Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.92 KB, 28 trang )

KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC
DOANH.
1.1.1. Khái quát về kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế Việt Nam, KTNQD là một bộ phận cấu thành của nền
kinh tế quốc dân bao gồm hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp, HTX đến các công ty tư
nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia
rộng rãi như vậy, thành phần KTNQD đã tạo ra một phần không nhỏ GDP, thúc
đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hút lao động, tận dụng khai thác tiềm năng
của đất nước.
Ở nước ta, Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định nước ta có
các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá
thể, Kinh tế tư bản tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc
doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đảng ta xuất phát từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của
V.I.Lênin: "Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ". Từ đó sở hữu tư nhân được thừa nhận, KTNQD được tồn tại
và phát triển bình đẳng cùng kinh tế Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà
nước về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị mà toàn bộ vốn thuộc về
nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của các
thành phần kinh tế này là các DNNN, đó là các TCKT do Nhà nước đầu tư vốn
thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. (Luật DNNN -
Điều 1).
Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm
những đơn vị kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh


doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt
của loại hình này là các HTX. Đây là các tổ chức kinh tế tự chủ do người lao
động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có
quy mô kinh doanh nhỏ. Thành phần kinh tế này có vị trí quan trọng lâu dài.
Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và
công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ
vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm
ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các DNNN hay HTX.
Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế
Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế Nhà nước với tư bản
nước ngoài. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động
viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... của các
nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các
nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các DN Việt
Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Cải thiện môi
trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động
trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh. Kinh tế tư bản Nhà nước nhằm mục
đích thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, công nghệ tiên tiến, kỹ
thuật và phương pháp quản lý... để phát triển đất nước thông qua các loại hình
DN.
Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư
nhân để thành lập DN hoạt động dưới hình thức DN tư nhân hoặc công ty

TNHH, công ty cổ phần được pháp luật quy định.
Công ty TNHH, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là DN trong đó các
thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm
vi vốn góp của mình vào công ty.
DN tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp
định, do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về mọi hoạt động của DN.
Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình
thức kinh tế khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên
kết giữa các chủ thể trong nước cũng như trong nước với nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm và xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.2.1. Đặc điểm của khu vực KTNQD.
Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình
"Quốc doanh hoá" và "Tập thể hoá", các thành phần KTNQD gần như bị xoá bỏ.
KTNQD mới thực sự khởi sắc sau khi có Luật DN tư nhân và Luật công ty được
Nhà nước ban hành năm 1991. Chính những biến cố lịch sử nói trên đã quyết
định nên đặc điểm của thành phần KTNQD ở nước ta.
Thứ nhất là cơ sở sản xuất phân tán, manh mún, thiết bị kỹ thuật công
nghệ lạc hậu rất nhiều so với thế giới. Phần lớn các dây chuyền máy móc thuộc
thập kỷ 60 - 70 nên năng suất lao động thấp, chất lượng xấu, giá thành cao,
sức cạnh tranh của sản phẩm kém. Hiện tại các DNNQD có công nghệ tiên tiến,
hiện đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh, công ty có vốn đầu tư
nước ngoài được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các đơn vị có
vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công nghệ thủ công, dây chuyền thiết bị
chắp vá, thiếu đồng bộ. Theo các số liệu điều tra năm 1998 chỉ có 25% số DN và
20,5% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại, 33,5% số DN và 18,7%
số công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền thống, 38,5% số DN và 60,5% số
công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại.
Hơn nữa trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong

nhiều năm trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả
năng tiếp xúc với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc
trong thời kỳ này là tự sản xuất ở trong nước hoặc nhập khẩu từ Đông Âu,
Liên Xô cũ. Trong thời gian gần đây Nhà nước đã thành lập uỷ ban quốc gia về
chính sách công nghệ, đã nhập được một số dây chuyền công nghệ, kỹ thuật
tiên tiến, song còn hạn chế ở một số lĩnh vực nhất định.
Thứ hai, khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn. Phần lớn các DNNQD
thường bị hạn chế về tài chính. Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tồn tại
và phát triển của DNNQD. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các DNNQD thường
gặp phải vấn đề thiếu vốn, thể hiện ở tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn tự có
trong tổng vốn, một số DN kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay song số DN được
xét duyệt vay vốn từ NH để tiến hành các hoạt động kinh doanh không nhiều.
Song có một thực tế là sổ sách kế toán của các DNNQD nói chung thường quá
đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do vậy việc đánh
giá DN thông qua phân tích tài chính để quyết định cho vay thực sự khó khăn
đối với NH, nhất là hiện nay hầu hết các sổ sách của các DN đều chưa được
kiểm toán. Ngoài ra, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các
DNNQD này vì họ chưa có uy tín, chưa thể tạo lập khả năng trả nợ, và hầu hết
họ không có tài sản thế chấp, dự án khả thi... Do vậy, các DNNQD phần lớn phải
dựa vào các nguồn vốn phi chính thức từ bạn bè, họ hàng, hay thu hút vốn qua
hình thức mua bán chịu... Việc mở rộng DN luôn bị ngăn cản bởi sự hạn hẹp về
nguồn vốn.
Thứ ba là trình độ lao động thường không cao do đầu tư vào trình độ
công nghệ của các DNNQD không nhiều. Do ảnh hưởng của cơ chế cũ là quan
liêu bao cấp làm thui chột tính năng động, sáng tạo của người lao động, gây
tâm lý thụ động, ỷ lại. Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý chưa qua trường lớp
đào tạo, không biết ngoại ngữ, chưa quen hoạt động trong môi trường cạnh
tranh sôi động, chưa đủ bản lĩnh, trình độ làm đối tác liên doanh với nước
ngoài, các DNNQD lại thường không có điều kiện để tự đào tạo lực lượng lao
động của mình.

Thứ tư là khả năng quản lý của DNNQD vừa yếu lại vừa thiếu, đặc biệt
trong việc lập kế hoạch tài chính. Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng phương
án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ, khả năng
quản lý kinh doanh của các DN, khả năng dự đoán về sự biến động của ngành,
của nền kinh tế... Do vậy DNNQD khó có thể xây dựng được kế hoạch tài chính,
phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch
vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Đa số các DN tư nhân
quản lý DN bằng kinh nghiệm theo cách suy nghĩ, hiểu biết của riêng mình.
Nhiều người trong số họ chưa qua trường lớp đào tạo nên ít hiểu biết về pháp
luật, yếu kém về năng lực và kiến thức.
Thứ năm, môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần
KTNQD phát triển thất thường lúc lên, lúc xuống tuỳ thuộc vào chính sách
quản lý cụ thể của Nhà nước (chính sách thuế, lãi suất cho vay, chính sách xuất
nhập khẩu...). Môi trường kinh doanh đối với các thành phần KTNQD không
thuận lợi ngay từ khâu ban đầu là thủ tục đăng ký kinh doanh và thành lập
DN. Thủ tục này kể từ khi có Luật DN (được bắt đầu thực hiện từ ngày
1.1.2000) đã giảm đi được nhiều khâu, song vẫn còn gây khó khăn cho các nhà
kinh doanh muốn thành lập DN, như đăng ký kinh doanh đối với các loại hình
DN thuộc mọi ngành nghề đều phải tập trung về Sở kế hoạch - đầu tư tỉnh, gây
khó khăn cho các tổ chức cá nhân muốn thành lập DN ở địa phương xa tỉnh.
Bên cạnh đó còn có sự sách nhiễu, phiền hà của các cán bộ đăng ký kinh doanh
làm cho các cá nhân, tổ chức tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc.
Việc thanh tra, kiểm soát chồng chéo hiện nay của các lực lượng thanh
tra, kiểm tra đang gây nhiều khó khăn cho các DN. Mỗi lực lượng tiến hành
thanh tra, kiểm tra theo cách của mình, thậm chí sai pháp luật, vượt quá quyền
hạn và phạm vi thanh tra.
Một trong những lĩnh vực mà khu vực DNNQD không có nhiều ưu đãi so
với các DNNN là quan hệ TD với NH. DNNQD luôn bị coi là những khách hàng
nhỏ, hoạt động theo kiểu chộp giật, quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có thấp và
uy tín chưa cao, ngoài trừ DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN liên doanh. Ngoài

ra, phần lớn các DNNQD gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do thị trường
trong nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân thấp, hàng ngoại nhập, nhất
là hàng nhập lậu cạnh tranh tràn ngập. Nguyên nhân hầu hết là máy móc thiết
bị và công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin của thị trường thế giới (về sản phẩm,
giá cả, nhu cầu, thị hiếu, kỹ thuật công nghệ...). Như vậy, cạnh tranh trong
nước đã khó, trên thị trường quốc tế lại càng khó hơn đối với sản phẩm của
các DNNQD.
Từ những đặc điểm trên cho thấy DNNQD có những lợi thế và bất
lợi như sau:
* Về lợi thế:
- Do quy mô vừa và nhỏ nên các DN này có tính năng động, linh hoạt, tự
do sáng tạo trong kinh doanh.
- Có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến
bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật.
- Vốn đầu tư ban đầu thấp, hiệu quả thu hồi vốn nhanh.
- DNNQD có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động lớn hơn nhiều so với DN lớn
cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều
hành mang tính trực tiếp, chặt chẽ.
- Sự đình trệ thua lỗ, phá sản của các DNNQD có ảnh hưởng rất ít hoặc
không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi
các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
* Những mặt bất lợi:
- Nguồn vốn hạn chế dẫn tới cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công
nghệ thường yếu kém, lạc hậu.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNQD bị hạn chế rất
nhiều.
- Trình độ quản lý của các DNNQD còn bị hạn chế.
- Các DNNQD có năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp hơn nhiều so
với DN lớn.

1.1.2.2. Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.2.2.a. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước.
Với chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã kích thích phát huy
nội lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật. Thành phần KTNQD có vốn đầu tư trong nước đã phát huy
được thế mạnh của nó, khu vực này bao gồm hai loại hình: DNNQD và Kinh tế
hộ gia đình.
Loại hình DN: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không thấp hơn
mức vốn pháp định do Nhà nước quy định, hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
DNNQD hoạt động dưới nhiều hình thức: DN tư nhân do một tư nhân làm chủ,
công ty cổ phần do những người nắm giữ cổ phiếu làm chủ, hoặc tham gia
dưới hình thức HTX. Trong điều kiện nước ta hiện nay phổ biến nhất là hai loại
hình công ty tư nhân và công ty TNHH bởi nhiều lý do, trong đó lý do quan
trọng nhất là số vốn cần thiết cho việc thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát
triển của công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam.
Trong những năm qua số lượng DNNQD tăng lên khá nhanh, theo ước
tính hiện nay có khoảng 25.000 DNNQD đang hoạt động. Trong khi đó số
DNQD lại có xu hướng giảm xuống do tiến trình cổ phần hoá hoặc do kinh
doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản của một loạt các DNNN. Vì vậy
một bộ phận lớn người lao động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ DNNN
sang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân do khu vực này đang làm ăn có hiệu
quả.
Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các DNNQD ở nước ta là vốn cho đầu
tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy
móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị trở nên
lỗi thời không còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát
triển thì phải đổi mới dây chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong
khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô
và tài sản có. Như vậy, trong tương lai không xa một xu hướng tất yếu xảy ra
đối với các DN này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó

là tiền đề cho sự phát triển của công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần
là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu.
Nhưng tốc độ phát triển của các công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự
phát triển của các NH, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay các công ty chứng
khoán còn chưa phát triển. Ngoài ra, khi các NH phát triển đến một mức nhất
định thì các NH không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của
công ty mà còn có thể mua các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ nguồn
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Loại hình không phải DN (kinh tế hộ gia đình): Là khu vực sản xuất kinh
doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm ngoài khu vực DN
như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại vận
tải và các dịch vụ khác. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực
kinh tế này phát triển rất nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng
triệt để các nguồn lực sản xuất của xã hội nhằm tăng thêm thu nhập cho người
lao động. Đối với nước ta hiện nay ngành nông - lâm nghiệp giữ vai trò quan
trọng thì sự phát triển của khu vực này hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với
công cuộc CNH và HĐH đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần
chuyển sang lao động trong các ngành công nghiệp hiện đại.
Theo cơ chế mới của nền kinh tế nhiều thành phần đã có những chuyển
biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, nếu tốc
độ phát triển của KTNQD nhanh hơn tốc độ phát triển của nền KTQD bình
quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế
trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội nước ta trong 10 - 20 năm nữa là: Kinh tế
quốc doanh 10%, kinh tế ngoài quốc doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế
tư bản Nhà nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%,
kinh tế cá thể và gia đình 30%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa
và nhỏ là phù hợp với đặc điểm KTNQD. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế
tư bản tư nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế Nhà nước trong môi trường
cạnh tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong
nước và hợp tác quốc tế.

1.1.2.2.b. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan
hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam,
hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần chuyển giao
công nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong nước với mức
lương cao, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công
nghiệp hoá.
Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được
nhiều người quan tâm và trên thực tế hoạt động này đã và đang đóng góp một
phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, mở rộng và thúc đẩy các
quan hệ kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt
động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu từ cuối năm 1987 và được đánh
dấu bằng sự ra đời Luật đầu tư nước ngoài. Từ đó tới nay hoạt động đầu tư
nước ngoài ngày một tăng lên cả về tổng số vốn đầu tư, số lượng dự án đầu tư,
số nước tham gia và các lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt
động đầu tư nước ngoài có phần giảm sút so với các năm trước, đây đang là
vấn đề được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà kinh tế. Phải thừa nhận rằng
đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm qua có nhiều nguyên nhân như
ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á, môi trường
đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính sách thuế thiếu ổn
định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, chịu khó, có
nguồn nguyên liệu rẻ, cùng với việc thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu
tư nước ngoài của Chính phủ như cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế,
giảm giá cho thuê đất. Chắc chắn trong tương lai khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài sẽ phát triển một cách nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều
những dự án kinh doanh có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao động
và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song được sự
khuyến khích của Đảng và Nhà nước, khu vực KTNQD đã dần dần khẳng định

được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Với tinh thần tự chủ, năng động,
sáng tạo, KTNQD đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị
trường, đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, sự phát triển của KTNQD đã tạo ra sự cạnh tranh, góp phần
phát triển kinh tế.
Trong những năm vừa qua, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTNQD là
cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của nước ta trong giai
đoạn mới. Việc phát triển KTNQD không những không làm suy yếu KTQD mà
còn tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy KTQD phát triển mạnh mẽ hơn.
KTNQD phát triển ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng
hoá trở nên phong phú, đa dạng, sôi động. Người tiêu dùng nhờ vậy mà có
nhiều cơ hội để lựa chọn hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình.
Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các DNQD hoạt động theo chỉ tiêu
pháp lệnh của Nhà nước nên sản phẩm làm ra không đáp ứng nhu cầu đa
dạng, phong phú của thị trường. Bây giờ, với sự xuất hiện và phát triển của
DNNQD thì các DNNN sẽ phải hoạch định lại chiến lược kinh doanh, thay đổi
cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường. Như vậy, khu vực KTNQD đóng vai trò hỗ trợ cho khu vực
KTQD phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực
KTQD không đảm nhiệm hết hoặc đảm nhiệm không tốt.
KTNQD không những là đối thủ cạnh tranh mà còn là đối tác làm ăn trong
quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung
cấp đầu vào cho KTQD. Sự kết hợp sản xuất - tiêu thụ giữa KTQD và KTNQD
tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất,
tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất
lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy sự phát triển của khu vực KTNQD đã thúc đẩy và tăng cường các
mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự ganh đua giữa các thành phần
kinh tế, buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng
phải luôn đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, sự phát triển KTNQD đã thu hút một lực lượng lớn lao động,
giảm sức ép về tình hình thất nghiệp cho đất nước.
Như chúng ta đã biết, khu vực KTNQD với quy mô vốn đầu tư không nhiều
có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân hay một số cổ đông liên kết lại dưới
dạng công ty TNHH, công ty cổ phần... có mặt trong tất cả các ngành nghề như:

×