Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Vai trò của thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo bộ luật tố tụng hình sự việt nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.5 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG HỮU MỸ

VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THU HẠNH

Hà nội – 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



HOÀNG HỮU MỸ


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ......................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................. 5
5. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM
PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................... 7
1.1 Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự........................................................................................ 7
1.1.1 Khái niệm Thẩm phán ........................................................................ 7
1.1.2 Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. .............. 9
1.2 Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò
của Thẩm phán ........................................................................................ 12
1.2.1Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự . 13
1.2.2Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật

.................................................................................................... 15

1.2.3Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. .............................................. 17

1.2.4Nguyên tắc suy đoán vô tội ................................................................ 19
1.3 Mối quan hệ của Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng và
một số người tham gia tố tụng trong xét xử vụ án hình sự ..................... 20
1.3.1. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với những người tiến hành tố tụng ........ 20


1.3.2. Mối quan hệ của Thẩm phán với một số người tham gia tố tụng ........ 25
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về vai trò
của Thẩm phán ....................................................................................... 26
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 .............................................. 26
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 36
1.4.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2015 ............................................... 40
Kết luận chương 1 .................................................................................... 43
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2015 VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............................................. 44
2.1. Quy định của BLTTHS năm 2015 về vai trò của Thẩm phán trong
hoạt động xét xử vụ án hình sự ............................................................... 44
2.1.1. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình chuẩn bị xét xử..................... 44
2.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử tại phiên tòa ............... 56
2.2. Thực tiễn và hạn chế về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự ........................................................................................... 73
2.2.1 Về số lượng biên chế Thẩm phán ....................................................... 73
2.2.2 Kết quả đã đạt được trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm
phán......................................................................................................... 74
2.3 Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân ..................................................................................... 75
2.3.1 Hạn chế chủ quan............................................................................. 76
2.3.2 Hạn chế khách quan ......................................................................... 79
2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử các

vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ........................................................ 79
2.4.1 Nguyên nhân khách quan .................................................................. 79
2.4.2 Nguyên nhân chủ quan ..................................................................... 82


Kết luận chương 2 .................................................................................... 84
Chương 3: MỘT SỐYÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.... 86
3.1. Một số yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán 86
3.1.1 Đối với Tòa án ................................................................................. 87
3.1.2 Đối với Thẩm phán........................................................................... 88
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán trong xét xử
vụ án hình sự........................................................................................... 93
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong xét xửvụ án hình
sự

......................................................................................................... 93

3.2.2 Một số giải pháp khác .....................................................................101
Kết luận chương 3 ...................................................................................105
KẾT LUẬN ............................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................108


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu


Nguyên nghĩa

1

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

2

TTHS

Tố tụng hình sự

3

HĐXX

Hội đồng xét xử

4

TAND

Tòa án nhân dân

5

NXB


Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, việc xây dựng,
kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và nâng cao chất lượng cho
đội ngũ Thẩm phán ngành TAND nói riêng là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm. Với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo
các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW và
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó yêu cầu đối với công tác
cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
trong sạch, vững mạnh” [1], “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp,
nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán
bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ
chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và
khu vực”…, ngành Tòa án nhân dân đã rất chú trọng việc kiện toàn và nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, lối sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt
là đội ngũ Thẩm phán, do đó đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân đã
không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng. Nhiệm vụ
đó đặt ra yêu cầu phải có chiến lược cán bộ nhất là đội ngũ Thẩm phán của Tòa
án nhân dân, trong tổng thể chiến lược cán bộ của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua ngành Tòa án nhân dân đã
không ngừng lớn mạnh. Song song với việc triển khai thực hiện tốt các nhiệm
1



vụ chuyên môn, lãnh đạo ngành Tòa án nhân dân rất chú trọng tới công tác
kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ Thẩm phán, đảm bảo về chất lượng
cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của ngành và của các
địa phương. Đội ngũ Thẩm phán của ngành Tòa án nhân dân về cơ bản đã
phát huy và giữ vững được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống
lành mạnh, gắn bó với nhân dân; đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế,
quốc tế; là lực lượng quan trọng góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Công tác cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ Thẩm phán đã
bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể hóa được nhiều chủ trương,
quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong chiến lược cán bộ[10].
Tuy nhiên, công tác kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân cho thấy lĩnh vực này hiện
còn một số khó khăn như việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án
nhân dân vẫn còn phải nghiên cứu.
Đứng trước yêu cầu “Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về
pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành….Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi
đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [2].
Chức năng xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua và tập trung vào
hoạt động của Thẩm phán. Theo đó, Thẩm phán giữ vai trò quan trọng trong xét
xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng nói chung và trong xét xử vụ án
hình sự nói riêng. Chính vì vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ Thẩm phán
2



cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ cán bộ này là yếu
tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án hình sự của các
cơ quan tiến hành tố tụng. Trong những năm vừa qua, đội ngũ Thẩm phán đã
không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng, góp phần
đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà
nước và xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói,
đội ngũ Thẩm phán có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của hệ thống
Tòa án nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.
Chính vì vậy, thông qua việc xét xử các vụ án hình sự và đưa ra những
giải pháp nhằm đánh giá vai trò của Thẩm phán có ý nghĩa cấp thiết trong
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và đáp ứng yêu cầu của luận
văn thạc sĩ luật học. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Vai trò của Thẩm phán
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam năm 2015" làm luận văn thạc sĩ luật học học góp phần làm rõ thêm vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, từ đó đề xuất một số
vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán trước
yêu cầu cải cách tư pháp, nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xét xử là hoạt động trung tâm của tố tụng hình sự. Vì vậy vai trò của
Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự là một trong những vấn đề được
những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn quan tâm, đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đề đề tài này dưới dạng sách (sách chuyên
khảo, sách tham khảo và giáo trình): GS.TSKH Lê Cảm (2003) “Nguyên tắc
tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự”,
Tạp chí luật học.PGS.TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên)
(2004), Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp qu yền,


3


Nxb ĐHQGHN.Ths. Đinh Văn Quế (2005), Thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự
trong luật TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS. TS Võ
Khánh Vinh (2007), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công
an nhân dân. Trường cán bộ Tòa án (2014), Chương trình đào tạo Thẩm phán
phần chung (Tập bài giảng cho Khóa 1). Nxb Văn hóa thông tin. Đặc biệt là
các bài viết khoa học, các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng trên
các tạp chí khoa học có liên quan đến đề tài này, cụ thể: TS. Trần Thu Hạnh,
Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ thẩm phán trong tố tụng hình sự
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25
(2009) 94-100. GS.TSKH Lê Cảm (2011) “Tòa án là trung tâm – Xét xử là
trọng tâm trong tố tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa
án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 9, tháng 5/2011. GS.TSKH Lê
Cảm (2011) “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát – Viện kiểm
sát nhân dân Tối cao số 11, tháng 6/2011. Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao “Kỹ năng viết Bản án hình sự sơ thẩm”. Tạp chí
Tòa án nhân dân – Tòa án nhân dân Tối cao số 17, tháng 9/2014. Bên cạnh
đó, một số công trình dưới dạng luận văn thạc sĩ như: Trương Thị Hạnh
(2009), Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học.Trịnh Ngọc Thúy (2013), Vị trí vai trò của Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp huyện trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Luận
văn thạc sĩLuật học.Hà Anh Tuấn (2014), Vị trí, vai trò của Thẩm phán Tòa
án nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc
sĩLuật học.Hoàng Thị Thoa (2014), Vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp quận, huyện trong xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học.
Các công trình trên đã phần nào đã đề cập đến những khía cạnh nhất
định của chế định Thẩm phán,có một số công trình nghiên cứu được tiến hành

cách đây khá lâu, dẫn tới hệ quả là giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn sẽ
4


có phần hạn chế màchưa nghiên cứu hoàn thiện những chế định liên quan đến
vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo BLTTHS
năm 2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1.Mục đích
Nghiên cứu góp phần làm rõ vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử các vụ án hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng về vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Từ đó, tác giả của
luận văn đã đưa ra một số quan điểm và một số giải pháp nhằm nâng cao vai
trò của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự.
3.2 Nhiệm vụ
- Nghiên cứu vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Làm rõ những đặc trưng riêng
của hoạt động xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán hiện nay.
- Đưa ra quan điểm và đề xuất một số giải pháp cơ bản bảo đảm chất
lượng xét xử các vụ án hình sự của Thẩm phán góp phần thực hiện có hiệu
quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp nước nhà
trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của BLTTHS năm
2015 về vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự.
4.2.Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi luận văn thạc sĩ luật học thuộc chuyên ngành luật hình sự
5


và tố tụng hình sự, luận văn bao gồm những nội dung lý luận và thực tiễn có
liên quan đến vấn đề vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân trong hoạt động
xét xử các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Nghiên cứu thực tiễn xét xử vụ án hình sự và số lượng biên chế Thẩm
phán của toàn ngành Tòa án. Nguyên nhân của những tồn tại và hạn chế;
Những bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành, của cơ chế tác động
đến vai trò của Thẩm phán.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về vai
trò của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
Thẩm phán.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA
THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm Thẩm phán và vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự
1.1.1 Khái niệm Thẩm phán

Tòa án nhân dân là một trong những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có vị trí vai trò quan trọng. Hơn nữa, trong Hiến pháp năm 2013 đã quy
định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Theo từ điển Luật học và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
năm 2002 có định nghĩa thì: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án” [45].
Trong Tòa án, Thẩm phán là người có vai trò then chốt để thực thi nhiệm
vụ tố tụng.Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã đưa ra khái niệm
“Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Luật này
được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử” [30, Điều 65]. Các
điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán:Là công dân Việt Nam, trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và
kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực,có trình độ cử nhân luật
trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn
pháp luật và có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thẩm phán có các ngạch sau: Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm
phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp [30, Điều 66].
7


Theo khái niệm này thì “Thẩm phán là người được Chủ tịch nước bổ
nhiệm để nhân danh Nhà nước thực hiện quyền tư pháp. Trọng trách của
Thẩm phán rất nặng nề, sứ mệnh của Thẩm phán rất cao quý. Trong tiến trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và Nhân
dân yêu cầu các Thẩm phán phải thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư, khách
quan, thượng tôn pháp luật; đòi hỏi các Thẩm phán phải trở thành biểu tượng
của đạo đức thanh liêm, tuân thủ những nguyên tắc của Hiến pháp về hoạt

động tư pháp, thực hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thẩm phán
phải “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” và “Gần dân, hiểu dân, giúp
dân, học dân” [15].
Ngoài ra, Thẩm phán là một nghề vinh quang nhưng phải chịu nhiều áp
lực, khó khăn, vất vả. Với trọng trách của người bảo vệ và thực thi công lý,
Thẩm phán luôn phải đối mặt với những rủi ro, nguy hiểm, cám dỗ, vì mỗi
phán quyết của họ tác động trực tiếp đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và cả tính mạng con người. Chính vì vậy, hoạt động của Thẩm phán luôn
được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của người dân và xã hội. Người dân
đòi hỏi ở Thẩm phán những phẩm chất cao quý với những đánh giá khắt khe:
bên cạnh trình độ chuyên môn giỏi; sự hiểu biết sâu rộng về xã hội, khoa
học…, Thẩm phán phải là người có đạo đức, lòng dũng cảm, dám đấu tranh
không khoan nhượng với tội phạm và vi phạm pháp luật; có tinh thần thượng
tôn pháp luật; luôn tuân theo lẽ công bằng; có trách nhiệm với xã hội và có
tấm lòng nhân hậu. Kiến thức chuyên môn chỉ có thể được phát huy khi người
Thẩm phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, sự vô
tư, khách quan, đức thanh liêm và trung thực, tính cần mẫn và tận tụy trong
công việc,… Đây là những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để mỗi Thẩm
phán khẳng định chính mình và không bị sa ngã trước những cám dỗ, là một
trong những điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người Thẩm phán hoàn
8


thành một cách trung thực nhiệm vụ được giao, là yếu tố để duy trì niềm tin
của người dân vào công lý, công bằng xã hội. Cho dù hoạt động xét xử được
dựa trên một nền tảng pháp lý vững chắc, được thực hiện bởi những Thẩm
phán có năng lực, trình độ, nhưng nếu kém về phẩm chất đạo đức thì chất
lượng hoạt động xét xử không thể được bảo đảm.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán như
sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm

nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Tòa án”.
1.1.2 Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì "vai trò"
được hiểu là "Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì, hoặc của ai đó trong
sự vận động, phát triển của nhóm tập thể nói chung". [46] Như vậy nói tới vai
trò là nói tới sự hiện diện của ít nhất hai sự vật hiện tượng, trong đó sự hiện
diện của một hai sự vật hiện tượng này có ý nghĩa nhất định với sự vật hiện
tượng kia, qua mối quan hệ đó, sự vật hiện tượng này thể hiện vai trò của
mình với sự vật hiện tượng kia.
Trong mối quan hệ giữa Thẩm phán với hoạt động xét xử vụ án hình sự,
“vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử vụ án hình sự được hiểu là
tác dụng, ý nghĩa của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự”.
Đây là vai trò riêng của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự
trong tổng thể vai trò của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự
nói chung. Vai trò của Thẩm phán là sự thể hiện quyền hạn, tác dụng, ý nghĩa
của Thẩm phán đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự thông qua các quy
định pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, qua đó góp phần
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn xét xử nói riêng và quá trình giải
quyết vụ án hình sự nói chung.
9


Thẩm phán có vai trò đặc biệt trong xét xử các vụ án hình sự. Thẩm phán
là người điều khiển phiên tòa theo quy định của pháp luật. Lên kế hoạch cho
các phiên tòa như: Những chứng cứ nào sẽ được sử dụng, nhân chứng nào sẽ
được triệu tập, thời gian nào thì sẽ đưa vụ án ra xét xử….và dự liệu được
những vấn đề có thể xảy ra tại phiên tòa. Trong phần thẩm vấn, pháp luật
không quy định phải hỏi ai, hỏi vấn đề gì trước nên gần như quy trình xét hỏi
được quyết định bởi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và là người điều khiển

phiên tòa, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và trình bày
cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và không làm
cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết nội dung
nào cần được hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên và Luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam cho thấy việc xét hỏi
được tiến hành chủ yếu bởi Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, sự tham gia xét hỏi
của Kiểm sát viên và Luật sư trong quá trình xét hỏi không mang tính liên tục,
tất cả những điều đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử
có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người Thẩm phán, phụ thuộc vào
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kinh nghiệm tích lũy
trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo này trước mà không phải là hỏi
bị cáo kia trước (trong vụ án có nhiều bị cáo), vật chứng nào, người làm
chứng nào, những tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định đến việc bị
cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì được quy định tại điều khoản nào
trong BLHS. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến
thức pháp luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích lũy nhiều năm trong quá
trình xét xử các vụ án thì mới có thể làm tốt vai trò của mình được.
Để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt lý, Thẩm phán phải có sự
am hiểu về pháp luật, sự am hiểu về kiến thức thực tế, phong tục và tập quán,
tích lũy kiến thức về xã hội và lương tâm của người Thẩm phán. Cơ sở của
10


các phán quyết là pháp luật, những kết quả của các phán quyết có công bằng,
vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong
sáng, chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo
đức nghề nghiệp của Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho phán quyết của
Thẩm phán thấu tình đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải có niềm tin nội
tâm, đó là niềm tin vào công lý bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn
chỉnh đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được

mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp luật còn
chồng chéo, không đồng bộ, song khi xét xử người Thẩm phán vẫn phải đảm
bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt là
phải đảm bảo công lý. Trong con mắt người dân, Tòa án không chỉ là bảo vệ
pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội. Khi phải đối
mặt với quan tòa với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt.
Tòa án là người đại diện của công lý và quan tòa là người thực thi công lý.
Thẩm phán giữ vai trò chính trong hoạt động xét xử tại Tòa án, nhân
danh Nhà nước công bố một bản án, một quyết định về việc công dân có tội
hay không có tội; hoạt động của Thẩm phán còn góp phần đẩy mạnh cải cách
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa; giải quyết các tranh chấp và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, vai trò của người Thẩm phán rất quan trọng và
là một trong các yếu tố quyết định chất lượng của quá trình xét xử tại Tòa án.
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn thể hiện vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Thông qua hoạt động xét
xử, Thẩm phán giúp cho những người tham gia tố tụng, những người tham dự
phiên tòa hiểu rõ các quy định của pháp luật, qua đó giúp họ hình thành ý
thức pháp luật, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; củng cố lòng

11


tin vào pháp luật, phát huy tác dụng của công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm trong xã hội.
Vai trò của người Thẩm phán thể hiện tập trung trong quan hệ với Tòa
án, những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
Chức năng của Tòa án là xét xử và Thẩm phán là người thực hiện chức
năng đó. Chức năng xét xử của Thẩm phán được thực hiện thông qua quyền

hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định.
Pháp luật đã quy định quyền hạn và trách nhiệm cho Thẩm phán trong
các văn bản quy phạm như: Luật cán bộ, công chức, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân, Bộ luật Tố tụng hình sự và mới đây là Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của
Thẩm phán…..Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho Thẩm phán thực hiện tốt chức
năng xét xử của mình. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử Thẩm phán
chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thẩm phán
thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh Nhà
nước, nhân danh công lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh hưởng đến
sinh mạng chính trị của con người, quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá
nhân. Do đó, yêu cầu của hoạt động xét xử là phải đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
1.2 Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò
của Thẩm phán
Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng, các cơ
tiến hành tố tụng phải quán triệt, tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc tố
tụng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự một cách
công bằng và khách quan nhất; giúp đạt được nhiệm vụ của tố tụng hình sự là
bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, phòng ngừa, ngăn chặn, giáo dục tội phạm, không để lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội.
12


Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định các nguyên tắc tố tụng cơ
bản áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong đó, Thẩm phán phải
nghiêm chỉnh tuân thủ các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và

lợi ích hợp pháp của cá nhân;Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Bảo
đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể;Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân;
Suy đoán vô tội; Xác định sự thật của vụ án; Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự;
Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể; Tòa án xét xử kịp
thời, công bằng, công khai; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảmvà một số nguyên tắc khác.
Trong hàng loạt các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là cơ
bản nhất đối với người Thẩm phán khi giải quyết vụ án hình sự mà học viên
lựa chọn để phân tích dưới đây.
1.2.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
Pháp chế là một nguyên tắc Hiến định, theo đó, “Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật” (Điều 8 Hiến pháp năm 2013) [3, tr.58]
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự thể
hiện định hướng tổ chức, hoạt động tố tụng đối với quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Nguyên tắc này đòi hỏi phải thực hiện các bảo đảm để tăng cường
pháp chế khi tiến hành các hoạt động tố tụng hướng tới mục đích xác định sự
thật khách quan vụ án; tôn trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ trật tự pháp
luật; bảo vệ quyền lợi ích của thể nhân, pháp nhân, nhà nước và xã hội.
13


Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hóa tại Điều 7
BLTTHS năm 2015, như sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực
hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội
phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định”[25, Điều 7]. Theo nguyên tắc này thì khi giải quyết

vụ án hình sự, các hoạt động tố tụng; trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hình sự; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ
giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng và của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
công dân phải được quy định trong luật TTHS.
Do đó, đòi hỏi việc thực hiện pháp luật nghiên chỉnh, tự giác, đầy đủ
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của các chủ thể TTHS, mà trước hết
là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mục đích giải quyết vụ án
theo hướng phát hiện nhanh chóng, xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không đểlọt tội phạm và không làm oan người vô tội chỉ có thể đạt
được khi có sự chấp hành một cách tự nguyện, triệt để pháp luật TTHS của
các chủ thể. Nhiệm vụ tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trước hết thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng vì mọi hoạt
động của họ đều đại diện cho Nhà nước và có ảnh hưởng nghiêm trọng tới
việc giải quyết vụ án cũng như đến các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc triệt để tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng là cơ sở để
các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đồng thời đó cũng là nghĩa vụ mà họ phải tuân theo. Đồng thời, cũng đòi hỏi
cơ chế thực thi pháp luật đồng bộ, có hiệu quả bảo đảm các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng không những thực hiện tốt các chức năng tố tụng của
mình mà còn có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan đó hướng tới mục
tiêu chung của công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm[12].
14


Nếu Thẩm phán không tuân theo nguyên tắc pháp chế sẽ dẫn đến việc
xét xử oan sai, vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm tổn
hại uy tín của hoạt động tư pháp, làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực
và sự công minh của pháp luật.
1.2.2 Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật
Nguyên tắc là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành hoạt
động xét xử được khách quan, đúng pháp luật. Đây cũng là cơ sở đảm bảo
Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc bởi những người
thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật. Nói cách
khác, pháp luật chỉ có ý nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc "độc lập xét xử"
được tuân thủ một cách triệt để. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử
vừa là quyền, đồng thời đó cũng là nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm[19].
Độc lập xét xử không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn
khổ pháp luật không được tách rời đường lối chính sách của Đảng. Thẩm
phán và Hội thẩm không được xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn
tránh nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp
luật nào.
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp, tác động tới các
thành viên của Hội đồng xét xử để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình.
Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm
pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham
khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội nhưng khi
ra quyết định về vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề
nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan,
không bị ảnh hưởng, bị ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ

15


án. Hội đồng xét xử (HĐXX) phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và
các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, khoa học, toàn diện các
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Quyết định của Tòa án chỉ
được căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Khi xét xử, Thẩm phán độc lập với Hội thẩm trong việc xem xét và đánh
giá chứng cứ để đưa ra các kết luận của mình mà không lệ thuộc vào quan
điểm, chính kiến của các thành viên khác trong HĐXX. Đối với Hội thẩm,
không một yêu cầu hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh
hưởng tới việc Hội thẩm áp dụng đúng pháp luật, theo đúng nội dung và tinh
thần của điều luật đối với các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc,
Thẩm phán không được áp đặt ý kiến đối với Hội thẩm khi xét xử. Chỉ có
thành viên HĐXX mới được tham gia nghị án, khi nghị án, Hội thẩm biểu
quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án
đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số. Người có
ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được
lưu trong hồ sơ vụ án [13].
Khi nghiên cứu hồ sơ, quá trình xét xử tại phiên tòa và khi nghị án,
Thẩm phán và Hội thẩm phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải
quyết vụ án, không được tùy tiện, áp đặt ý chí chủ quan trong việc áp dụng
pháp luật. Khi thực hiện hoạt động xét xử, hoạt động gắn liền với việc củng
cố pháp chế và trật tự pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm càng phải
nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật. Khi xét xử các vụ án hình sự, pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là những chuẩn mực, căn cứ để Thẩm
phán và Hội thẩm xem xét, đối chiếu với sự việc xảy ra, với hành vi được
đưa ra xét xử và trên cơ sở các quy định của pháp luật, HĐXX đưa ra các
phán quyết về hành vi phạm tội của bị cáo, về tội danh và hình phạt được
áp dụng đối với bị cáo một cách khách quan, chính xác phù hợp với diễn
biến thực tế của vụ án.
16


Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai mặt thống nhất của một nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng. Độc lập tức là tuân theo pháp luật và tuân theo pháp
luật để được độc lập. Nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì

chỉ là sự tuân theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Điều đó thể hiện là
các phán quyết trong bản án, quyết định của hội đồng xét xử phải phù hợp với
mọi tình tiết khách quan của vụ án, việc xét xử phải đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…;
không được kết luận dựa trên ý chí chủ quan, cảm tính của cá nhân mỗi thành
viên của HĐXX [13].
1.2.3 Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong quá trình giải quyết
vụán hình sự, cần được quan tâm và làm rõ. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụán như sau “Trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội.Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có
tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội.”
Sự thật của vụ án đó chính là diễn biến của sự việc phạm tội, hành vi
phạm tội có xảy ra hay không nếu có đã xảy ra như thế nào, ai là người tham
gia và toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Theo luật tố tụng hình sự,
xác định sự thật của vụ án thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án). Để chứng minh tội phạm, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu tập chứng cứ theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
17


Sự thật của vụ án phải được xem xét một cách toàn diện, tức là phải xem
xét hành vi phạm tội trên các mặt cấu thành tội phạm, không tách rời nhau.

Những vấn đề mà khi điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải chứng minh là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không,
thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo
và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những
tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Chung quy lại mọi hoạt động tố tụng áp dụng biện pháp tố tụng của các
cơ quan điều tra khi giải quyết vụ án hình sự đều nhằm mục tiêu tìm ra sự thật
khách quan của vụ án từ đó để truy tố, xét xử đối với người có tội làm sao cho
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đối với Thẩm phán khi được giao
nhiệm vụ giải quyết một vụ án cụ thể, đáp số cuối cùng, mục tiêu cuối cùng
mà người thẩm phán phải tìm ra đó là sự thật khách quan của vụ án. Nếu
người Thẩm phán không tìm được sự thật khách quan của vụ án mà cố tình
đưa vụ án đó ra xét xử hoặc đình chỉ vụ án thì cả một hệ lụy kéo theo rất nặng
nề: người không có tội thì bị xét xử và phải chịu hình phạt, người có tội thì lại
nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô
tội. Điều này có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không
thể căn cứ việc người bị buộc tội không chứng minh được mình vô tội (Ví dụ:
người bị buộc tội không đưa ra được chứng cứ chứng minh là mình không thể
có mặt tại hiện trường vào thời điểm xảy ra vụ án) để suy diễn, quy kết là
18


người đó thực hiện hành vi phạm tội. Ngay cả trong trường hợp về khách
quan, một người là người đã thực hiện tội phạm nhưng cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng không thể làm sáng tỏ việc người đó phạm tội, mặc
dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết do Bộ luật tố tụng hình sự, thì cũng
không thể tiến hành truy tố, xét xử, kết tội người đó.
1.2.4 Nguyên tắc suy đoán vô tội
BLTTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”.
Đây là nguyên tắc hoàn toàn mới, lần đầu tiên nguyên tắc suy đoán vô
tội được chính thức quy định trong BLTTHS 2015. Đây là một quy định tiến
bộ là sự cụ thể hóa tinh thần của khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 là “Người
bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Nguyên
tắc suy đoán vô tội không chỉ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất
nước mà còn chứng tỏ quyền con người ngày càng được pháp luật tôn trọng
và bảo vệ.
BLTTHS 2015 rất tiến bộ khi quy định cơ quan buộc tội không chứng
minh được tội phạm của bị cáo thì đồng nghĩa với sự vô tội của bị cáo đã
được chứng minh và tòa phải tuyên bị cáo không có tội. Suy đoán vô tội được
thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của tòa có hiệu lực.
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, không cho phép các cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là
19


×