Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

2.Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.16 KB, 16 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong chương trình của bậc tiểu học, cùng với môn Toán, môn Tiếng Việt
chiếm vị trí quan trọng. Tiếng Việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các
bộ môn khác và nó còn cung cấp cho học sinh hệ thống vốn từ, cách diễn đạt, kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết,… Đặc biệt, phân môn Tập làm văn là phân môn giữ vai
trò quan trọng mang tính chất thực hành toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Với tầm
quan trọng và vị trí của nó trong hệ thống chương trình Tiếng Việt tiểu học, việc
dạy- học Tập làm văn phải kết hợp nhiều kiểu bài, nhiều thể loại bài mới đáp ứng
được yêu cầu trên. Mỗi thể loại, mỗi kiểu bài đều có những yêu cầu cơ bản về kiến
thức, kĩ năng khác nhau.
Ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm khá nhiều thời lượng trong các thể loại Tập
làm văn. Văn miêu tả được chia thành các kiểu bài khác nhau căn cứ vào đối tượng
miêu tả. Các kiểu bài miêu tả ở lớp 4 bao gồm: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật.
Với học sinh tiểu học, nhất là học sinh các lớp 4 việc hình thành và phát triển
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng, được thực hiện ở tất cả các
môn học và nổi bật nhất là ở môn Tiếng Việt. Do đó, việc dạy tập làm văn ở tiểu
học góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện
cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác.
Chính những văn bản viết các em có được từ phân môn tập làm văn đã thể hiện
những hiểu biết thực tế, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em được học ở
môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác.
Tất cả đều là các chủ đề khá gần gũi nhưng khó so với các em vì khả năng trình
bày, diễn đạt vấn đề thông qua nói và viết đối với nhiều em là rất khó khăn, lúng
túng, các em rất e ngại, sợ phải trình bày, diễn giải một vấn đề nào đó mà thầy cô,
bạn bè yêu cầu. Nhiều em rất sợ, rất ngán ngẩm khi nhắc đến Tập làm văn. Bản
thân các em cũng gặp nhiều khó khăn trong việc cảm nhận cái hay, cái đẹp trong
các bài văn, bài thơ được học.
Qua nhiều năm trực tiếp đứng lớp giảng dạy, cho thấy học sinh rất lúng túng
khi học làm văn miêu tả. Khi viết bài các em hay liệt kê những điều quan sát, cảm
nhận được mà chưa miêu tả một cách cụ thể, sinh động, giàu cảm xúc để làm nổi


bật những nét riêng, nét độc đáo của đối tượng được miêu tả nhằm tạo ấn tượng cho
người đọc. Vấn đề đặt ra lúc này là: Làm thế nào để học sinh có kĩ năng viết văn
miêu tả? Chính điều đó đã thôi thúc tôi không ngừng học hỏi, tìm tòi và nghiên cứu
để thực hiện đề tài: “Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả.”
II. MỤC ĐÍCH – NHIỆM VỤ
1. Mục đích
- Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,
mạch lạc. Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
1


- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh
các em.
2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu mục tiêu, nội dung, chương trình và những phương pháp dạy học
để giảng dạy văn miêu tả.
- Tìm hiểu những kĩ năng cơ bản cần trang bị để phục vụ giảng dạy văn miêu
tả cho học sinh.
- Có phương pháp dạy học thích hợp tùy vào từng đối tượng học sinh, kích
thích óc quan sát, sáng tạo, gây hứng thú học tập môn học cho các em.
- Đề ra các biện pháp thiết thực giúp học sinh lớp 4 học văn miêu tả có hiệu
quả.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát thông qua hoạt động giảng
dạy 2 năm (Năm học 2015-2016, năm học 2016 -2017) trên đối tượng học sinh lớp
4 do tôi phụ trách.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Các dạng văn miêu tả ở lớp 4: Đồ vật, cây cối, con vật.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, tôi đã kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp điều tra, quan sát sư phạm
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là môn
học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập
và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh
học tốt các môn học khác.
Trong đó phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng và
khó nhất đối với học sinh Tiểu học. Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản
sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ,
rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình thành
nhân cách con người. Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các
em học sinh có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới về thế giới xung
quanh, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung
động trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng
ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả.
Vì vậy, việc rèn kĩ năng viết văn (đặc biệt là văn miêu tả) cho học sinh là
điều rất quan trọng và hết sức cần thiết. Vấn đề đặt ra là rèn kĩ năng viết văn cho
2


học sinh như thế nào cho hợp lí, hiệu quả, đảm bảo khoa học ; phát huy được tính
tích cực, chủ động của học sinh, phát huy cao độ trí tuệ và cảm xúc của các em để
thực hiện tốt các yêu cầu của bài học.
2. Thực trạng
a.1. Thuận lợi

- Nội dung các bài làm văn lớp 4 được gắn với các chủ điểm, có sự tích hợp
rõ nét với các phân môn khác trong chương trình Tiếng Việt. Quá trình hướng dẫn
học sinh thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý, nói, viết đoạn hoặc cả
bài văn là những cơ hội giúp học sinh mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo chủ
điểm đang học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn, quan sát đối tượng, tìm
lí lẽ, dẫn chứng trình bày và tranh luận… Góp phần phát triển năng lực phân tích
tổng hợp của học sinh.
- Học các tiết làm văn miêu tả, học sinh có điều kiện tiếp cận với cái đẹp của
của sự vật. Học sinh có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát
triển mẫu mực nhân cách con người Việt Nam.
a.2. Khó khăn
- Óc khái quát chưa cao, học sinh thường chú trọng đi sâu vào chi tiết cụ thể
mà chưa có khả năng tổng hợp vấn đề cần diễn đạt.
- Kĩ năng làm văn: Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý cũng như kĩ năng chuyển từ dàn
ý sang một bài văn hoàn chỉnh chưa thực sự thuần thục và nhuần nhuyễn. Bài văn
của các em thường có rất nhiều lỗi như: lặp từ, lặp ý, diễn đạt lủng củng,… Các em
thường viết bài theo kết quả quan sát một cách rời rạc cùng với sự góp nhặt và lắp
ghép của trí nhớ.
- Khả năng khái quát vấn đề ở học sinh chưa cao, thường chú trọng đi sâu
vào những chi tiết cụ thể. Các em còn hạn khả năng tổng hợp vấn đề.
b.1. Thành công
- Giáo viên có kiến thức kĩ năng cũng như kinh nghiệm trong việc dạy văn
miêu tả. đặc biệt giáo viên nắm vững các tiết luyện viết đoạn trong văn miêu tả.
- Học sinh tích cực, có ý thức học tập tốt chăm chỉ, ham học hỏi.
b.2. Hạn chế
- Giáo viên chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi học phân môn Tập làm
văn.
- Một số em vốn từ còn hạn chế khả năng diễn đạt, cách dùng từ đặt câu.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
c.1. Mặt mạnh: Đa số các em có kiến thức cơ bản phân môn Tập làm văn

c.2. Mặt yếu
- Một số em còn dựa vào văn mẫu, chưa có sự sáng tạo.
- Bài viết của học sinh chưa đầy đủ bố cục, còn mắc nhiều lỗi chính tả.
- Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng.
- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
3


d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Về phía học sinh:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan
sát những gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối
tượng cần miêu tả.
- Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả
khi quan sát.
- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch
lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một vật, một cây
cối nào đó.
* Về phía giáo viên:
Giáo viên còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo
trong việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh. Phân môn Tập làm văn là
một môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng chưa có cách phát huy tối đa
năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được nhiều cho
các em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra
rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết
ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
g. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi phân tích, đánh giá như sau:

- Giúp học sinh nắm vững cấu tạo thể loại văn miêu tả với cách xây dựng
từng phần mở bài, thân bài, kết bài. Điều này không chỉ giúp học sinh có bố cục
hoàn chỉnh mà còn phát triển năng lực tư duy lôgic cho các em.
- Phát triển năng lực quan sát cho học sinh: Quan sát là một phẩm chất rất
cần thiết và quan trọng của con người. Vì thế, dạy văn miêu tả cần phải dạy cho
học sinh phát triển năng lực quan sát. Đó là một trong những bước đầu tiên, mang
tính nền tảng để có một bài văn miêu tả chân thực, sinh động.
- Hướng dẫn học sinh tích lũy và làm giàu vốn từ của bản thân, có ý thức
chọn lọc từ ngữ khi sử dụng. Bởi lẽ điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
ra một bài văn miêu tả hay.
- Hướng dẫn các em làm giàu vốn sống, tạo điều kiện phát triển tốt trí tưởng
tượng, sáng tạo cho học sinh.
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự phát hiện, tìm ra những sai lầm của học
sinh để có biện pháp giúp đỡ kịp thời.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
Để các em nâng dần chất lượng học tập và hứng thú khi học phân môn Tập
làm văn đặc biệt là văn miêu tả. Để rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý, rèn kĩ
4


năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc, rèn kĩ
năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Căn cứ vào phương pháp dạy học nói chung và đặc điểm của phân môn tập
làm văn, tôi đã kiên trì thực hiện các biện pháp sau nhằm giải quyết có kết quả các
vấn đề nêu trên:
3.2.1.Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập (rèn kĩ năng nhận diện đặc
điểm thể loại văn và phân tích đề bài)
Bất kì một đề bài Tập làm văn nào, việc giúp học sinh nắm vững yêu cầu của

đề bài là rất quan trọng. Đây là định hướng đầu tiên để học sinh hệ thống lại trong
trí nhớ của mình thể loại văn cần tả. Từ đó, xác định bố cục bài văn và dàn ý của
thể loại văn cần tả. Tức rèn cho các em có thói quen và kĩ năng nhận diện thể loại
văn cũng như kĩ năng phân tích đề bài.
Ví dụ : Đề bài “Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của em” (SGK TV4, T2,
trang 18)
- Giáo viên cần giúp học sinh xác định đúng thể loại văn bằng cách đưa ra
các gợi ý để học sinh lựa chọn (văn kể chuyện, văn miêu tả, viết thư, ...).
- Sau khi học sinh xác định được thể loại văn (tả đồ vật), giáo viên giúp học
sinh xác định yêu cầu của đề bài: Tả cái gì ? (Tả cái bàn học ở lớp hay ở nhà của
em). Việc làm này giúp học sinh nhận ra rằng: đồ vật các em cần tả là một cái bàn
học ở lớp hay ở nhà của em chứ không phải là tả những cái bàn học khác. Đây là
bước rèn cho học sinh kĩ năng phân tích đề bài.
- Bước tiếp, giáo viên có thể đưa ra một số đề bài tương tự yêu cầu học sinh
nhận diện thể loại văn và phân tích đề bài để xác định yêu cầu: Tả cái gì ?
Ví dụ: Đề bài Tả chiếc cặp sách của em hay Tả chiếc áo em mặc đến lớp
hôm nay, ...) Với các đề bài này, học sinh phải xác định được: thể loại văn là văn
miêu tả (tả đồ vật) và các em tả chiếc cặp của mình chứ không phải tả chiếc cặp của
bạn; tả chiếc áo mà các em mặc đến lớp hôm nay chứ không phải chiếc áo nào
khác.
Ví dụ: Đề bài Tả một cây có bóng mát (SGK TV4 T2, trang 92). Học sinh
phải xác định được những cây nào là cây có bóng mát (cây có tán xòe rộng, lá dày
có thể che bóng mát như cây bàng, cây cổ thụ, cây đa, ...) Học sinh xác định được
đối tượng miêu tả tức là đã có kĩ năng phân tích đề bài.
3.2.2. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả
Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu
quan sát để làm văn. Cùng một đối tượng (Ví dụ cùng một con gà trống) nhưng mỗi
cá nhân lại có sự cảm nhận riêng (có em thích màu sắc bên ngoài, có em thích dáng
vẻ oai vệ, có em lại thích tiếng gáy, …). Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các
em, không phê phán vội vàng, chủ quan, phải giúp học sinh tự tin trong học tập.

Tuy nhiên, để miêu tả một đối tượng nào đó, giáo viên cần giúp các em biết quan
sát đối tượng theo từng góc nhìn, từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “Điểm
5


nhấn” của đối tượng tạo ra nét riêng biệt trong bài văn của mình. Do vậy, để đảm
bảo tính chân thực của bài miêu tả cần phải được bắt nguồn từ quan sát trực tiếp đối
tượng miêu tả, kết hợp với kinh nghiệm sống, trí tưởng tượng của học sinh, phải thể
hiện được tình cảm, cảm xúc thực của các em trước đối tượng miêu tả. Tính chân
thực đòi hỏi phải có chi tiết thực, tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện
được những nét đẹp đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của người học sinh khi
bộc lộ thái độ của các em với đối tượng miêu tả.
Để thực hiện những yêu cầu trên, tôi thường hướng cho học sinh thực hiện
thật tốt từng bước:
+ Xác định cụ thể và chọn một đối tượng cần quan sát (đó là vật gì? hoặc con
gì? hay cây gì?).
+ Quan sát sự vật bằng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu giác và
cả xúc giác. Trước tiên là quan sát bao quát đối tượng và cảm nhận (nó đẹp, dễ
thương, hoặc oai phong, hay dữ tợn,..), rồi quan sát từng bộ phận của đối tượng
theo một trình tự nhất định (từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, hoặc đầu, mình rồi
đến các chi, …) Quan sát thật kĩ những bộ phận của sự vật mà em thích thú, ấn
tượng. Khi quan sát sự vật, các em cũng có thể trao đổi theo nhóm với nhau để tìm
ra những đặc điểm riêng của đối tượng một cách tốt nhất.
+ Kết hợp quan sát là ghi chép (ghi chép những điều quan sát được) và liên
tưởng (liên tưởng để so sánh, nhân hóa sự vật).
Chẳng hạn, để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có
chứa câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.) của
bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (sách lớp Bốn, tập hai, trang
130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con gà trống mà em đã gặp.

+ Quan sát (hoặc nhớ lại) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận của nó.
Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
3.2.3. Biết chọn lựa, sử dụng từ ngữ giàu tính gợi tả, gợi cảm, nói-viết câu
văn có dùng phép so sánh, nhân hóa phù hợp với đối tượng miêu tả:
Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh, nhân
hóa khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn,
ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Như vậy, việc giúp các em biết tìm từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp
để miêu tả sự vật cụ thể là vừa giúp phát huy tốt năng lực của mỗi học sinh, vừa
góp phần cung cấp ý văn, từ ngữ phù hợp cho những học sinh khác.
+ Cùng với việc giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan sát, giáo
viên có thể gợi ý cho mỗi học sinh tự chọn chi tiết cụ thể của đối tượng cần miêu
tả, rồi tìm những từ ngữ, ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà mình cảm
thấy phù hợp, hay có thể sử dụng để miêu tả chi tiết đó của đối tượng.
+ Lớp nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù
hợp.
6


+ Vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý
thích của riêng mình đưa vào bài của mình, tạo ra nét riêng trong chính bài làm của
mình.
Ví dụ ở với bài tập 3 của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật):
Trước tiên, tôi giới thiệu cho các em hình ảnh hoặc videoclip về một số con gà
trống cho các em chọn lựa và quan sát một con mà em thích. Tiếp đó là cùng với
việc sử dụng Dàn bài chung của bài văn miêu tả con vật đã xây dựng (nội dung Tả
hình dáng ở phần thân bài), tôi sẽ lần lượt hướng cho các em nêu các bộ phận tiêu
biểu của con gà trống và những ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà
mình cảm thấy hay, phù hợp, có thể sử dụng để miêu tả các bộ phận đó. Lúc này
các em có thể kết hợp vừa quan sát trực tiếp hình ảnh giáo viên cung cấp, vừa dựa

vào những điều mình đã ghi chép khi chuẩn bị ở nhà để thực hiện yêu cầu của thầy
cô. Với những từ ngữ, ý văn các em nêu được, tôi gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình
và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm
cơ sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp
đánh giá cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
3.2.4. Tập diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp xếp các ý, các câu văn
lôgic:
Các em sẽ biết tự diễn đạt câu văn trọn ý khi các em biết sắp xếp các từ ngữ
thành câu văn đúng ngữ nghĩa, biết sắp xếp các câu văn thành đoạn văn lôgic, đúng
chủ đề. Tuy nhiên, đây là việc làm rất khó, cần được tập luyện thường xuyên và
khá mất thời gian, mà thời gian ở các tiết học Tập làm văn lại có hạn, vì vậy, bản
thân tôi thường thực hiện không chỉ ở các tiết Tập làm văn mà ở cả các tiết học
khác như Luyện từ và câu hay Chính tả. Với những bài tập có yêu cầu liên quan
đến việc phải trình bày, sắp xếp các ý, câu văn lôgic, hoặc ở một số tiết Tập làm
văn, tôi thường chủ động chuẩn bị các từ ngữ, câu văn theo chủ đề nhất định đủ
dùng cho học sinh hoạt động theo dự kiến. Cho các từ ngữ, yêu cầu học sinh dùng
những từ ngữ đó sắp xếp lại thành những câu văn hoàn chỉnh (hoặc dùng những câu
văn sắp xếp thành đoạn văn) theo chủ đề mà giáo viên yêu cầu. Tiếp đó có thể tổ
chức nhận xét, đánh giá, sửa chữa. Cần đánh giá, nhận xét trên sự sáng tạo của học
sinh, tôn trọng ý tưởng của học sinh, không nhất thiết phải đúng theo mẫu ấn định
sẵn. Tuy nhiên cũng cần phải điều chỉnh, sửa chữa nếu chưa phù hợp. Ngoài ra,
ngay cả khi các em trả lời câu hỏi của thầy cô, của bạn bè hoặc khi yêu cầu các em
trình bày một vấn đề nào đó, tôi đặc biệt chú trọng đến cách trình bày, diễn đạt của
các em. Khi thấy học trò trình bày vấn đề lủng củng, không rõ ràng hoặc sử dụng từ
ngữ không phù hợp, tôi sẽ nhận xét khéo và gợi ý, tập cho các em và cả các bạn
khác cùng cân nhắc, diễn đạt lại vấn đề sao cho trôi chảy, rõ ràng, đủ ý, và dễ hiểu.
3.2.5. Tập kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình
bày:
Đối với học sinh lớp 4 thì đây là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện
được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và

7


cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao
khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em mà
còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề.
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập
cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các em
hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với yêu cầu
của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn đã
rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập cho
cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm,
dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong
quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều
chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng
đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.
3.2.6 Biết học tập từ ngữ, ý văn, hình ảnh hay khi làm văn:
Nói cách khác là biết học tập những câu văn, ý văn mà mình đọc được của
bạn bè, thầy cô hay ở đâu đó rồi biến nó thành ý riêng trong câu văn, bài văn của
mình. Tôi khuyến khích các em tích cực đọc sách, báo hoặc những bài văn hay (văn
mẫu) và ghi chép lại những chi tiết, hình ảnh mình thích vào một cuốn sổ tay. Sau
đó sẽ chọn lựa một số câu và ghi ra giấy dán vào mục “Lời hay ý đẹp” ở lớp để giới
thiệu cho các bạn khác cùng tham khảo. Chính bản thân tôi là người thường xuyên
đọc những “Lời hay ý đẹp” mà các em sưu tầm được để khi gặp trường hợp có thể
vận dụng, học những từ ngữ, ý văn đó mà các em không nhớ, không biết vận dụng
tôi sẽ chủ động gợi ý giúp các em nhớ lại, tập vận dụng vào bài của mình. Hoặc khi
phát hiện các em biết học tập, bắt chước cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ, ý văn của
người khác, tôi sẽ động viên, khích lệ các em tiếp tục phát huy. Ngoài ra, tôi còn
thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt
câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước:

+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý hay,
cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm
của mình.
3.2.7. Hướng dẫn lập dàn ý cho bài văn cụ thể:
Dù đây là một yêu cầu rất thường xuyên nhưng trên thực tế lại có rất nhiều
em không thể thực hiện được, có những em không biết lập dàn ý là làm cái gì, để
làm gì. Bởi lẽ, ở những lớp dưới, các em không phải làm việc này, mà các em chỉ
viết câu văn, đoạn văn bằng cách trả lời những câu hỏi cho sẵn hoặc dựa vào những
gợi ý của thầy cô một cách đơn giản, ngắn gọn. Trong khi lên lớp 4 thì việc lập dàn
ý cho một đề bài cụ thể (loại bài miêu tả) là yêu cầu bắt buộc các em phải biết thực
hiện, tự thực hiện để dựa vào đó mà hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn.
Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy học
các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả loài vật), tôi chủ
8


động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa, cùng xây
dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học. Dàn bài chung này tôi
sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học sinh xây dựng dàn ý riêng cho
mỗi bài văn miêu tả sau này. Dàn bài này cũng được sử dụng chung cho cả lớp
trong các tiết tập làm văn có yêu cầu viết một đoạn văn hay hoàn chỉnh một bài
văn.
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (sách giáo khoa lớp
4, tập hai, trang 112), sau khi giúp học sinh rút được nội dung ghi nhớ như trong
sách giáo khoa, tôi sẽ chủ động bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng câu hỏi gợi
ý, dẫn dắt cho các em nêu để xây dựng dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật:
Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật, nơi
nó ở, lí do em thích nó,…)

Thân bài:
a) Tả hình dáng.
- Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng
(mõm, mỏ), tai, …; mình: thân, lưng, bụng, ngực,…; chi: móng vuốt, cựa,…; đuôi,
….), ...
b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, …)
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột; con
chó: giữ nhà, mừng chủ; …)
Kết bài: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
+ Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu vắng
khi đi đâu về mà không trông thấy nó, …); Em làm gì để thể hiện tình cảm của em
đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, …)
Hoặc, khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có chứa
câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống đẹp.) của bài
Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (sách lớp 4, tập hai, trang 130), tôi sử
dụng Dàn bài chung cho bài văn miêu tả con vật đã xây dựng, gợi ý cho các em có
thể dựa vào nội dung Tả hình dáng ở phần thân bài trong dàn bài để hoàn thành bài
tập. Như thế, các em sẽ dễ dàng chọn lựa những bộ phận nổi bật của con gà trống
để miêu tả như: cái đầu, cái mào, cái mỏ, cặp mắt, bộ lông, đôi cánh, đôi chân,
chiếc cựa, cái đuôi, …
3.2.8. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, đánh giá kĩ năng viết văn của từng
học sinh (qua việc thực hành - luyện tập ở lớp cũng như ở nhà), từ đó phân loại đối
tượng học sinh và lập kế hoạch phụ đạo trong thời gian tiếp theo
Việc nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh là rất cần thiết đối với mỗi giáo
viên. Trên cơ sở đó, giáo viên biết mình cần quan tâm đến học sinh nào ? Học sinh
chưa nắm vững những kĩ năng nào, để có biện pháp rèn luyện thích hợp.
9



Trên thực tế, các biện pháp nêu trên cần được tiến hành một cách đồng thời
và liên tục trong mỗi tiết dạy. Mặt khác, giao bài tập về nhà và kiểm tra việc học ở
nhà là một việc làm không thể thiếu, làm cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức của các
em ở lớp được thuận tiện hơn. Tuy nhiên, không thể ngày một ngày hai mà học sinh
hình thành được kĩ năng mà cần phải có một quá trình lâu dài và kiên trì. Cũng
không thể rèn kĩ năng cho tất cả các học học sinh trong cùng một lúc mà phải biết
nên tập trung rèn kĩ năng cho học sinh nào trước, học sinh nào sau.
3.2.9. Giúp học sinh nâng cao vốn sống, vốn hiểu biết.
Vốn sống được hình thành trực tiếp thông qua cuộc sống hàng ngày và hình
thành gián tiếp thông qua sách, báo, truyền thanh, truyền hình,… Học sinh tiểu học
vốn rất ham hoạt động, ham học hỏi, ham hiểu biết. Vì thế, tôi tạo điều kiện và
khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội, hoạt
động tập thể, sinh hoạt Đội, Sao nhi đồng. Đồng thời, thông qua các phân môn khác
của Tiếng Việt cũng như các môn học khác, tôi chú ý giúp học sinh nâng cao vốn
sống, vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người. Qua đó, tôi còn khơi gợi để
các em thấy được nguồn kiến thức phong phú, đa dạng qua sách báo,… và cung
cấp cho học sinh nguồn sách, báo, … phù hợp.
3.2.10. Rèn cho học sinh có thói quen tự phát hiện và tích cực sửa lỗi trong
bài văn.
Thói quen tự phát hiện và sửa lỗi có ý nghĩa quan trọng. Vì thế, tôi rèn cho
học sinh có thói quen này. Bởi lẽ, đây là một phẩm chất rất quan trọng trong học
văn miêu tả cũng như trong học tập các môn học khác và cả trong đời sống. Việc
làm này cần có thời gian, giáo viên cần khuyến khích và giúp học sinh thấy được
tác dụng của nó để thực hiện sau mỗi bài tập làm văn.
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi nhắc nhở học sinh cần đọc lại bài thật kĩ
để phát hiện ngay các lỗi và sửa chữa kịp thời. Đặc biệt, tôi thực hiện nghiêm túc
tiết trả bài tập làm văn. Bởi lẽ, tiết trả bài có tác dụng giúp học sinh sửa chữa các
loại lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau và học tập các bạn những cách viết
hay để vận dụng vào bài văn của mình. Vì vậy, tiết trả bài phải được thực hiện kĩ
lưỡng, nghiêm túc; không thể làm qua loa đại khái càng không thể bớt xén thời

lượng. Để tiết trả bài có hiệu quả, tôi thực hiện như sau:
- Chấm bài thật kĩ càng, ghi nhận xét cụ thể để học sinh nắm được những lỗi
mà mình mắc phải.
- Ghi lại cẩn thận các lỗi của học sinh theo từng loại: lỗi chính tả, lỗi dùng từ,
lỗi đặt câu, lỗi diễn đạt,… Đồng thời cũng ghi lại các từ ngữ, câu văn, đoạn văn
hay.
- Sau khi chấm bài, tôi thống kê lại điểm số để đưa ra nhận xét chung về ưu,
khuyết điểm trong bài viết của học sinh. Trong tiết trả bài, tôi luôn có ý thức làm tốt
các việc sau:
+ Nhận xét, đánh giá rõ ràng bài viết của học sinh để các em nắm được các
ưu, khuyết điểm của mình.
10


+ Chữa lỗi chung cho học sinh một cách tỉ mỉ, tổ chức cho học sinh tự chữa
lỗi trong bài dựa vào nhận xét của giáo viên, từng cặp học sinh trao đổi bài kiểm tra
các lỗi đã sửa. Khi đó, tôi quan sát, giúp đỡ các em.
+ Đọc những câu văn, đoạn văn hay và tổ chức cho học sinh thảo luận tìm ra
cái hay của câu văn, đoạn văn đó. Từ đó, các em sẽ biết học tập những cái hay đó
và vận dụng sáng tạo vào bài văn mình. Các em sẽ tránh được những câu văn rườm
rà, những cách so sánh khập khiễng, những liên tưởng không phù hợp. Với cách
làm như vậy, học sinh dần có tiến bộ. Các em khắc phục được rất nhiều lỗi trong
bài văn của mình.
3.2.11.Giúp học sinh có hứng thú và làm bài theo khả năng của mình.
Muốn học sinh học tốt văn miêu tả, giáo viên cần tạo ra hứng thú cho học
sinh. Đây là một điều quan trọng. Bởi lẽ, có hứng thú thì các em mới không lười
học, không chán học tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả. Muốn vậy, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh tận tình, tạo niềm tin cho các em, động viên, khuyến khích học
sinh trong quá trình làm bài. Đồng thời, ghi nhận những cố gắng cũng như kết quả
bài làm văn của các em dù đó chưa phải là bài làm tốt nhất.

Ví dụ: Khi làm bài văn miêu tả cái cặp, học sinh chưa đạt chuẩn có thể viết
những câu ngắn gọn, đúng ngữ pháp, rõ nội dung. Chẳng hạn, các em viết như sau:
“ Cái cặp có dạng hình chữ nhật, làm bằng ni lông. Phía trước có in hình cô bé xinh
đẹp. Cái khóa chắc chắn. Hai dây đeo mềm mại. Bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn
đựng sách và vở…”
Khi học sinh làm xong, tôi cũng ghi nhận và khen ngợi vì các em đã có sự cố
gắng và đã hoàn thành bài làm văn. Tuy nhiên, tôi sẽ thường xuyên rèn cho học
sinh có kĩ năng làm văn thành thạo hơn để có thể tạo ra một bài văn hay hơn, sử
dụng được những từ gợi tả và các biện pháp nghệ thuật.
Tôi luôn ghi nhớ một nguyên tắc là phải trân trọng những cố gắng của học
sinh dù là nhỏ nhất và tạo cho các em niềm tin vào bản thân khi học Tập làm văn.
Tôi luôn tạo không khí thoải mái giúp các em học tập vui vẻ, đặc biệt là với văn
miêu tả đồ vật.
Như vậy qua phân tích ở trên chúng ta thấy để học sinh hứng thú viết văn
người giáo viên không chỉ có vai trò dẩn dắt cho các em nắm được bố cục yêu cầu
của từng dạng bài mà còn phải thường xuyên gần gũi các em tiếp cận với bài viết
của học sinh để uốn nắn bổ sung cho các em giúp các em thấy tự tin trong quả
trình làm bài.
3.2.12. Khen ngợi, động viên kịp thời
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả nói riêng, giáo
viên luôn dành cho các em những lời khen. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát
huy được khả năng tiềm tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tương đối thành công khi
dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 do tôi chủ nhiệm.
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
11


Muốn thực hiện thành công các giải pháp, biện pháp trên, giáo viên cần:
- Kiên trì thực hiện từng bước một, không qua loa, không nóng vội.

- Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn để học sinh tự mình thực hiện các
biện pháp trong việc rèn kỹ năng viết văn miệu tả.
- Giáo viên luôn tạo không khí trong chơi trò chơi sôi nổi, vui tươi giữa học
sinh với học sinh, giữa học sinh và giáo viên.
- Giúp học sinh có cảm giác thoải mái, tự tin, có sự sáng tạo, nhanh trí, có óc
tư duy, tưởng tượng của học sinh.
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các biện pháp mà tôi đã trình bày ở trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Biện pháp này là cơ sở, nền tảng để thực hiện biện pháp kia. Vì vậy, để học sinh có
kỹ năng viết văn miêu tả tốt hơn thì giáo viên cần thực hiện các biện pháp này một
cách khoa học có hệ thống thì mới đạt kết quả cao nhất.
4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:
Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến cuối
năm học 2015-2016 và cuối học kì I năm học 2016 – 2017 các em đã nắm được
một số vốn kiến thức nhất định để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp
đều ham thích môn học, bài làm của các em đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được
cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác, viết câu văn trôi chảy, mạch
lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận dụng khá tốt các biện pháp miêu tả
trong các bài tập làm văn của mình. Các em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi
chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.
Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học
sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn miêu tả). Các giờ Tập
làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn.
Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết
một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả
một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ
pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ đúng nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm;
bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các
em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa. Nhờ vậy mà chất lượng phân môn
Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. Kết quả khảo sát về khả

năng làm văn của học sinh năm học 2015 – 2016 và năm học 2016 -2017:
Kết quả kiểm tra phân môn Tập làm văn cuối năm học 2015- 2016
Điểm
(Thang điểm 3)
3
2,5
2
1,5

Thời điểm kiểm tra/Số học sinh đạt
Kiểm tra CKI
Kiểm tra cuối năm
7
15
8
6
5
4
3
0
12


1

2

0

Kết quả kiểm tra phân môn Tập làm văn năm học 2016- 2017

Điểm
(Thang điểm 3)
3
2,5
2
1,5
1

Thời điểm kiểm tra/Số học sinh đạt
Kiểm tra GKI
Kiểm tra CKI
7
13
8
6
3
2
2
0
1
0

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau gần hai năm ( năm học 2015- 2016 và 2016- 2107) áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm này, để giúp học sinh lớp 4 làm được bài văn miêu tả sinh động, đúng
kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn
giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Sau thời gian
đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi
phụ trách đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng

và môn Tiếng Việt nói chung.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng
nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của
giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì
bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì
chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.
2. Kiến nghị: Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn phần miêu tả lớp tôi xin
có mấy đề nghị sau:
1. Đối với BGH nhà trường: Rút kinh nghiệm chung đồng thời nâng cao chất
lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu
tả nói riêng.
2. Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về
phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn ( từng thể loại,
từng kiểu bài cụ thể) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói
lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ
ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Long Thuận, ngày 23 tháng 01năm 2017
Người viết
Ngô Văn Mến
13


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

14



I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

1

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phạm vi nghiên cứu

2

5. Phương pháp nghiên cứu

2

II. Phần nội dung

2

1. Cơ sở lý luận

2


2. Thực trạng

3

3. Giải pháp, biện pháp

4

3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

4

3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

5

3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp

12

3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

12

4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

12

III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận

2. Kiến nghị

13
13

15


16



×