay thế bởi hệ số rủi ro của TSBĐ sử
chứng khoán), có tính đến
dụng bảo đảm cho phần giá trị chịu rủi
các hệ số hiệu chỉnh về biến
ro.
động giá thị trường, độ lệch
+ Đối với phần giá trị chịu rủi ro không
tiền tệ và độ lệch về thời
được bảo đảm bởi TSBĐ, thì hệ số rủi
gian. Tuy nhiên, chưa tính
ro sử dụng là hệ số rủi ro của khoản

đến mức độ biến động thanh
phải đòi.
khoản, thay đổi giá trị và xếp + TSBĐ có thời hạn dài hơn thời hạn
hạng tín nhiệm của đối tượng vay.
- PP Phức tạp (Comprehensive
phát hành.
Approach-CA):
+ Ngân hàng phải điều chỉnh tăng giá
trị chịu rủi ro trong trường hợp nguy cơ
cao và điều chỉnh giảm giá trị tài sản
đảm bảo trong trường hợp xấu.
+ Giá trị chịu rủi ro mới = Chênh lệch
giá trị chịu rủi ro và giá trị TSBĐ sau
điều chỉnh.
+ Hệ số rủi ro đối tác được áp dụng


Bảo
lãnh

cho giá trị chịu rủi ro mới.
Sử dụng phương pháp - Gợi ý 2 phương pháp
PP1: Sử dụng hệ số rủi ro của bên bảo
giống PP1 khi có tính đến hệ
lãnh thay cho hệ số rủi ro của khách
số rủi ro của bên bảo lãnh.
hàng.
PP2: Vốn yêu cầu = Vốn yêu cầu khi
không có bảo lãnh x 0,15 + 160 x PDg
(PDg là xác xuất vỡ nợ của bên bảo


lãnh)
Rủi ro thị trường
Cấu
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro giá cổ phiếu
- Rủi ro giá cổ phiếu
phần
- Rủi ro ngoại hối và vàng
- Rủi ro hàng hóa
rủi ro - Rủi ro giá hàng hóa
- Rủi ro tỷ giá
- Rủi ro giao dịch quyền
thị
chọn
trường
PP tính Áp dụng mô hình cơ bản.
Gợi ý 2 phương pháp:
Vốn yêu cầu cho RRTT = (i) Mô hình cơ bản (Standard Model)
toán
- Tổng giá trị rủi ro thị trường được
Vốn yêu cầu cho RR lãi suất
vốn
tính bằng tổng giá trị rủi ro của 4
+ RR giá cổ phiếu + RR
nhóm, mà không tính đến mối tương
ngoại hối + RR giá hàng hóa
quan giữa các nhóm.
+ Giao dịch quyền chọn.

Vốn yêu cầu cho RRTT = Vốn yêu cầu
cho RR lãi suất + RR giá cổ phiếu +
RR ngoại hối + RR giá hàng hóa
(ii) Mô hình nội bộ (Internal Model):
sử dụng VAR và các điều chỉnh
Rủi ro hoạt động
PP tính Áp dụng phương pháp chỉ Gợi ý 3 phương pháp:
(i) PP chỉ số cơ bản (Basic Indicator
toán
số cơ bản (BIA): Vốn yêu
Approach-BIA)
vốn
cầu bằng 15% chỉ số kinh
- Vốn yêu cầu bằng 15% tổng thu nhập
doanh tại quý gần nhất bình
thuần bình quân 3 năm liên tiếp các
quân 3 năm liên tiếp các lĩnh
lĩnh vực (tín dụng, dịch vụ và kinh
vực (tín dụng, dịch vụ, và
doanh ngoại hối, chứng khoán)


kinh doanh ngoại hối chứng (ii) PP chuẩn hóa (The Standardized
khoán)

Approach-TSA)
- Vốn yêu cầu bằng bình quân gia
quyền thu nhập ròng từ 8 lĩnh vực kinh
doanh: tài trợ doanh nghiệp, kinh
doanh và mua bán, hoạt động ngân

hàng bán lẻ, hoạt động ngân hàng
thương mại, hoạt động thanh toán, dịch
vụ đại lý, quản lý tài sản, mối giới bán
lẻ.
- Tỷ trọng các lĩnh vực kinh doanh
được quy định từ 12, 15 và 18%.
(iii) PP đo lường nâng

cao

(Advanced Measurement ApproachAMA)
- Vốn yêu cầu được tính toán dựa trên
hệ thống đo lường nội bộ của ngân
hàng.
- Hệ thống này cần ước lượng được tổn
thất ngoài dự tính dựa trên sự kết hợp
giữa dữ liệu lỗ nội bộ, phân tích kịch
bản, môi trường kinh doanh đặc thù,
các yếu tố kiểm soát bên trong… hỗ trợ
quá trình phân bổ vốn kinh tế
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Cụ thể, về công thức tính toán hệ số an toàn vốn tối thiểu theo Thông tư 41
tương tự như Basel II với giới hạn tối thiểu là 8% như sau:

Trong đó:
C: Vốn tự có


RWA: Tài sản có điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối
tác

: Mức vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động
: Mức vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường
Mặc dù việc tính toán hệ số CAR theo Thông tư 41 đã đi theo các hướng dẫn
của Basel II, tuy vậy vẫn có một số các điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về cách tính toán vốn tự có C. Thông tư 41 chưa đưa vào C mức
vốn tự có cấp 3 như cách tính tại Basel II. Theo Basel II, vốn tự có cấp 3 bao gồm
các khoản nợ thứ cấp ngắn hạn (tối đa là 250% vốn tự có cấp 1), được dùng với
mục đích trang trải cho rủi ro thị trường khi hai mức vốn tự có cấp 1 và cấp 2
không đủ. Như vậy mức vốn cấp 3 này không được xem xét tới khi tính toán hệ số
CAR theo Thông tư 41; điều này có nghĩa là mức độ chắc chắn, bền vững của
nguồn vốn tự có được yêu cầu khá cao đối với các ngân hàng, hơn nữa đây cũng là
áp lực cho các ngân hàng khi tiến hành các biện pháp tăng vốn để đáp ứng yêu cầu
về CAR theo thông tư này.
Thứ hai, về cách tính . Thông tư 41 sử dụng phương pháp tiếp cận chỉ số cơ
bản (BIA- Basic indicator approach) để tính toán mức vốn này, ngoài ra Basel II
còn đề xuất hai phương pháp khác là tiêu chuẩn (SMA- Standardised measurement
approach) và đo lường nâng cao (AMA- Advanced measurement approach). Với
phương pháp này, Thông tư 41 sử dụng chỉ số kinh doanh để đo lường và dùng số
liệu theo quý theo công thức:
=
Trong đó: BI là chỉ số kinh doanh theo quý, một tham chiếu dựa trên thông tin báo
cáo tài chính đối với rủi ro hoạt động và được tính theo công thức:
BI = IC + SC + FC
IC: Thu nhập lãi thuần
SC: Thu nhập dịch vụ + Chi phí dịch vụ + Thu nhập khác + Chi phí khác


FC: Lãi/Lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh chứng khoán, ngoại hối
Có thể nói phương pháp BIA để tính này một dạng giản thể của phương
pháp SMA, trong đó hệ số biên để tính BIC (cấu phần chỉ số kinh doanh, được tính

bằng BI nhân với hệ số biên theo quy mô của BI) là 15% và ILM (hệ số nhân tổn
thất nội bộ, được tính dựa trên mức tổn thất trung bình của ngân hàng trong quá
khứ và chỉ số BIC) là 1. Như vậy có nghĩa là với cách tính như trên, NHNN chú
trọng vào tổn thất nội bộ khi xác định các yêu cầu về vốn cho rủi ro hoạt động.
Điều này có hai ý nghĩa quan trọng:
(i) các ngân hàng cần đảm bảo dữ liệu về tổn thất nội bộ cũng như hệ thống,
quy trình và các kiểm soát có liên quan đến việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tổn thất
nội bộ phải chính xác và đạt hiệu quả cao nhất để hỗ trợ và chứng minh cho hệ số
ILM đưa ra.
(ii) các ngân hàng có cơ hội rất lớn để giảm thiểu vốn cho rủi ro hoạt động
trong hiện tại và tương lai thông qua việc chú trọng công tác quản lý và giảm thiểu
tổn thất hoạt động hiện có, theo đó giảm thiểu mức độ ảnh hưởng của hệ số ILM
trong việc tính toán vốn rủi ro hoạt động.
Bên cạnh đó, với phương pháp tính được đưa ra như trên, Thông tư 41 đã
phần nào định hướng các ngân hàng triển khai áp dụng phương pháp SMA để tính
toán vốn cho rủi ro hoạt động trong tương lai. Để thực hiện được phương pháp
SMA của Basel II, các ngân hàng cần thực hiện điểm mấu chốt là cải thiện chất
lượng của dữ liệu lịch sử tổn thất với năm lưu ý như sau:
(i) để tính vốn theo phương pháp SMA, ngân hàng cần thu thập dữ liệu lịch
sử trong vòng tối thiểu mười năm.
(ii) dữ liệu phải được liên kết trực tiếp với hoạt động kinh doanh hiện tại và
môi trường hoạt động nội bộ của ngân hàng.
(iii) ngân hàng cần văn bản hóa các thủ tục và quy trình xác định, thu thập
và xử lý dữ liệu về tổn thất nội bộ, bao gồm cả ngưỡng tối thiểu.


(iv) ngân hàng cần thu thập những thông tin và thuộc tính cụ thể như một
phần dữ liệu cho những sự kiện rủi ro hoạt động riêng lẻ. Những cấu phần dữ liệu
này bao gồm: giá trị tổn thất ròng, các mốc thời gian tham chiếu quan trọng, ví dụ
ngày phát sinh sự kiện, ngày phát hiện sự kiện, ngày ghi nhận tổn thất sự kiện.

Ngoài ra, ngân hàng cần thu thập những thông tin về việc thu hồi giá trị tổn thất
ròng và thông tin mô tả về nguyên nhân và tác nhân gây ra sự kiện tổn thất này.
Thứ ba, về cách tính . Thông tư 41 sử dụng phương pháp chuẩn hoá (SAStandard analysis), ngoài ra Basel II còn đề xuất thêm phương pháp mô hình nội
bộ (VAR- internal model). Theo phương pháp SA thì vốn cho rủi ro thị trường
được tính bằng mức vốn cho năm loại rủi ro thị trường bao gồm lãi suất (IRR), giá
cổ phiếu (ER), ngoại hối (FXR), giá hàng hoá (CMR) và quyền chọn (OPT) theo
công thức:
KMR = KIRR + KER + KFXR + KCMR + KOPT
Cũng giống như cách tính vốn cho rủi ro hoạt động, để tính vốn cho rủi ro
thị trường, Thông tư 41 cũng sử dụng phương pháp đơn giản nhất theo đề xuất của
Basel II. Điều này có thể giải thích bởi những khó khăn khi thực hiện các phương
pháp phức tạp hơn tại ngân hàng, như chất lượng thông tin dữ liệu đầu vào, trình
độ phần mềm hỗ trợ việc tính toán hay chất lượng nguồn nhân lực đảm nhận việc
tính toán này.
Với cách tính vốn cho rủi ro thị trường, sự khác nhau lớn nhất giữa quy định
tại Thông tư 41 và Basel II là ở cách tính cấu phần K ER , là mức vốn ngân hàng cần
nắm giữ cho rủi ro trên các trạng thái về cổ phiếu trên sổ kinh doanh. Công thức
tính KER được Basel II và Thông tư 41 đưa ra như sau:
KER = +
: Yêu cầu vốn cho rủi ro cổ phiếu cụ thể
Yêu cầu vốn cho rủi ro cổ phiếu chung


Quy định về cách tính toán và tại Thông tư 41 có sự khác biệt so với quy
định tại Basel II, cụ thể như sau:
Một là, với , Thông tư 41 đưa ra công thức tính như sau:

Với: LP là trạng thái trường, SP là trạng thái đoản, ERW là trọng số rủi ro cổ phiếu
cụ thể (luôn bằng 8%).
Tuy nhiên quy định về ERW tại Basel II như sau:

- Nếu như công cụ tài chính là một cổ phiếu hoặc nếu tài sản cơ sở của nó là một
cổ phiếu, trọng số rủi ro là 8%
- Nếu tài sản cơ sở của công cụ tài chính là một chỉ số chứng khoán, khi đó, trọng
số rủi ro áp dụng là 2%
Hai là, với Thông tư 41 đưa ra công thức tính như sau:
LP – SP| * ERW
Trong đó quy định về ERW như sau:
- Nếu như công cụ tài chính là một cổ phiếu hoặc nếu tài sản cơ sở của nó là một
cổ phiếu, trọng số rủi ro là 8%
- Nếu tài sản cơ sở của công cụ tài chính là chỉ số chứng khoán, khi đó, trọng số rủi
ro áp dụng là 10%
Tuy nhiên quy định về mức ERW này theo Basel II chỉ một mức chung là 8%.
Như vậy so với mức vốn được quy định tại Basel II, mức vốn yêu cầu cho
KER theo Thông tư 41 là cao hơn, điều này có thể cho thấy quy định chặt chẽ của
NHNN dành cho các ngân hàng đang tham gia kinh doanh cổ phiếu thị trường, một
loại tài sản tài chính được xem là có tính rủi ro cao tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, sự khác nhau giữa quy định tại Thông tư 41 và hướng dẫn của
Basel II trong tính toán mức vốn cho rủi ro thị trường còn ở cách tính cấu phần
KIRR. Cụ thể, Thông tư 41 đã không đưa vào đầy đủ các cách thức đối xử đối với
các phái sinh lãi suất như Basel II đề xuất, mà chỉ có một phần nhỏ được đưa vào


chủ yếu là liên quan đến phương pháp thang kỳ hạn và phương pháp thời lượng áp
dụng khi tính toán rủi ro thị trường chung (. Tương tự đối với các cấu phần K FXR và
KCMR, phương pháp tính toán và các nội dung cốt lõi trong Basel II đều đã được
đưa vào tại Thông tư 41 tuy nhiên chưa bao hàm được toàn bộ như khuyến nghị
của hiệp ước này. Duy nhất cấu phần KOPT đã được bao hàm trọn vẹn tại thông tư.
Tóm lại, Thông tư 41 đã đưa vào các quy định quan trọng nhất của Basel II
liên quan đến phương pháp tính hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR. Có thể nói đây là
một bước tiến quan trọng đối với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc định

hướng các ngân hàng trong hệ thống tuân thủ theo các chuẩn mực quốc tế. Tuy vậy
việc tính toán CAR theo Thông tư 41 trên thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn xét
trên nhiều phương diện: về kỹ thuật tính toán, về cơ sở dữ liệu, về nguồn lực tài
chính, về nguồn nhân lực. Đây cũng là các yếu tố cần được cải thiện để nâng cao
khả năng ứng dụng và tính chính xác trong tính toán hệ số CAR khi áp dụng thông
tư này./.
Tài liệu tham khảo
1. Thông tư 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 về quy định các giới hạn, tỷ lệ
đảm bảo an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.
2. Thông tư 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 về quy định tỷ lệ an toàn vốn đối
với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
3. Nguyễn, P. và Lê, C. (2017), “Tuân thủ hệ số an toàn vốn theo chuẩn mức Basel:
vấn đề đặt ra với các NHTM Việt Nam”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Áp
dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam: Cơ hội – thách thức
và lộ trình thức hiện”, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2017
4. Bank for International Settlements (2006), International Convergence of Capital
Measurement and Capital Standards
5. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2018), Báo cáo tổng quan thị trường tài
chính năm 2017.


6. Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (2019), Báo cáo tóm tắt tổng quan thị trường
tài chính năm 2018.



×