Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ TUẤN ANH

CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ TUẤN ANH

CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THẾ ANH

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả công bố nêu trong Luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này để đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Tuấn Anh


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI
SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU
NHÀ Ở TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 11
1.1.

Khái niệm cƣỡng chế........................................................................ 11


1.2.

Khái niệm, đặc điểm cƣỡng chế thi hành án dân sự ..................... 12

1.2.1. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự ...................................... 12
1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự ...................................... 14
1.3.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cƣỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự .... 19

1.3.1. Khái niệm ........................................................................................... 19
1.3.2. Đặc điểm của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở ............................................................................................ 21
1.3.3. Phân biệt cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở trong thi hành án dân sự với cưỡng chế quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở trong cưỡng chế hành chính .............................. 24
1.3.4. Vai trò của cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở
hữu nhà ở trong thi hành án dân sự .................................................... 26
1.4.

Nội dung pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu nhà ở ..................................................................... 28

1.4.1. Đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở .................................................................. 28
1.4.2.

Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất



và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam .................. 29
1.4.3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở......................................................... 33
1.4.4.

Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt Nam ........... 34

1.4.5. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở......................................................... 36
1.5.

Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động cƣỡng chế tài sản là
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở .................................... 40

1.5.1. Chủ trương chính sách của Nhà nước về thi hành án dân sự và
cưỡng chế thi hành án dân sự ............................................................. 40
1.5.2. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ..................................................... 42
1.5.3. Yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa và ý thức chấp
hành pháp luật .................................................................................... 43
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 47
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................... 48
2.1.

Một số kết quả chủ yếu trong áp dụng biện pháp cƣỡng chế
đối với tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở tại

Việt Nam thời gian qua .................................................................... 48

2.2.

Thực trạng pháp luật về cƣỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam .................................................................................................... 51

2.2.1. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ..................................... 51
2.2.2. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở .................................................................. 53
2.2.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế quyền sử dụng đất và


quyền sở hữu nhà ở ............................................................................ 54
2.2.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở......................................................... 58
2.3.

Ƣu điểm và hạn chế .......................................................................... 69

2.3.1. Ưu điểm .............................................................................................. 69
2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ....................... 70
2.3.3. Nguyên nhân....................................................................................... 75
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 81
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ
QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở ............................................................... 82

3.1.

Quan điểm về cƣỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........................ 82

3.1.1. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở là biện pháp cuối cùng nghiêm khắc, cần
thiết nhằm thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án ............ 82
3.1.2. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải gắn với xu thế dân chủ hóa và đảm bảo
quyền con người ................................................................................. 83
3.1.3. Áp dụng biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở phải được tiến hành phù hợp, đồng bộ với
yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ........... 84
3.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả cƣỡng chế tài sản là quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà trong thi hành án dân sự
ở Việt Nam ........................................................................................ 84

3.2.1. Về thể chế ........................................................................................... 85
3.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ chấp hành viên .................................... 93
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hữu quan ............................. 98


3.2.4. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.......................... 103
Kết luận chƣơng 3 ....................................................................................... 107
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................. 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 110
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực của sự phát
triển nền kinh tế và xu hướng hội nhập quốc tế thì các quan hệ xã hội cũng có
những diễn biến phức tạp. Các tranh chấp, mâu thuẫn trong quan hệ dân sự,
kinh tế... phát sinh ngày càng nhiều đòi hỏi cần phải được giải quyết, nhằm
bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và tránh phát sinh thiệt hại. Bên cạnh
việc thỏa thuận, hòa giải thì trong nhiều trường hợp, cần có sự tham gia của
Tòa án nhằm điều chỉnh hành vi và bảo vệ quyền lợi các chủ thể thông qua
quyết định, bản án. Tuy nhiên, không phải lúc nào các chủ thể trong quan hệ
dân sự cũng tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của mình, khiến cho nhiều
trường hợp các cơ quan hữu quan trong đó có cơ quan Thi hành án dân sự
buộc phải sử dụng biện pháp cưỡng chế như một phương tiện để đảm bảo
hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang không ngừng đẩy
mạnh việc thực hiện cải cách tư pháp, mục tiêu đến năm 2020. Một trong các
vấn đề lớn trong cải cách hoạt động tư pháp là phải đảm bảo được công tác
xét xử cũng như thực hiện triệt để bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, việc
bổ sung và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về thi hành án dân sự,
trong đó có hoạt động cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở được đặt ra cấp thiết.
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các tranh chấp trong quan
hệ dân sự cũng ngày càng nhiều và phức tạp hơn, do đó yêu cầu thi hành án
ngày càng tăng cao. Mặc dù thi hành án dân sự chủ yếu dựa trên tinh thần tự
nguyện, tự thỏa thuận hòa giải giữa các chủ thể có liên quan, nhưng trong
nhiều trường hợp có chủ thể không tự nguyện thi hành án buộc cơ quan có
thẩm quyền phải tiến hành cưỡng chế. Hiện nay biện pháp cưỡng chế kê biên


1


tài sản là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, đặc biệt là cưỡng chế quyền
sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở vì đây là một trong những tài sản có giá trị
nhất của con người, chỉ được áp dụng khi không còn cách nào khác để buộc
đối tượng phải thi hành nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa
án.
Từ khi Luật thi hành án dân sự 2008 có hiệu lực và được sửa đổi bổ
sung năm 2014, Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng
dẫn sửa đổi bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn nhằm góp phần hỗ trợ cho
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Hiện nay, hệ thống các quy định của
pháp luật về cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã
tương đối hoàn thiện, đáp ứng cơ bản yêu cầu của hoạt động thi hành án.
Tuy nhiên, bên cạnh đó các quy định pháp luật này còn nhiều điểm chưa phù
hợp, còn nhiều bất cập, vướng mắc. Nhiều quy định về thi hành án dân sự
nói chung và cưỡng chế quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở còn
chung chung, chưa thực sự hợp lý. Mặt khác, sự thiếu thống nhất, thiếu đồng
bộ giữa Luật thi hành án dân sự và các văn bản có liên quan cũng làm ảnh
hưởng đến quá trình thi hành án và hoạt động của cơ quan thi hành án và của
chấp hành viên. Các quy định về trình tự thủ tục cưỡng chế kê biên tài sản
về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của thi hành án, tuy nhiên vẫn còn một
số bất cập khi áp dụng trong thực tế. Điều này khiến cho việc cưỡng chế thi
hành án dân sự nói chung, cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở nói riêng là một trong những hoạt động phức tạp và gặp nhiều
khó khăn nhất trong công tác thi hành án dân sự. Hệ quả là, trong nhiều năm
trở lại đây vẫn tồn tại một số vụ việc chưa được thi hành, hoặc thi hành chưa
hiệu quả gây tranh cãi trong dư luận, ảnh hưởng đến sự công bằng và
nghiêm minh của pháp luật.
Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu, bài viết khoa học về thi


2


hành án dân sự ở Việt Nam, góp phần bổ sung cơ sở lý luận cũng như hoàn
thiện áp dụng pháp luật về thi hành án trong thực tiễn. Tuy nhiên, chỉ mới có
một số nghiên cứu như đề tài thạc sĩ Luật học “Kê biên quyền sử dụng đất,
theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố
Hà Nội” của tác giả Lê Quang Tuấn (2016) là đề cập đến khía cạnh cưỡng
chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất. Trong khi đó, cùng với quan hệ dân
sự đang ngày càng phát triển, các tranh chấp mâu thuẫn sẽ tiếp tục có chiều
hướng tăng trong khi các quy định pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế. Từ
đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện đối với pháp luật thi hành án dân sự, nhằm giải
quyết những khó khăn, bất cập đó.
Từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài thạc sĩ “Cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam” là đề tài nghiên cứu của mình, nhằm mục đích tìm hiểu và đánh giá
một cách thấu đáo các khía cạnh của vấn đề này. Thông qua việc khái quát
đặc điểm, tính chất, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng, đồng thời xem xét và
đánh giá thực trạng của hoạt động này trong thi hành án dân sự ở Việt Nam,
từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nhỏ vào việc giảm bớt số
vụ tranh chấp tồn đọng, cũng như tăng tính hiệu quả của hoạt động thi hành
án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như đã đề cập trong phần trước, nghiên cứu về thi hành án dân sự nói
chung và cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự nói riêng có vai
trò quan trọng không chỉ trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế,
giảm số vụ thi hành án tồn đọng, mà còn góp phần không nhỏ trong việc đẩy
mạnh hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, từ đó đảm bảo tính công
bằng và nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo quyền lợi và niềm tin của các tổ

chức, cá nhân trong xã hội. Trong những năm qua, đã có nhiều nghiên cứu

3


khoa học có liên quan đến thi hành án dân sự nói chung và hoạt động cưỡng
chế kê biên tài sản nói riêng.
2.1. Nhóm các nghiên cứu chung về thi hành án dân sự
Mặc dù chỉ mới được quan tâm từ sau năm 1993 đến nay, nhưng việc
nghiên cứu về thi hành án dân sự đã cho thấy ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi
hoạt động thi hành án dân sự trực tiếp nhằm vào việc thực thi pháp luật, đảm
bảo cho quyết định của Tòa án và các cơ quan có liên quan được thực hiện,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan cũng như tính công
bằng của pháp luật. Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa
học về thi hành án điển hình như:
- Đề tài: "Giám sát thi hành án dân sự", Luận án Tiến sĩ Luật học tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Hoàng Thế Anh, năm 2015;
- Luận án tiến sĩ Luật học “Pháp luật thi hành án dân sự trong cải
cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Chu Thị Hoa (2016).
- Luận án tiến sĩ Luật học “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trương Công Lý (2017).
- Đề tài “Đề án kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ thi hành
án để thực hiện hiệu quả Luật thi hành án 2008” của tác giả Nguyễn Văn
Luyện (2010).
- Đề tài “Cơ chế kiểm tra và giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động thi
hành án dân sự: Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Văn Luyện (2011).
- Luận văn Thạc sĩ “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
của tác giả Nguyễn Văn Công (2012).
- Luận văn Thạc sĩ“Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Trần
Mạnh Quân (2013).
- Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật thi hành án dân sự, thực trạng và giải

4


pháp, liên hệ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội của tác giả Phạm Văn Hùng (2014).
- Luận văn Thạc sĩ “Thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Lê Quỳnh Nga (2014).
- Luận văn Thạc sĩ “Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi
hành án dân sự Việt Nam hiện nay” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
của tác giả Bùi Thị Vân Anh (2016).
- Luận văn Thạc sĩ “Thi hành án dân sự từ thực tiễn thị xã Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Đỗ Thị Vân Ngọc (2016).
- Luận văn Thạc sĩ “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình” tại
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Mai (2016).
Các nghiên cứu này đã góp phần xây dựng hệ thống lý luận về thi hành
án dân sự ở Việt Nam, là căn cứ để hoàn thiện pháp luật, cũng như bổ sung và
hỗ trợ cho các nghiên cứu trong tương lai.
2.2. Nhóm các nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến nội dung của
đề tài
Các vấn đề liên quan đến kê biên tài sản luôn là những vấn đề có tính
nhạy cảm và phức tạp trong hoạt động thi hành án, cũng khiến cho cơ quan và
các cán bộ thi hành án gặp nhiều khó khăn. Do đó, nghiên cứu về vấn đề kê
biên tài sản trong thi hành án có ý nghĩa thực tiễn và áp dụng rộng khắp trong
thi hành án cả nước. Là cơ sở để giải quyết các tranh chấp và vụ việc còn tồn
đọng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trong những năm qua,
đã có một số nghiên cứu hướng đến lĩnh vực này bao gồm:

- Luận văn Thạc sĩ Luật học“Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để
thi hành án dân sự” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Trần
Công Thịnh (2007).
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục
thi hành án các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp

5


nhằm đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này” của tác giả Đinh Thị
Mai Phương (2010).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự theo pháp luật Việt Nam” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của
tác giả Bùi Thị Thu Hiền (2014)
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài
sản của người phải thi hành án dân sự” tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội của tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2015).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Kê biên quyền sử dụng đất, theo pháp
luật thi hành án dân sự từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội”
tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội của tác giả Lê
Quang Tuấn (2016).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” tại
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội của tác giả Lê Xuân
Tùng (2016).
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Cưỡng chế thi hành án dân sự thực tiễn ở
tỉnh Nam Định” tại Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội
của tác giả Lương Ngọc Hưng (2018).
Trong bối cảnh cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề thi hành án
ngày càng đa dạng, có tính chất khó khăn phức tạp cần phải giải quyết, thì các

công trình nêu trên đều đã có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu các khía
cạnh trong thi hành án dân sự của Việt Nam hiện nay. Đây là căn cứ để tháo
gỡ những khó khăn tồn tại trong lĩnh vực thi hành án, có tác dụng hỗ trợ cơ
quan thi hành án và cán bộ thi hành án trong việc giải quyết nhiều vấn đề còn
tồn đọng. Đồng thời, là cơ sở để các nghiên cứu khác trong lĩnh vực thi hành
án, trong đó có nghiên cứu về hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng

6


đất và quyền sở hữu nhà ở trong nội dung đề tài này, tiếp tục được triển khai
và đi vào chiều sâu.
2.3. Đánh giá chung
Các đề tài khoa học, nghiên cứu khoa học kể trên đã góp phần hoàn
thiện lý luận về thi hành án dân sự nói chung và thi hành án bằng biện pháp
cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra nhiều giải
pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả trong việc hoàn thiện các quy
định của pháp luật, hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự và
cưỡng chế kê biên tài sản trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các nghiên
cứu này chủ yếu nghiên cứu vấn đề thi hành án dân sự nói chung, chứ chưa có
nhiều đề tài đề cập đến các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi
hành án dân sự là một biện pháp cưỡng chế quan trọng, được áp dụng nhiều
trong thi hành án dân sự và do đó cần được quan tâm và cần phải tiếp tục
được triển khai nghiên cứu sâu hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích tổng quát
Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận của cưỡng chế thi hành án dân
sự nói chung và cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà
nói riêng, từ đó chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này. Đây là

căn cứ để đi vào phân tích và đánh giá một cách toàn diện thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động cưỡng chế kê biên tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở Việt Nam hiện nay. Từ đó rút ra
kết luận về ưu, nhược điểm của hoạt động này và các nguyên nhân.
3.2. Mục đích cụ thể
Nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề lý luận về cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong pháp luật Việt Nam.
Từ những nội dung nghiên cứu ở Chương 1 và Chương 2, cùng với việc

7


nhìn nhận một cách thấu đáo công tác thi hành án dân sự nói chung, và cưỡng
chế thi hành án dân sự trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay. Từ đó đề ra các giải pháp áp dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu
nhà ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật dân
sự về cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong thi
hành án dân sự ở Việt Nam.
5. Nội dung, phạm vi, cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
của luận văn
5.1. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề
lý luận cũng như hệ thống các quy định pháp luật, đặc biệt là quy định pháp
luật hiện hành và thực tiễn thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự bằng
biện pháp cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, từ đó
đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như bảo vệ
tốt hơn quyền lợi của các bên liên quan trong hoạt động thi hành án.

5.2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài luận văn là các quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tiến hành cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nền tư
pháp. Đây là kim chỉ nam cho việc định hướng các phương pháp nghiên cứu
của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê được sử dụng

8


trong việc thống kê số liệu kết quả công tác thi hành án; phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp suy luận,… Trong quá trình
nghiên cứu, các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan
xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian của đề tài là pháp luật về thi hành án dân sự nói
chung và cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
nói riêng trong thi hành án dân sự từ năm 2015 đến năm 2017.
Phạm vi không gian của đề tài là thi hành án dân sự bằng biện pháp
cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2015 đến năm 2017.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn hệ thống hóa, làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn hoạt động
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành
án dân sự, phân tích các nhân tố ảnh hưởng cũng như đánh giá một cách toàn
diện việc áp dụng trong thực tiễn.
Luận văn nêu bật khái niệm, đặc điểm, vai trò, điều kiện áp dụng

cũng như quá trình hình thành và phát triển của hoạt động cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự ở
Việt Nam.
Luận văn đi sâu vào phân tích cụ thể từng khía cạnh của cưỡng chế tài
sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở bao gồm trường hợp áp dụng,
thẩm quyền, điều kiện áp dụng, trình tự thủ tục, giải quyết khiếu nại tố cáo
cũng như đánh giá về thực tiễn của hoạt động. Đồng thời đánh giá một số kết
quả chủ yếu của hoạt động này trong những năm qua.
Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong giai đoạn

9


tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, nội
dung, ý nghĩa của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền
sở hữu nhà ở và cơ sở của hoạt động này. Phân tích, đánh giá đúng thực trạng
các quy định và thực tế áp dụng của hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong những năm qua.
Về thực tiễn, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và
những kinh nghiệm vận dụng những giải pháp đó trên thực tiễn ở Việt Nam
trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về cưỡng chế tài sản là quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự.

- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành
án dân sự ở Việt Nam.
- Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế tài sản
là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trong thi hành án dân sự.

10


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƢỠNG CHẾ TÀI SẢN
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm cƣỡng chế
Trong từ điển chữ Nôm có giải nghĩa, cưỡng là thúc ép, buộc tuân theo
ý chí của mình [38, tr.381], chế là kìm giữ [38, tr.256]. Như vậy cưỡng chế là
một từ ghép được tạo bởi hai từ có nghĩa nêu trên. Cưỡng chế có thể được
hiểu là thúc ép, buộc ai đó phải thực hiện theo. Theo Cuốn từ điển tiếng Việt của
Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa năm 2012 thì: Cưỡng chế
là dùng quyền lực Nhà nước bắt phải tuân theo pháp luật” [40, tr.309]. Trong
tiếng Anh cưỡng chế là Coerce nghĩa là buộc ai phải làm cái gì [35, tr.284].
Về mặt thuật ngữ pháp lý, cưỡng chế là buộc cá nhân hoặc tổ chức phải phục
tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã
có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cưỡng chế phải được tiến
hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ, biện pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo
lực về mặt vật chất và tinh thần, thường được áp dụng khi quyết định đã có
hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện [46]. Theo cuốn Từ điển
Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế
là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục
tùng mệnh lệnh nhất định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Từ điển

Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn
hành năm 2006 thì cưỡng chế là:
Buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện
một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức hay cá nhân được pháp luật quy định mới

11


được ra quyết định cưỡng chế, quyết định lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế
phải được tiến hành theo thủ tục, trình tự chặt chẽ. Cá nhân hay tổ chức là
đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay không được làm một việc
nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện pháp sử dụng trong
cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường được áp dụng
khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự nguyện.
Như vậy, mỗi quan niệm cưỡng chế đều có những nội dung khác nhau
nhưng có thể thấy rằng các quan niệm đều có điểm chung là dùng quyền lực
nhà nước, áp đặt ý chí của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân nhất định để
buộc tổ chức, cá nhân đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện công
việc nhất định theo ý chí của Nhà nước. Để bảo đảm thực thi pháp luật,
ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi chủ thể tự giác tuân thủ, bất
kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế bằng pháp luật. Cưỡng
chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là hiện tượng gắn
liền với Nhà nước. Cưỡng chế khác với các biện pháp ngăn chặn hay đảm
bảo ở chỗ toàn bộ quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế là việc buộc chủ
thể không tự nguyện phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Biện pháp cưỡng chế
là biện pháp giải quyết mang tính bạo lực của Nhà nước, nhằm đảm bảo hiệu
lực của bản án, quyết định được thi hành, đảm bảo tính công bằng, nghiêm
minh của pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm của cưỡng chế như sau: “Cưỡng chế là

dùng quyền lực nhà nước buộc tổ chức, cá nhân nhất định phải tuân theo, bảo
đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện bởi biện pháp nhất định và do
chủ thể có thẩm quyền tiến hành”.
1.2. Khái niệm, đặc điểm cƣỡng chế thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước và là một trong

12


những phương pháp nghiêm khắc được sử dụng trong hoạt động quản lý nhà
nước. Trong nhà nước Pháp quyền, việc cưỡng chế nhằm mục đích thi hành
pháp luật của Nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Nhà nước thực hiện cưỡng chế
thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế, những biện pháp cưỡng chế này được
Nhà nước trao quyền cho các cơ quan Nhà nước khác nhau thực hiện như
cưỡng chế hành chính, cưỡng chế trong hoạt động tố tụng của cơ quan điều
tra và Tòa án và cưỡng chế thi hành án dân sự.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự cũng
được Nhà nước trao quyền cho sử dụng một số biện pháp cưỡng chế, quy định
tại điều 71 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 [25].
Giáo trình kỹ năng về thi hành án dân sự (phần chung) của Học viện Tư
pháp, xuất bản năm 2012, đã nêu rõ cưỡng chế thi hành án dân sự là biện
pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan Thi hành án dân sự, do chấp hành viên
quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định. Cưỡng chế
thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành và hết thời gian tự nguyện mà không tự nguyện thực hiện
nghĩa vụ theo nội dụng của bản án, quyết định của Tòa án hoặc trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản
hoặc trốn tránh việc thi hành án [17, tr.216].

Theo tài liệu bồi dưỡng Chấp hành viên Trung cấp cũng định nghĩa
cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp sử dụng quyền lực Nhà nước để
buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về
tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án. Biện pháp cưỡng chế do chấp
hành viên quyết định trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án [19, tr.420].
Cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc trưng chung của cưỡng chế thi

13


hành án nhưng cũng có đặc thù. Cưỡng chế thi hành án dân sự bao giờ cũng
sử dụng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện bản án, quyết định, cho dù đó có thể là người được thi hành án,
người phải thi hành án hay cá nhân, tổ chức khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc thi hành án dân sự. Nói đến cưỡng chế thi hành án dân sự là nói
đến việc dùng quyền lực nhà nước để thi hành án dân sự. Việc dùng quyền lực
nhà nước trong cưỡng chế thi hành án dân sự phải thông qua chủ thể nhất
định tiến hành bằng những biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể.
Chủ thể tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự là chức danh cụ thể bởi vì
tính chất đặc thù của thi hành án dân sự là do chức danh cụ thể tiến hành việc
thi hành án dân sự, ở Việt Nam hiện nay đó là chấp hành viên và thừa phát lại.
Cưỡng chế thi hành án dân sự được đặt ra và tiến hành với mục đích cụ thể là
tổ chức thi hành việc thi hành án dân sự nhưng mục đích chung là thi hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân
sự, bảo đảm hiệu lực thi hành của bản án, quyết định đó.
Như vậy, từ những nhận định trên có thể định nghĩa: “Cưỡng chế thi
hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước
thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền,

nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ
tục thi hành án dân sự”.
1.2.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án dân sự mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cưỡng chế thi hành án dân sự mang tính quyền lực. Cũng
như nhiều loại cưỡng chế khác (cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án
hình sự và cưỡng chế thi hành án hành chính), cưỡng chế thi hành án dân sự
thể hiện quyền lực nhà nước, chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức năng của

14


Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được Nhà nước trao quyền mới có thẩm
quyền tiến hành cưỡng chế. Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua
cưỡng chế thi hành án dân sự bằng việc chủ thể có thẩm quyền ban hành
quyết định cưỡng chế buộc cá nhân, tổ chức nhất định phải chấp hành để thi
hành bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, nếu
không chấp hành thì sẽ bị xử lý nghiêm bằng các phương thức như xử phạt
hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại nếu có, hoặc
các biện pháp buộc khắc phục hậu quả. Cưỡng chế thi hành án dân sự bắt
buộc các tổ chức, cá nhân tôn trọng và phối hợp thực hiện bản án, quyết định,
kể cả sử dụng lực lượng chuyên chính là cảnh sát để bảo vệ cưỡng chế thi
hành án dân sự, trấn áp những cá nhân có hành vi chống đối cưỡng chế thi
hành án dân sự. Theo Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và
Nghị quyết số 107 2015 QH13 ngày 26 11 2015 của Quốc hội về thực hiện
chế định Thừa phát lại thì điểm khác biệt quan trọng của cưỡng chế thi hành
án dân sự so với các loại hình cưỡng chế khác là chủ thể có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế hay còn gọi là tiến hành cưỡng chế thi hành án dân
sự là chấp hành viên và thừa phát lại để thi hành bản án, quyết định. Mặt
khác, xuất phát từ bản chất của thi hành án dân sự là thi hành các bản án,

quyết định về “dân sự” chủ yếu của Tòa án - cơ quan tài phán nên đặc điểm
của cưỡng chế thi hành án dân sự là dùng quyền lực Nhà nước để bảo vệ và
khôi phục các quyền về tài sản, các quyền về dân sự khác cho đương sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định có hiệu lực thi
hành chủ yếu của Tòa án.
Thứ hai, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự.
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể. Bản
án, quyết định được thi hành có nhiều khoản, tùy từng trường hợp cụ thể có
thể tổ chức thi hành một hoặc một số khoản trong bản án, quyết định theo yêu

15


cầu của đương sự hoặc quy định của pháp luật. Việc thi hành án dân sự được
khởi động bằng quyết định thi hành án. Mỗi quyết định thi hành án là một
việc thi hành án dân sự. Việc thi hành án dân sự được thực hiện trước hết
bằng biện pháp tự nguyện thi hành án. Biện pháp tự nguyện thi hành án luôn
được khuyến khích, theo đó người phải thi hành án tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ thi hành án trong thời hạn pháp luật quy định hoặc người phải thi hành án
thỏa thuận được với người được thi hành án phương thức thực hiện việc thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp biện pháp tự nguyện không có
kết quả thì phải có sự can thiệp của Nhà nước để buộc người phải thi hành án
thực hiện nghĩa vụ thi hành án bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự phù hợp. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự trong trường hợp nhất định, kể cả áp dụng đối với người thứ ba để thi hành
án chính là một biện pháp thi hành án dân sự. Có thể nói, ngoại trừ trường
hợp đặc biệt, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự chỉ
được thực hiện sau khi đã động viên, thuyết phục người phải thi hành án tự
nguyện thi hành án nhưng họ vẫn không tự nguyện thi hành án. Trường hợp
phải cưỡng chế thì phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp

luật. Vì vậy, tự nguyện thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự là
hai biện pháp thi hành án dân sự được pháp luật quy định nhưng biện pháp thi
hành án dân sự thực hiện thông qua cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ khi
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp đặc biệt
do cần ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm
trốn tránh việc thi hành án dân sự.
Thứ ba, cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng đối với nhiều đối tượng.
Trong thi hành án hình sự, đối tượng phải thi hành án là cá nhân hoặc đại diện
pháp nhân thương mại bị kết án (người phải thi hành án) theo bản án của Tòa

16


án và nhằm mục đích trừng trị người phải thi hành án, đồng thời cải tạo, giáo
dục họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Thế nhưng, trong thi hành án
dân sự, đối tượng bị cưỡng chế không chỉ là người phải thi hành án mà còn
được áp dụng đối với một số đối tượng khác như người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan, người bảo lãnh,.... Trong nhiều trường hợp, sự chuyển hóa người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào quá trình tố tụng trước khi thi
hành án dân sự thành người được thi hành án hoặc người phải thi hành án do
họ được hưởng quyền hoặc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật, khi đó họ bị cưỡng chế thi hành án dân sự nếu họ
thuộc đối tượng là người phải thi hành án hoặc người được thi hành án và tất
nhiên họ phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định của
pháp luật. Đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là cá nhân hoặc
tổ chức, là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, người đang quản lý tài
sản hoặc không trực tiếp quản lý tài sản cưỡng chế thi hành án dân sự. Thông
thường thì đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự là người phải thi hành
án bởi họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định, đó có thể
là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến

việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự hoặc là người thứ ba
đang quản lý tài sản thi hành án dân sự mà không tự nguyện giao tài sản để xử
lý bảo đảm thi hành án dân sự hoặc không tự nguyện giao tài sản cho người
mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án. Việc thực
hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đối với đối tượng không phải là người phải
thi hành án đòi hỏi phải thận trọng, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế
thi hành án dân sự, bởi họ không mong muốn bị cưỡng chế thi hành án dân sự
nhưng không thể thực hiện được sự tự nguyện thi hành án do họ không có
nghĩa vụ thi hành án và có trường hợp họ bị thiệt hại nhất định từ việc cưỡng

17


chế thi hành án dân sự, như trường hợp cưỡng chế tài sản của người phải thi
hành án có chung với người khác hoặc tài sản của người phải thi hành án đang
cho người khác thuê, mượn, nhận cầm cố, thế chấp đang trong thời hạn hợp
đồng thuê, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản. Trong một số trường hợp, quyết
định cưỡng chế thi hành án dân sự áp dụng trực tiếp đối với người phải thi hành
án nhưng việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự lại được tiến
hành đối với người không phải là người phải thi hành án, có trường hợp chỉ là
yêu cầu họ chuyển đồ đạc, di dời tài sản ra khỏi tài sản bị cưỡng chế thi hành
án dân sự của người phải thi hành án, tuy vậy họ vẫn là đối tượng bị cưỡng chế
thi hành án dân sự mặc dù họ không phải là người phải thi hành án.
Thứ tư, cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng thông qua thực
hiện quyết định có hiệu lực bắt buộc thi hành. Cưỡng chế thi hành án dân sự
được thể hiện cụ thể bằng việc ban hành quyết định của người có thẩm quyền
áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tùy từng trường hợp cụ thể, người có thẩm
quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân
sự. Với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, quyết định cưỡng chế thi
hành án dân sự có giá trị bắt buộc thi hành đối với người bị cưỡng chế. Quyết

định cưỡng chế được ban hành trên cơ sở bản án, quyết định được thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự và nhằm thi hành bản án, quyết định đó, vì vậy
nếu quyết định cưỡng chế được ban hành mà không tổ chức thực hiện thì
quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự đó chưa được thực thi trên thực tế,
chưa ban hành quyết định cưỡng chế thì cưỡng chế thi hành án dân sự chưa
được áp dụng. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án dân
sự là dùng quyền lực nhà nước thì thông qua thực hiện quyết định có hiệu lực
thi hành, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp hạn chế quyền tự chủ,
định đoạt của chủ sở hữu, sử dụng tài sản nhằm đảm bảo khôi phục quyền và

18


×