Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Sự hình thành và phát triển, vai trò và tác động của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế một nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.73 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

BỘ MÔN: TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN
Chủ đề: Sự hình thành và phát triển, vai trò và tác động
của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế
một nước đang phát triển
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


BỘ MÔN: TÀI CHÍNH CHO PHÁT TRIỂN

Chủ đề: Sự hình thành và phát triển, vai trò và tác động của
mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế
một nước đang phát triển

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, hoạt động của các công ty đa quốc gia đang và sẽ
trở thành một trong những lực lượng chủ đạo thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá,
tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi thế giới.
Đây là lực lượng chủ chốt trong truyền tải khoa học, kỹ thuật và công nghệ, từ
đó góp phần cơ cấu lại nền kinh tế thế giới. Vì vậy, các công ty đa quốc gia
đang thâm nhập mạnh mẽ vào tất cả các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia
có nền kinh tế đang và kém phát triển, cùng nằm trong nhóm các quốc gia này,
Việt Nam cũng phải là một ngoại lệ.

I. Giới thiệu về mô hình công ty đa quốc gia


1. Khái niệm


Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (từ các chữ Multinational
corporation) hoặc MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là khái niệm để
chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công
ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty
đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền
kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình toàn cầu hóa; một số người cho rằng một dạng mới của MNC
đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn
cầu.

2. Cấu trúc
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc các phương
tiện sản Công ty đa quốc gia "theo chiều ngang" là các công ty đa quốc gia mà
có hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các
quốc gia mà công ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là
công ty Mcdonald's.
Công ty đa quốc gia "theo chiều dọc" là công ty có các cơ sở sản xuất hay các
chi nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm mà các sản
phẩm này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay các
chi nhánh tại các quốc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu trúc này
là công ty Adidas.
Công ty đa quốc gia "nhiều chiều" là công ty có nhiều chi nhánh hay công ty
con tại nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với
nhau cả chiều ngang lẫn chiều dọc. VD:Samsung


3. Đặc điểm hoạt động
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới
đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt
động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau

Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh
có tính toàn cầu. Tùy các công ty đa quốc gia mà có thể có nhiều chiến lược và
kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi
nhánh.

4. Sự hình thành và phát triển
Công ty Xuyên quốc gia (MNC) gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản
xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư
bản, mục đích lợi nhuận và sự phát triển sản xuất đã làm tăng yêu cầu về thị
trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị trường hàng hoá và thị trường tài
chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc tăng cường khai thác và mở rộng hoạt
động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt cùng
hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài.
Quá trình này đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển của thương mại quốc tế
đã hình thành qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được tạo điều kiện
bởi sự ủng hộ của các nhà nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa thực dân. Đồng
thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công
thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này. Trên cơ sở đó,
các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát triển.
Đi từ hợp tác giản đơn đến liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tư bản
đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở rộng này


Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế
quốc. Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp
giữa giới tài chính và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các
tập đoàn sản xuất-kinh doanh lớn theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự
do trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản với sự thôn tính “cá lớn nuốt cá bé”
cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh doanh độc quyền
lớn. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả trên

thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các
công ty này.
Sau Chiến tranh Thế giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng
cường quan hệ kinh tế quốc tế và sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã tạo
điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNC, đặc biệt trong thế giới tư bản.
Nhiều MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này.
Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về MNC ở các nước TBCN đã góp
phần đáng kể cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các MNC.
MNC ngày càng được coi là công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là
nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm
làm ăn quốc tế. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường, khuyến khích FDI và
thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc thu hút MNC. Nhờ đó, các MNC
đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế.
Sau Chiến tranh Lạnh, MNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các
MNC tăng gần gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000
vào năm 2004. Đồng thời, mức độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa
từng thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu
thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm khác cũng đáng chú ý,
MNC không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã xuất
hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô
và vai trò của các MNC này vẫn còn rất khiêm tốn. Các MNC cũng là người
nắm giữ hầu hết vốn đầu tư nước ngoài.


Tính đến thời điểm hiện tại, các MNCs thực hiện hơn 80% thương mại thế giới.
Các MNC chi phối hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng của
thế giới. Các MNC cũng nắm giữ phần lớn công nghệ tiên tiến và quá trình
chuyển giao công nghệ. Các MNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của sự
phát triển. Thế và lực của MNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây
với xu hướng sáp nhập và thu nhận để hình thành các tập đoàn lớn, nhất là

trong những lĩnh vực kinh tế quan trọng như truyền thông, ngân hàng-tài chính,
giao thông vận tải… Tất cả những điều này đang làm tăng vai trò của MNC đối
với quốc gia và Quan hệ quốc tế.

5. Mục đích phát triển của các công ty đa quốc gia
Thứ nhất: đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh
những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử
dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tiềm năng ở tại
chỗ.
Thứ hai , đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của
nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao.
Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những
bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn
nhất.
Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một
ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản
xuất. Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích
của MNC.

II. Vai trò của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế đang phát triển


1. Đặc điểm của nước đang phát triển
Các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) là các nước có mức sống
còn khiêm tốn, (thu nhập bình quân đầu người từ 600-2000 USD/năm). Nền
kinh tế ở giai đoạn đang hoặc chưa công nghiệp hóa, cất cánh hoặc trước cất
cánh. Về cơ cấu kinh tế-kỹ thuật, cơ cấu ngành đang trong thời kỳ nông
nghiệp-công nghiệp-dịch vụ,độ dịch chuyển điều chỉnh cơ cấu kinh tế-kỹ thuật
còn hạn chế.Bên cạnh đó, nền tảng công nghiệp kém phát triển và có chỉ số
phát triển con người (HDI) không cao, thể chế nhà nước đang trong quá trình

xây dựng, hoàn thiện các công cụ quản lý, cùng với đó là tìm cách gia tăng kết
nối quan hệ kinh tế thể với các nước phát triển và đang phát triển.
Sau hàng loạt cuộc Cách mạng giành độc lập nổ ra ở các nước châu Á, châu
Phi và châu Mỹ La tinh trong suốt thế kỉ XX, các quốc gia đang và kém phát
triển đã dần có sự vươn lên về mọi mặt; tuy nhiên, các nước này vẫn phải tiếp
tục đối mặt với rất nhiều khó khăn, rào cản trên con đường tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, sau giai đoạn suy thoái kinh tế vừa qua, các nước mới nổi và đang
phát triển chưa thoát khỏi tình trạng tồi tệ nhất và rất nhiều nước vẫn đang loay
hoay tìm mô hình tăng trưởng.

2. Vai trò của MNCs tới nền kinh tế đang phát triển
2.1. Thúc đẩy hoạt động thương mại
Một trong những vai trò nổi bật của các MNCs là thúc đẩy hoạt động thương
mại thế giới. Trong quá trình hoạt động của mình các MNCs đã thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia và gia công quốc tế. Hoạt động thương
mại nội bộ MNCs thường tạo điều kiện cho các chi nhánh tiếp cận với trình độ
công nghệ và bí quyết kỹ thuật tiên tiến của công ty mẹ và các chi nhánh khác
trong cùng hệ thống. Với các hoạt động hướng về xuất khẩu, MNCs hiện đang
chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị xuất khẩu của các quốc gia, đặc biệt là các nước


đang phát triển ở Châu Á. Chẳng hạn xuất khẩu của các chi nhánh MNCs đã
chiếm tới 50% tổng giá trị hàng hoá chế tạo tại một số quốc gia như Philippin,
Srilanka, Malaysia. Các doanh nghiệp FDI – chi nhánh của các MNCs là chủ
thể quan trọng, trực tiếp thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của các quốc gia.
Các MNCs với mạng lưới chi nhánh trên nhiều quốc gia, thậm chí toàn cầu có
tác động mạnh tới xu hướng mở cửa và hội nhập quốc tế. Các hoạt động
chuyển giao, liên kết, đầu tư… của MNCs cũng thúc đẩy mỗi quốc gia phải
thực hiện các điều chỉnh về chính sách, pháp luật cho phù hợp để vừa tạo điều
kiện phát triển kinh tế vừa kiểm soát được hoạt động của các chi nhánh MNCs.


2.2. Thay đổi cơ cấu hàng hóa
Chiến lược phát triển của các công ty đa quốc gia gắn liền với các hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu. Trong những năm gần đây, tỷ suất lợi nhuận trong ngành dịch vụ
tăng cao còn trong ngành nông nghiệp và công nghiệp giảm dần. Do đó, các
công ty nói chung và các công ty đa quốc gia nói riêng cũng chuyển mạnh sang
đầu tư vào các ngành dịch vụ và thúc đẩy giá trị xuất khẩu của hàng hoá dịch
vụ tăng cao.

2.3. Thay đổi trong cơ cấu đối tác
Tỷ trọng của hàng hoá xuất khẩu của các nước đang phát triển ngày càng cao,
đặc biệt là các nước mới công nghiệp. Sự thay đổi chiến lược của các MNCs
và hệ thống sản xuất quốc tế của chúng mở ra nhiều cơ hội cho các nước đang
phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi tham gia vào các hoạt động hướng về
xuất khẩu. Theo báo cáo của UNCTAD năm 2005, trong cơ cấu thương mại thế
giới, tỷ trọng thương mại của các nước đang phát triển chiếm 33,6% trong khi
năm 1985 là 30.3%. Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong


thương mại thế giới (63.5%) song tỉ trọng thương mại của các nước đang phát
triển ngày càng tăng lên. Xét một cách riêng rẽ thì bên cạnh các nền kinh tế
phát triển (Mỹ, Nhật Bản, Đức) thì chính những nền kinh tế đang phát triển
(Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ, Đài Loan…) lại chiếm thị phần xuất khẩu lớn
trong thương mại thế giới.

2.4. Thúc đẩy lưu thông dòng vốn đầu tư
Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh
MNCs. Cơ cấu dòng vốn FDI đã thay đổi do có sự điều chỉnh trong chiến lược
kinh doanh của các MNCs. Cũng chính nhờ mở rộng chính sách tự do hóa FDI,

các MNCs ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thúc đẩy dòng vốn FDI
vào các nước đang phát triển.Nếu trước đây, hầu hết nguồn vốn FDI được thực
hiện bởi các MNCs của các nước phát triển thì ngày nay số lượng các MNCs
của các nước đang phát triển cũng tăng lên và có ngày càng nhiều vốn FDI đến
từ các nước đang phát triển. FDI góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đó là do FDI thường tập trung vào
những ngành công nghệ cao có sức cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin,
chính vì vậy sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời, FDI cũng sẽ góp phần nhất định vào việc
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng
hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, con
có năng suất chất lượng cao, tạo ra một số phương thức mới có hiệu quả cao.

2.5. Tăng tích lũy vốn của nước chủ nhà
Thông qua kênh MNCs, nước chủ nhà có thể tăng cường thu hút vốn FDI đầu
tư vào nước mình. trong quá trình hoạt động các MNCs cũng đóng cho ngân
sách của nước chủ nhà qua các khoản như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế


xuất nhập khẩu, chi phí về viễn thông, điện nước…. Mặt khác, nhờ có các
MNCs mà một bộ phận đáng kể người dân có thêm thu nhập do làm việc trực
tiếp trong các công ty. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài
được thực hiện qua kênh MNCs. Cơ cấu dòng vốn FDI đã thay đổi do có sự
điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh của các MNCs. Cũng chính nhờ mở
rộng chính sách tự do hóa FDI, các MNCs ngày càng đóng vai trò quan trọng
đối với thúc đẩy dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển.Nếu trước đây,
hầu hết nguồn vốn FDI được thực hiện bởi các MNCs của các nước phát triển
thì ngày nay số lượng các MNCs của các nước đang phát triển cũng tăng lên và
có ngày càng nhiều vốn FDI đến từ các nước đang phát triển. FDI góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại

hóa. Đó là do FDI thường tập trung vào những ngành công nghệ cao có sức
cạnh tranh như công nghiệp hay thông tin, chính vì vậy sẽ góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đồng
thời, FDI cũng sẽ góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và
tiếp thu một số công nghệ tiên tiến, giống cây, con có năng suất chất lượng cao,
tạo ra một số phương thức mới có hiệu quả cao.
Công ty chi nhánh nước ngoài hoặc gián tiếp thông qua việc cung cấp các dịch
vụ cho các MNCs và hoặc những người lao động khác. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài giúp giải quyết vấn đề lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
thay đổi cơ cấu lao động. Khu vực FDI trực tiếp và gián tiếp tạo việc làm cho
người dân địa phương, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Doanh nghiệp FDI được xem là tiên
phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của
công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận vươn lên về
năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế các chuyên gia
nước ngoài. Bên cạnh đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng vai trò quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu ứng lan tỏa lao
động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng


2.6. Chủ thể chính trong hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ
Trong chiến lược cạnh tranh, các công ty xuyên quốc gia luôn coi công nghệ là
yếu tố quan trọng, giữ vị trí hàng đầu. Do đó, thúc đẩy đổi mới công nghệ bằng
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) là nhiệm vụ sống còn của các công
ty. Đi đầu trong đổi mới công nghệ đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị trường và giữ vị trí độc quyền. Tiềm năng về tri thức
không chỉ bó hẹp trong một vài công ty hoặc một nước nào đó. Như vậy, để
tiếp cận với tiềm năng này các công ty phải thiết lập thêm nhiều cơ sở hoạt
động R&D mới. Tại những khu vực đó, các công ty có thể làm giàu thêm

nguồn tri thức bằng việc mở rộng hoạt động R&D. Thông qua hoạt động đầu tư
và qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực FDI góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến cho quốc gia tiếp nhận đầu tư, nâng cao năng
lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Cùng với đó, dưới tác động lan tỏa công
nghệ của khu vực FDI được thực hiện thông qua mối liên kết sản xuất giữa
doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước, từ đó các doanh nghiệp
trong nước có điều kiện tiếp cận hoạt động chuyển giao công nghệ, làm chủ các
công nghệ tiên tiến. Bước vào thiên niên kỷ mới, tầm quan trọng của khoa học
công nghệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội thu hút sự quan tâm đặc biệt
của các quốc gia và các doanh nghiệp. sự thay đổi mau chóng của công nghệ
đang tạo ra nền sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn. Trong năm 1985-1998
hàng hoá chế tạo có hàm lượng khoa học cao tăng 21,4%, hàng hoá có hàm
lượng khoa học công nghệ trung bình tăng 14,3%. Như vậy, nhờ tiếp thu khoa
học công nghệ mà giá trị gia tăng của hàng hoá xuất khẩu qua chế biến của các
nước đang phát triển đạt tỷ lệ tăng trưởng cao


III. Tác động của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế đang phát
triển
1. Tác động tích cực của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế các nước
đang phát triển

1.1. Gia tăng nguồn lực tài chính cho phát triển
Với vai trò một nguồn tài chính, FDI từ các công ty đa quốc gia ổn định hơn so
với các dòng vốn tư nhân khác (dòng đầu tư chứng khoán hay vay nợ ngân
hàng) vì FDI thường dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, triển vọng tăng
trưởng và đặc điểm cơ cấu của nước nhận đầu tư. Rủi ro có hành vi “bầy đàn”
cũng thấp hơn so với trường hợp các dòng vốn khác. Việc rút vốn đầu tư đối
với FDI khó hơn so với đầu tư chứng khoán, đặc biệt trong trường hợp FDI gắn
với vốn vật chất. FDI cũng dễ trả lãi hơn là tín dụng thương mại. Lợi nhuận chỉ

được chuyển ra nước ngoài khi dự án sinh lời. Đây chính là điểm lợi thế đáng
kể của FDI so với tín dụng ngân hàng. Khoản tín dụng sẽ phải trả với số tiền lãi
cố định không kể tới hoạt động của dự án sử dụng khoản tín dụng này hay các
điều kiện vĩ mô tác động đến mọi hoạt động tại nước đi vay.
Là một nguồn tài chính bên ngoài, FDI bổ sung cho tiết kiệm nội địa và đóng
góp cho tăng trưởng thông qua việc tài trợ đầu tư. Tuy nhiên, FDI có thể thay
thế hiệu quả cho tiết kiệm nội địa, dẫn đến việc làm giảm tiết kiệm nội địa và
tăng tiêu dùng. Một dòng FDI vào rất lớn trong một thời gian ngắn cũng có thể
dẫn đến làm tăng tỷ giá của đồng tiền quốc gia và làm giảm khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu, từ đó làm giảm đầu tư vào những ngành xuất khẩu.
Một dự án FDI sinh lợi, không giống một dự án tương tự được tài trợ tại địa
phương, sẽ tạo ra dòng thu nhập đầu tư trực tiếp được chuyển ra khỏi các nước
chủ nhà. Những dòng tiền ra này, cùng với dòng ra của vốn đầu tư khi các công
ty con đóng cửa, đã tạo nên những mối lo ngại về tác động của FDI đến cán cân
thanh toán. Tuy nhiên, có nhiều dự án chỉ có thể được tiến hành bởi các nhà


đầu tư nước ngoài hoặc không thể tiến hành (hay không thể tiến hành với mức
hiệu quả tương ứng) bởi các công ty địa phương. Thêm vào đó, nếu chỉ so sánh
các dòng tài chính vào và ra liên quan đến FDI, không thể thấy được tất cả các
tác động của FDI đến cán cân thanh toán. Việc FDI có tác động tích cực hay
tiêu cực tới cán cân thanh toán của một nước chủ nhà phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: quy mô của dòng FDI vào (hoặc giảm đầu tư ròng); các dòng thu nhập
đầu tư trực tiếp ra; xu hướng xuất khẩu và nhập khẩu của các công ty con; tác
động gián tiếp của FDI lên dòng thu nhập ra có yếu tố nước ngoài; tác động
gián tiếp của FDI lên xu hướng xuất khẩu và nhập khẩu của công ty nội địa; và
tác động gián tiếp của FDI đến nhu cầu nhập khẩu của người tiêu dùng tại nước
đó.

1.2 Góp phần thu hút đầu tư quốc tế

FDI tác động đến đầu tư tại các nước chủ nhà một cách trực tiếp thông qua các
chi phí đầu tư của các công ty con tại nước ngoài. FDI nội địa hóa các khoản
tiết kiệm nước ngoài tại các nước chủ nhà - các công ty đem vào nước chủ nhà
các khoản tiết kiệm (cùng với các tài sản và các nguồn lực khác trong FDI) để
tự mình tiến hành đầu tư.
FDI cũng tác động đến đầu tư tại nước chủ nhà một cách gián tiếp thông qua
việc tác động đến đầu tư của các công ty của nước chủ nhà. FDI có thể tác
động đến lượng đầu tư của nước chủ nhà một cách gián tiếp thông qua việc làm
gia tăng hoặc làm giảm đầu tư nội địa. Cả hai tác động này đều có thể xảy ra,
phụ thuộc vào các hoạt động của các MNCs, sức mạnh của các công ty địa
phương và chức năng của thị trường nhân tố tại địa phương. MNCs có thể làm
gia tăng đầu tư nội địa khi giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới tại nước chủ
nhà, tạo ra các cơ hội đầu tư mới cho các công ty địa phương, tạo ra các mối
liên kết với các nhà sản xuất địa phương, và không chiếm nguồn tín dụng địa
phương, thậm chí làm tăng hiệu quả của các trung gian tài chính. Nhân tố cơ


bản quyết định việc làm gia tăng đầu tư nội địa là việc tồn tại hoặc tạo ra những
liên kết tiến và lùi với các công ty của nước chủ nhà.

1.3. Tạo điều kiện để các nước đang phát triển tiếp cận với KH - KT hiện đại và
đổi mới công nghệ
Các MNCs thường là các công ty dẫn đầu về đổi mới trong ngành của mình.
Các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ thông qua 2 cách:
Các công ty này chuyển giao công nghệ nội bộ cho công ty con tại nước ngoài
Chuyển giao cho công ty khác thông qua các phương thức: mua bản quyền,
MNCs đầu tư khoa học kỹ thuật, nguồn lực con người tại các quốc gia nhận
đầu tư, chuyển giao bên ngoài như cấp giấy phép sử dụng công nghệ,....
Các công nghệ mà các MNCs chuyển giao cho những công ty con nước ngoài
của mình thường hiện đại và hiệu quả hơn những công nghệ sẵn có tại nước

chủ nhà, đặc biệt là nước chủ nhà đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi.
Các quốc gia đi sau sẽ có cơ hội tiếp nhận chuyển giao các công nghệ tiên tiến
trên thế giới, rút ngắn quá trình tăng trưởng, phát triển nhanh hơn, hội nhập
công nghệ thế giới
Khi các công ty đa quốc gia đặt các hoạt động chuyển giao R&D tại các nước
đang phát triển sẽ làm tăng khả năng thúc đẩy việc nghiên cứu sáng tạo phát
triển những công nghệ mới tiến bộ

1.4. Cơ cấu thị trường và gia tăng cạnh tranh trong nước
Đầu tư của các MNCs có thể tác động tới cơ cấu thị trường và cạnh tranh tại
các nền kinh tế chủ nhà với các ảnh hưởng đối với hoạt động của những ngành
và thị trường mà nó tham gia.


Sự thâm nhập của MNCs ban đầu sẽ làm tăng số lượng công ty trong một
ngành hoặc một thị trường của nước chủ nhà. Các MNCs phát triển nhanh
trong những thị trường tập trung: những lợi thế sở hữu chính của chúng (về
công nghệ, sự khác biệt sản phẩm và tổ chức) khiến cho các công ty kém hoạt
động kém hiệu quả hơn phải rời bỏ thị trường và vì thế lại làm tăng mức độ tập
trung lên, tạo áp lực cạnh tranh cho các công ty nội địa tại nước chủ nhà. Các
công ty nội địa có thể phản ứng với áp lực cạnh tranh bằng việc tăng cường
năng lực hoặc bị loại bỏ khỏi thị trường hoàn toàn. Điều này giúp đem lại một
cơ cấu công nghiệp cạnh tranh và hiệu quả hơn. Tạo tiền đề cho các doanh
nghiệp trong nước phải tự vươn lên, đổi mới sáng tạo về mọi mặt để nâng cao
sức cạnh tranh giúp trong nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng và hội
nhập quốc tế.

1.5. Thúc đẩy khả năng cạnh tranh xuất khẩu và thương mại, góp phần mở rộng
QHQT


FDI và các hoạt động của MNCs có thể giúp các nước đang phát triển khai thác
các lợi thế so sánh vốn có trong thương mại quốc tế và xây dựng những lợi thế
mới. Nhiều MNCs có động cơ định hướng nguồn lực và định hướng hiệu quả,
khiến họ đầu tư vào các hoạt động hướng vào xuất khẩu tại các nước chủ nhà.
Các MNCs chiếm một tỷ trọng lớn trong xuất khẩu và nhập khẩu của thế giới.
Vai trò của chúng đối với thương mại lớn hơn trong các ngành có hàm lượng
công nghệ và kỹ năng cao và trong các hoạt động giá trị gia tăng cao, bao gồm
các dịch vụ có khả năng trao đổi cũng như sản xuất. Các MNCs ngày càng thiết
lập nhiều hệ thống sản xuất kết hợp giữa các quốc gia, với việc chuyên môn
hóa đáng kể giữa các đơn vị được phân tán về mặt địa lý với các mức độ công
nghệ và chi phí lao động khác nhau. MNCs cũng rất tích cực trong việc khai
thác các nguồn lực tự nhiên và sản xuất các sản phẩm dựa trên nguồn lực tự


nhiên dành cho xuất khẩu tại các nước đang phát triển và trong việc tái định vị
các hoạt động và quy trình đơn giản, có hàm lượng lao động cao (bao gồm cả
trong các ngành công nghệ cao) tại các nước đang phát triển, phục vụ cho sản
xuất định hướng xuất khẩu, giúp khai thác các lợi thế so sánh vốn có, xây dựng
các lợi thế so sánh mới và gia tăng khả năng tiếp cận trực tiếp các thị trường
quốc tế, đồng thời góp phần mở rộng quan hệ quốc tế cho nước nhận đầu tư.

1.6. Tạo công ăn việc làm và nâng cao trình độ lao động
1.6.1. Tạo công ăn việc làm
Dựa vào lợi thế nguồn tài nguyên lao động dồi dào và nguồn nhân công lao
động giá rẻ tại các nước đang phát triển, các công ty đa quốc gia đã tạo ra một
khối lượng việc làm khổng lồ một cách trực tiếp khi nó thành lập một công ty
con tại đây hoặc mở rộng quy mô công ty con đang hoạt động, và gián tiếp
thông qua việc tạo thêm việc làm tại các nhà cung cấp và các nhà phân phối
(phục thuộc vào mức độ sâu sắc của các liên kết địa phương nội địa). Trong
trung hạn, việc làm cũng có thể tăng lên thông qua các tác động gia tăng xuất

phát từ thu nhập mới được tạo ra bởi FDI hoặc thông qua cầu lao động tăng lên
do nâng cao hiệu quả và tái cơ cấu các công ty cạnh tranh.
Để thu hút lao động địa phương, các công ty này thường trả mức lương cao hơn
so với các công ty trong nước với cùng vị trí hoạt động và có xu hướng đảm
bảo về việc làm cao hơn các công ty nội địa vì quy mô, sức mạnh cạnh tranh
cũng như nhu cầu về lực lượng lao động ổn định của chúng
1.6.2. Nâng cao trình độ lao động
Các MNCs có xu hướng nâng cấp kỹ năng của các lao động trong các công ty
con nước ngoài tại nước chủ nhà bằng việc đầu tư vào đào tạo. Việc đào tạo có
thể tiến hành trong quá trình làm việc hoặc các khóa đào tạo chính thức trong
công ty hay tại các tổ chức chuyên nghiệp.


Mục đích của việc đào tạo này là thu được lợi ích cho MNCs và các công ty
con nước ngoài có thể sử dụng nhiều phương thức (ví dụ như thưởng cho nhân
viên làm việc lâu năm, chính sách thăng tiến và các hình thức đào tạo ràng
buộc) để đảm bảo rằng những lợi ích của việc đào tạo sẽ chủ yếu thuộc về công
ty.
Nhìn chung, các MNCs cũng khuyến khích các nhà cung cấp và những nhà
phân phối địa phương đào tạo lao động để đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng của
mình và tác động đến việc đẩy mạnh hoạt động đào tạo của các đối thủ cạnh
tranh và các công ty khác tại địa phương. Các MNCs có thể tương tác với các
cơ sở giáo dục và đào tạo địa phương để củng cố các hoạt động đào tạo,
chương trình đào tạo và các liên kết với doanh nghiệp.
Các công ty con nước ngoài của các MNCs lớn tại các nước phát triển thường
có nhiều kinh nghiệm về quản trị nguồn nhân lực và có các chương trình đào
tạo tốt và thường cung cấp các hoạt động đào tạo có chất lượng tốt hơn so với
các công ty tại các nước đang phát triển.

2. Tác động tiêu cực của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế các nước

đang phát triển
2.1. Thứ nhất, các công ty đa quốc gia gặt hái nhiều lợi nhuận ở các quốc gia
đang phát triển nhờ vị trí siêu độc quyền của họ tại các nền kinh tế này. Tuy
nhiên, phần lớn các khoản lợi nhuận này được chuyển ra nước ngoài cho công
ty mẹ chứ không được tái đầu tư ở nước chủ nhà

2.2. Thứ hai, các công ty đa quốc gia còn tính giá phí quá cao khi chuyển giao
công nghệ cho các công ty con. Các công ty con phải phụ thuộc nhiều vào máy
móc, thiết bị, linh phụ kiện hơn so với các công ty trong nước. Các công ty đa
quốc gia làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế các nước đang phát triển vào


vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của công ty này. Các công ty đa
quốc gia tiến hành đầu tư, lập nhiều khu công nghiệp, các nhà máy chế tạo sản
phẩm. Các quy trình đều do các công ty mẹ nắm quyền và được chuyển giao
cho các nước đang phát triển. Đồng thời các công ty đa quốc gia cững nắm giữ
những đường dây tiêu thụ hàng hóa từ các nước phát triển. Chính vì vậy, nước
đang phát triển dựa vào nhiều vào đầu tư nước ngoài của các công ty đa quốc
gia thì sự phụ thuộc kinh tế ngày càng lớn. Đồng thời việc chuyển giao công
nghệ khoa học còn gặp phải thách thức lớn, đó là các quốc gia đang phát triển
có nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ thế giới do họ chỉ được tiếp cận với
những công nghệ đã lạc hậu không theo kịp sự phát triển chung của thế giới bởi
các công ty con tại các nước chủ nhà phát triển nhận các công nghệ phức tạp
hơn, trong khi các nước kém phát triển hơn nhận những công nghệ và quy trình
đơn giản

2.3. Thứ ba, các công ty đa quốc gia thường được vay ưu đãi từ ngân hàng ở
các nước chủ nhà nhiều hơn so với các công ty trong nước. Đây cũng được coi
là một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của các công ty
trong nước luôn kém hơn hơn các công ty đa quốc gia này. Một khía cạnh nữa

là đầu tư vào các nước đang phát triển của các công ty đa quốc gia có thể xảy
ra tình trạng khiến các công ty nội địa đi tới phá sản do các công ty đa quốc gia
có thế mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi khi còn được hưởng những ưu đãi lớn
hơn so với công ty nội địa. Như vậy các nước này cần phải xây dựng môi
trường cạnh tranh bình đẳng, cơ chế luật pháp đảm bảo cho doanh nghiệp trong
nước không bị bất lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài

2.4. Thứ tư, nhiều công ty đa quốc gia còn không góp phần thúc đẩy kỹ năng
kinh doanh ở nước chủ nhà, bởi lẽ họ thâm nhập vào thị trường các nước đang


phát triển bằng con đường mua lại doanh nghiệp trong nước hoặc sử dụng
nguồn lực vượt trội của mình để loại bỏ đối thủ cạnh tranh

2.5. Thứ năm, nhiều nhà máy khai thác tài nguyên thuộc các công ty đa quốc
gia còn gây ô nhiễm môi trường cho các nước đang phát triển. Các công ty đa
quốc gia trong một số trường hợp cũng thông qua đầu tư nước ngoài để “xuất
khẩu ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển - nơi mà luật pháp và các biện
pháp cưỡng chế bảo vệ môi trường chặt chẽ, sang các nước đang phát triển- nơi
mà luật pháp và các biện pháp cưỡng chế, luật pháp bảo vệ môi trường không
hữu hiệu
VD:
Formosa Hà Tĩnh đứng đầu danh sách thủ phạm gây ra thảm họa môi trường
lớn nhất tại Việt Nam trong nhiều năm qua, gây ô nhiễm môi trường biển
nghiêm trọng khiến cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh khu vực miền Trung từ Hà
Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế. Theo kết quả điều tra của Chính phủ, những vi
phạm và sự cố trong quá trình thi công, vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy
của Công ty là nguyên nhân gây ra tình trạng này. Công ty Formosa Hà Tĩnh đã
nhận trách nhiệm và cam kết bồi thường thiệt hại 500 triệu USD.
Sau hơn 1 năm bị phát hiện xả nước thải “chui” ra sông Thị Vải (tháng 9/2008),

tháng 12/2009, Viện Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh đã công bố
kết quả nghiên cứu dựa trên các quan trắc kỹ thuật cho thấy công ty bột ngọt
Vedan đã gây ra 80% - 90% ô nhiễm cho sông Thị Vải, huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai. Trước đó, năm 2006, đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên và Môi
trường từng thanh tra đột xuất và phát hiện công ty Vedan xả trực tiếp nước thải
không qua xử lý vào sông Thị Vải. Kết quả xử lý sai phạm tại Vedan đã tính
đến các tình tiết tăng nặng. Tổng mức phạt hành chính với Vedan là 267,5 triệu
đồng cho 12 lỗi vi phạm. Ngoài ra, Vedan phải nộp 127 tỷ đồng truy thu phí


bảo vệ môi trường. Sau khi nộp phạt và xử lý các vi phạm môi trường, Vedan
vẫn tiếp tục hoạt động.

2.6. Thứ sáu, khi công ty mẹ tái cơ cấu hoặc các công ty đa quốc gia rút vốn
đầu tư và đóng cửa các công ty con tại các nước đang phát triển, sẽ gây nên
tình trạng khủng hoảng thất nghiệp hàng loạt ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc
gia đó gây nên sự phụ thuộc khá lớn vào các MNCs của các quốc gia đang phát
triển

2.7. Thứ bảy, một tác động tiêu cực khác của công ty đa quốc gia là can thiệp
vào nền kinh tế chính trị của các nước nhỏ thông qua một số các khác nhau do
sự phụ thuộc của nước nhận đầu tư. Tuy vậy, thường thì các công ty đa quốc
gia đánh giá cao sự ổn định chính trị của một nước, như vậy thì họ có thể yên
tâm đặt lòng tin và đầu tư vào nước đó.

IV. Vai trò và tác động của mô hình công ty đa quốc gia tới nền kinh tế
Việt Nam
Với nguồn tài nguyên và nhân lực dồi dào sẵn có, tiềm năng phát triển kinh tế
mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai, kết hợp với chính sách mở cửa và khuyến
khích đầu tư nước ngoài hiện nay, các quốc gia đang phát triển – đặc biệt với

những nước có nền chính trị ổn định như Việt Nam - chính là “miền đất hứa”
thu hút sự xâm nhập của các công ty đa quốc gia trên khắp thế giới. các công
ty đa quốc gia tham gia hầu hết vào các ngành của nền kinh tế: công nghiệp
khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ thị trường nội địa và
khách sạn du lịch được coi là các lĩnh vực hấp dẫn và thu hút nhiều công ty đa
quốc gia nhất. Ngoài ra, lĩnh vực công nghiệp phân phối hàng tiêu dùng, tài


chính - ngân hàng, chế biến nông – lâm - hải sản…cũng được các công ty đa
quốc gia rất quan tâm đầu tư.
Tuy nhiên, xét trên chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh
hưởng trên thị trường thế giới thì Việt Nam còn quá ít công ty đa quốc gia lớn.
Ngoài 106 tập đoàn đa quốc gia trong danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới theo xếp hạng của tạp chí Fortune năm 2006, với 214 dự án, 11,09 tỷ USD vốn
đăng ký và 8,59 tỷ USD vốn thực hiện (vốn đăng ký trung bình 50 triệu
USD/dự án), còn lại phần lớn FDI do trên 400 công ty đa quốc gia không nằm
trong danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới đầu tư vốn dưới 20
triệu USD/dự án. Trong khi dựa trên quy mô của các dự án để đánh giá loại
hình công ty đa quốc gia thì với lượng vốn đầu tư nhỏ hơn 20 triệu USD/dự án,
công ty đa quốc gia đó được xếp vào dạng vừa và nhỏ trên thế giới.
Mặc dù vậy, sự xuất hiện và quá trình phát triển của các công ty đa quốc gia đã
đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế vừa khôi phục sau chiến tranh và
chuyển mình từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Vai trò
Vai trò của các MNCs đối với các quốc gia đang phát nói chung và và đối với
Việt Nam nói riêng đều có sự tương đồng.
1.1. Thúc đẩy hoạt động thương mại
Như đã trình bày ở phần 2, các doanh nghiệp FDI – chi nhánh của các MNCs là
chủ thể quan trọng, trực tiếp thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của các quốc

gia. Cụ thể, đối với Việt Nam, trên nhiều phương diện nỗ lực đàm phán, hội
nhập sâu rộng tính đến nay Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và
rất nhiều các diễn đàn kinh tế lớn nhỏ trên thế giới.Với mạng lưới các MNCs
trải dài từ Bắc vào Nam, Việt Nam đang có rất nhiều thuận lợi trong việc mở


cửa và hội nhập quốc tế, bên cạnh đó, các hoạt động chuyển giao như liên kết,
đầu tư, nghiên cứu và phát triển công nghệ thúc đẩy bộ máy quản lý của Việt
Nam ngày một hoàn thiện về thể chế, chính sách pháp luật sao cho vừa phù hợp
để phát triển kinh tế nước nhà, vừa kiểm soát được các hoạt động của chi nhánh
MNCs.

1.2. Thay đổi trong cơ cấu hàng hóa
Xuất phát điểm là một nước thuần nông, trình độ kỹ thuật còn yếu kém, mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là nông sản và nguyên liệu thô. Nhiều năm liền luôn
đặt “nông nghiệp” và “công nghiệp” làm kinh tế mũi nhọn để phát triển. Một
thập kỷ trở lại đây, với chiến lược hoạt động của các MNCs, chú trọng đầu tư
vào các hoạt động thương mại tỷ mà suất lợi nhuận của ngành dịch vụ ngày
càng tăng cao, trong khi lợi nhuận của nông nghiệp và công nghiệp giảm dần.
Điều này lý giải cho sự kiện ngành du lịch là ngành duy nhất tăng trưởng ổn
định trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008-2009. Kể từ đó, các
chính sách phát triển du lịch của nhà nước, các nguồn vốn thu hút được từ nước
ngoài và các MNCs đều đầu tư mạnh vào ngành dịch vụ và thúc đẩy giá trị xuất
khẩu của hàng hóa dịch vụ tăng cao.

1.3. Thay đổi cơ cấu đối tác
Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng trong tiến trình toàn cầu hóa,
Việt Nam hiện tại đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước thuộc tất cả các châu
lục. Gần đây nhất, vào tháng 11/2019, Việt Nam chính thức trở thành chủ tịch
của tổ chức hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á(ASEAN). Hơn thế nữa, Việt

Nam cũng trở thành một trong 5 ủy viên của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.
Với vai trò và vị thế mới, Việt Nam ngày càng nâng cao tầm ảnh hưởng của
mình trong khu vực và trong mắt bạn bè thế giới. Qua đó, càng chú trọng đẩy


mạnh phát triển các hoạt động xuất nhập khẩu, kết hợp với chuyển giao tiến bộ
khoa học kỹ thuật, trình độ nhân lực ngày càng được cải thiện xuất khẩu Việt
Nam ngày càng chinh phục được các thị trường khó tính ...ngày càng có tiếng
nói trên thị trường xuất khẩu quốc tế.
1.4. Thúc đẩy lưu thông dòng vốn đầu tư, làm tăng tích lũy vốn của nước chủ
nhà
Một trong những vai trò nổi bật nhất của MNCs chính là thúc đẩy lưu thông
dòng vốn đầu tư vì trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được
thực hiện qua kênh MNCs, dòng vốn được qua điều chỉnh để phù hợp với chiến
lược kinh doanh của các chi nhánh khác nhau.
Ví dụ như nhà máy sản xuất của Hàn Quốc-Samsung được đặt tại tỉnh Thái
Nguyên của Việt Nam, dòng vốn được đưa vào Việt Nam thông qua việc xây
dựng 4 chi nhánh lấy tên là Tổ hợp Samsung Việt Nam (SAVINA) hoạt động
dưới thương hiệu SamSung, không chỉ là giải quyết công ăn việc làm cho
khoảng 100.000 lao động mỗi năm , bên cạnh đó đóng góp một phần không
nhỏ vào tổng sản phẩm quốc nội cũng như kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Theo số liệu từ Samsung Việt Nam, trong quý 1/2018, tổ hợp các công ty của
Tập đoàn này đã xuất khẩu 15 tỷ USD.Trong khi đó, số liệu của Hải Quan cho
thấy, kim ngạch xuất khẩu Việt Nam quý 1 là 54,3 tỷ USD. Như vậy, Samsung
đang chiếm tỷ trọng khoảng 27,6% trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.

Một ví dụ cho thấy tầm ảnh hưởng của Samsung là ngày càng lớn đối với nền
kinh tế Việt Nam. Đó là trong quý 1/2017, GDP của Việt Nam chỉ tăng trưởng
5,21%, mức thấp nhất trong vài năm, mà nguyên nhân chính dẫn đến mức tăng
thấp này là do sự cố điện thoại Galaxy Note 7, khiến Samsung phải thu hồi sản

phẩm và tác động mạnh đến kết quả kinh doanh.Đến đầu năm 2018, hoạt động
kQinh doanh của Samsung đã ổn định trở lại và Samsung công bố những kỷ lục


doanh thu lợi nhuận mới. Ngay lập tức GDP quý 1/2018 của Việt Nam tăng
7,38%, mức tăng cao nhất trong 10 năm qua.
Ngược lại, Việt Nam cũng rất quan trọng đối với Samsung nhờ lợi thế lực
lượng lao động trẻ, giá rẻ và đông. Trung Quốc cũng từng sở hữu thế mạnh này
nhưng tuổi đời trung bình của Trung Quốc hiện cao hơn Việt Nam 7 năm và chi
phí nhân công đắt gấp đôi. So với Apple sản xuất iPhone ở Trung Quốc, việc
Samsung đặt nhà máy tại Việt Nam giúp tạo lợi thế cạnh tranh về giá.
Nếu Samsung duy trì tốc độ đầu tư như thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam dự
báo sẽ tiếp tục có những đột phá mới.

1.5. Chủ thể trong hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ
Đi đầu trong đổi mới công nghệ, đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị trường và giữ vị trí độc quyền. Chính vì thế, các MNCs luôn lấy
yếu tố công nghệ làm nòng cốt trong chiến lược kinh doanh lâu dài
Vẫn là ví dụ về Samsung Việt Nam, Tổng cộng, tập đoàn này đang sử dụng hơn
100.000 người lao động Việt, biến Việt Nam trở thành nhà xuất khẩu điện thoại
thông minh lớn thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc.Việc liên kết giữa các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước là tiền đề
để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện để tiếp cận khoa học kỹ thuật tiến
bộ, chuyển giao trình độ hiện đại tiên tiến của các nước phát triển ứng dụng
vào ngành sản xuất trong nước, tăng hàm lượng sản phẩm ứng dụng công nghệ
cao trong kim ngạch xuất khẩu. Không riêng gì ngành điện tử viễn thông, mà
các ngành như công nghiệp, dịch vụ và đặc biệt là nông nghiệp cũng đang tận
dụng rất tốt vai trò này của MNCs

Tác động



2.1. Tác động tích cực
Trên tổng thể, nguồn vốn do TNCs đầu tư vào Việt Nam trong hơn 20 năm qua
đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, tạo dựng
được cơ sở quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cụ thể :
- Cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Góp phần duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định.
- Góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Mở rộng xuất khẩu, tăng thu ngân sách
- Nâng cao trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm và kỹ năng quản lý kinh
doanh
- Tạo việc làm, giúp phát triển nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập cho người
lao động
- Nhân tố chính thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa
và hội nhập kinh tế của Việt Nam.

2.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh vai trò tích cực đó thì các công ty đa quốc gia dù trực tiếp hay gián
tiếp cũng có ảnh hưởng nhất định đến chính sách kinh tế của Nhà nước, đến
tình hình kinh tế - xã hội quốc gia:
- Dễ gây mất cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế


×