Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO TRÀNG AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.06 KB, 17 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH
DOANH CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO TRÀNG AN
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY ĐẾN NĂM 2005.
1. Phương hướng chung của ngành
Hiện nay, ngành bánh kẹo nước ta đang phát triển nhanh với tốc độ 10-
15% mỗi năm. Một số sản phẩm đã được người tiêu dùng trong nước đánh giá
cao, không thua kém gì hàng ngoại. Chính những thuận lợi này đã giúp các nhà
sản xuất bánh kẹo thêm tin tưởng vào sự phát triển trong tương lai.
Theo dự đoán về thị trường bánh kẹo trong nước đến năm 2005 cho thấy
Việt Nam có nhiều thuận lợi trong lĩnh vực phát triển sản xuất ngành bánh
kẹo. Cụ thể là:
-Nguồn nguyên liệu phong phú nước ta là một nước nông nghiệp vùng
nhiệt đới nên sản lượng hoa quả, các loại củ, bột, đường thuận lợi cho việc sản
xuất.
-Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đẩy mạnh nội lực; hợp tác và phát
triển với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam là một trong
những thành viên của khối ASEAN do đó rất thuận lợi cho sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và ngành bánh kẹo nói riêng.
-Dân số tăng nhanh theo số liệu của Tổng cục thống kê dự đoán đến năm
2005 dân số nước ta sẽ có khoảng 86 triệu người; Mức sinh hoạt sẽ phấn đấu
trên 2200 Kcalo/ người, trong đó Protein chiếm 11%, lipit 12%, gluco 77%
(theo số liệu Bộ y tế )
Như vậy, theo dự đoán mức tiêu thụ bánh kẹo bình quân 3kg/ người; đến
năm 2005 nước ta có nhu cầu sản xuất khoảng 26000 tấn đến 300000 tấn một
năm. Dự đoán tổng doanh thu thị trường là 8000 tỷ đồng, tỷ lệ xuất khẩu 10-
20%.
Qua đó chiến lược của ngành bánh kẹo đến năm 2005 được đặt ra là:
-Đảm bảo sản xuất và cung cấp đầy đủ số lượng, chủng loại, chất lượng,
giá cả phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hạn chế tới mức tối đa nhập
bánh kẹo ngoại, đồng thời tiến tới xuất khẩu sang thị trường Đông Âu và các
nước trong khu vực.


-Đổi mới công nghệ thiết bị, tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá, đồng bộ hoá
các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm sôcôla, cao su, bánh biscuit.. Hoàn
chỉnh các phương tiện vận chuyển (các hệ thống vận chuyển bằng băng chuyền
giữa các khâu sản xuất từ thành phẩm đến nhập kho.)
-Đảm bảo tự túc phần nguyên vật liệu đường, glucoza, sữa tinh bột,dầu
thực vật để sản xuất bánh kẹo. Không nhập khẩu bột mì, sử dụng bột mì xay
nghiền trong nước. Tự túc in trong nước một số phụ liệu như giấy nhôm, giấy
sáp, băng dán, nhãn túi, hộp sắt,...
-Đa dạng hoá sản phẩm: sản xuất các sản phẩm bánh kẹo đường, không
đường, có chất béo hoặc không và các sản phẩm nâng cao thể lực.
Tổng số đầu tư phát triển ngành bánh kẹo dự tính từ đây đến năm 2005
là 440 tỷ đồng Việt Nam (tương đương với gần33.846.000 USD)
2. Phương hướng phát triển của Công ty Bánh kẹo Tràng An đến năm
2005
Với 40 năm tồn tại và phát triển, Công ty bánh kẹo Tràng An đã từng
bước trưởng thành và mở rộng hơn về qui mô. Mục tiêu của Công ty là đến
năm 2005, Công ty Bánh Kẹo Tràng An thực sự trở thành doanh nghiệp sản
xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam, Với trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản
xuất tiên tiến và có đủ khả năng cạnh tranh với bánh kẹo của cả nước và trên
thế giới. Đây là mục tiêu to lớn phản ánh quyết tâm của toàn cán bộ công
nhân viên toàn Công ty. Để đạt được mục tiêu trên Công ty đã đề ra một số
phương hướng sau:
-Năng lực sản xuất của Công ty theo thiết kế đạt 20.000 tấn /năm. Hiện
nay, Công ty mới chỉ khai thác được 60%. Vì vậy, một trong những biện pháp
quan trọng là nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị đã đầu tư.
-Thường xuyên thay đổi mặt hàng, cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất
lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.
-Nghiên cứu, sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thay thế hàng nhập
khẩu nhằm hạ giá thành sản phẩm, hạn chế được sự biến động của ngoại tệ.
-ổn định và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại thị trường cũ, mở rộng thị

trường mới, nhất là thị trường phía Nam và thị trường xuất khẩu, ưu tiên khôi
phục lại thị trường Đông Âu từng bước thâm nhập thị trường ASEAN và
hướng tới thị trường Châu Mĩ và Bắc Mỹ.
-Nghiên cứu, mở rộng phạm vi khoán cho các đơn vị xí nghiệp thành viên
từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sao cho sâu sát, hợp lý và chặt chẽ.
-Nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của sản
phẩm bánh kẹo do Công ty sản xuất. Phấn đấu đạt qui trình quản lý chất lượng
theo tiêu chuẩn ISO 9002.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO TRÀNG AN.
Với những thành công đã có, Công ty bánh kẹo Tràng An tự hào là một
trong các doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong hoạt động sản xuất tự chủ và
có hiệu quả trong kinh doanh. Không ai phủ nhận thành tích mà Tràng An đã
đạt được. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi mà hiện tại chưa bắt đầu,
tương lai đang đối đầu và thách thức, nếu tự bằng lòng với những gì mình đạt
được rất có thể Công ty sẽ gặp khó khăn trong những năm tiếp theo. Qua thời
gian thực tập tại Công Ty và từ kết quả đánh giá về hiệu quả kinh doanh cũng
như nêu ra những điểm yếu và nguyên nhân, em mạnh dạn đề xuất một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo
Tràng An trong tương lai.
1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường.
Hiện nay, vấn đề quan tâm nhất của Công Ty là tăng sản lượng tiêu thụ
và giảm thiểu hàng tồn kho vì bánh kẹo có tỷ số doanh lợi thấp, nếu lượng
hàng tồn kho lớn sẽ làm cho Công ty hoạt động không có hiệu quả. Muốn được
khối lượng tiêu thụ thì sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng được yêu cầu của
thị trường. Do vậy Công ty phải có một lực lượng cán bộ nghiên cứu thị trường
đủ mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng.
Hiện nay Công ty chưa có phòng Maketing; công việc nghiên cứu thị
trường do phòng Kinh doanh đảm nhiệm nên hiệu quả đạt được chưa cao. Cán
bộ nghiên cứu thị trường gồm có 14 người mà công ty có gần 200 đại lý đặt tại

35 tỉnh, thành; trung bình một cán bộ nghiên cứu thị trường phải phụ trách
14,29 đại lý đặt tại 2,5 tỉnh thành. Nếu như tính thời gian theo dõi một tháng
thì cán bộ phải đến kiểm tra các đại lý chỉ có đủ 1,54 ngày kể cả thời gian di
chuyển. Điều này dẫn đến các cán bộ phụ trách các thị trường ngoại tỉnh
không nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, các chính sách bán hàng của các đối
thủ cạnh tranh từ đó gây khó khăn cho Công ty trong việc hoạch định các chính
sách phân phối.
Hơn nữa, Công ty không có phòng Marketing nên thu thập thông tin
thường rời rạc, khó tổng hợp để nghiên cứu. Việc thành lập phòng Marketing
là xuất phát từ yêu cầu của công việc, đòi hỏi Công ty phải có hệ thống thu thập
và xử lý thông tin khép kín.
Từ thực trạng trên, Công ty có thể thành lập phòng Marketing chuyên làm
công tác nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kỹ thuật Marketing để phân tích,
đánh giá thị trường sâu sát từ đó đưa các loại sản phẩm và chính sách bán phù
hợp.
Lợi ích của Công ty khi thành lập phòng Marketing:
Thứ nhất: Khi có phòng Marketing Công ty nắm được tình hình thị
trường sâu sát hơn, giúp cho việc lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch huy động
vốn sát với yêu cầu thực tế, tránh tình trạng quá dư thừa hoặc thiếu trong việc
cung cấp sản phẩm ra thị trường.
Thứ hai: Công ty nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, sức mua tăng
giảm của từng loại sản phẩm, sức mua theo thời vụ để tìm sản phẩm mới thay
thế sản phẩm cũ và lập kế hoạch sản xuất từng mặt hàng cho từng tháng.Ví dụ:
một số loại bánh cao cấp thường chỉ tăng khối lượng sản xuất vào các dịp lễ tết,
lễ hội.
Thứ ba: giúp Công ty hiểu rõ hơn về các đối thủ cạnh tranh, so sánh các
chính sách giá cả, chất lượng sản phẩm và các chính sách hỗ trợ bán hàng của
họ với công ty của mình, liệu hiện nay các chính sách giá đang áp dụng có
mang lại hiệu quả cho Công ty hơn các đối thủ cạnh tranh khác không. Từ đó
tạo điều kiện cho Công ty điều chỉnh mức chiết khấu hiện nay từ 2%-5% tuỳ

theo từng mặt hàng cho các đại lý, qui định mức thưởng cho 20 đại lý có doanh
số bán cao nhất và hỗ trợ giá cho các thị trường ở xa.
Thứ tư: Giúp cho Công ty chủ động cho sản xuất kinh doanh, có thái độ
phù hợp trên từng thị trường, từng đối tượng khách hàng và linh động theo
từng thời điểm biến động của môi trường sản xuất kinh doanh.
Thứ năm: giúp cho Công ty giải quyết đầu vào và đầu ra một cánh nhanh
chóng, giảm tồn kho và đặc biệt tăng cường kinh doanh những mặt hàng có
hiệu quả, tạo điều kiện cho Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, và hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
Khó khăn khi thành lập phòng Marketing
Nếu duy trì 14 cán bộ nghiên cứu thi trường ở phòng Kinh doanh sang
phòng Marketing thì họ vẫn không nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng.
Do đó, đòi hỏi Công ty phải tuyển thêm một số lượng lớn nhân viên Marketing.
Vì vậy, hàng tháng Công ty phải trả thêm một khoản lương khá lớn.
- Chi phí cho việc thành lập một phòng mới rất tốn kém như mua sắm bàn
ghế điện thoại, máy vi tính, phòng làm việc,... mất khoảng trên 100 triệu đồng.
- Bộ máy quản lý của Công ty cồng kềnh hơn, gây khó khăn cho việc quản lý.
- Chi phí bán hàng tăng lên do tăng chi phí Marketing.
Tuy nhiên, những khó khăn và tăng chi phí này chỉ mang tính trước mắt,
xét về chiến lược dài hạn và phấn đấu hoàn thành kế hoạch đến năm 2005 thì
việc lập phòng Marketing là một yêu cầu tất yếu. Vì khó khăn nhất hiện nay
của Công ty là vấn đề tiêu thụ sản phẩm mà tỉ suất lợi nhuận bánh kẹo thấp,
nếu như khâu tiêu thụ là không tốt kéo theo hiệu quả kinh doanh giảm xuống.
Vì thế, Công ty cần phải đặc biệt chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường,
đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ. Xuất phát từ nhu cầu đó việc thành lập phòng
Marketing là một đòi hỏi tất yếu.
2. Tiết kiệm nguyên vật liêu nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thật, chất lượng sản phẩm ngày
càng được nâng cao, không những thế giá cả sản phẩm cũng luôn được quan
tâm. Vì vậy, Công ty bánh kẹo Tràng An cần quan tâm tới các yếu tố giảm chi

phí nhằm hạ giá thành sản phẩm.
Trong giá thành các sản phẩm kẹo, tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu chiếm tỉ
trọng lớn: Kẹo cứng 73,4%, kẹo mềm 72,1%,... Do đó, việc giảm chi phí nguyên
vật liệu đóng vai trò quyết định trong công tác hạ giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên, với các sản phẩm bánh kẹo của Công ty không thể giảm chi phí
nguyên vật liệu bằng cách giảm thành phần nguyên vật liệu, bớt đi nguyên vật
liệu dưới mức công thức kỹ thuật hoặc giảm chất lượng nguyên vật liệu để có
giá nhập nguyên vật liệu rẻ hơn, như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng sản
phẩm. Muốn vậy Công ty cần giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách tiết kiệm
tối đa lượng tiêu hao, lãng phí nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng công tác
thu mua nguyên vật liêu, đổi mới công nghệ sản xuất, sản xuất nghuyên vật
liêu thay thế rẻ hơn nhưng chất lượng vẫn đảm bảo, giảm chi phí vận chuyển
nguyên vật liệu.
Trong quá trình sản xuất bánh kẹo, các tiêu hao lãng phí nguyên vật liêu
thường xảy ra như :rơi vãi nguyên vật liệu, không thu hồi nước đường triệt để
rửa nồi, khi nấu kẹo còn để trào bồng nhiều ra ngoài. Với định mức tiêu hao
nguyên vật liệu được Công ty qui định như sau:
- Kẹo cứng với sản lượng 3tấn/ ca tiêu hoa 2,5% tức tiêu hao là 75kg
(287.000đ).
- Kẹo mềm với sản lượng 8tấn/ ca tiêu hoa 3% tức tiêu hao là 240kg
(612.000đ).
Nếu độ ẩm của nguyên vật liệu đưa vào sản xuất không cao hơn tiêu
chuẩn qui định và độ keo được phân tích chính xác thì mức tiêu hao đó còn quá
lớn buộc Công ty cần phải quan tâm. Đối với các tổ nấu, hoà đương thì tiêu hao
nguyên liệu chủ yếu chiếm ở khâu này (trên 70% lượng tiêu hao). Do đó, tổ
nấu cần giảm bớt tình trạng trào, bồng khi hoà, rơi vãi đường.
Đối với quá trình sản xuất các loại bánh người tổ trưởng cần tổ chức thu
gom ngay nguyên vật liệu còn thừa sau khi cắt khuôn, đồng thời loại bỏ những
chiếc bánh bị vỡ, bị hỏng, khẩn trương giao cho bộ phận đánh trộn bột chế
biến để tái chế nhằm đưa vào sản xuất. Việc làm này vừa tiết kiệm được

nguyên vật liệu vừa giảm thiểu được sự vận chuyển đến nơi sản xuất.
Đối với các sản phẩm là kẹo các tổ kiểm tra chất lượng cần thu hồi các loại kẹo
quạn sử dụng, kẹo không đảm bảo chất lượng hoặc trọng lượng đem tái chế sản xuất
lại.
Hơn nữa, để có thể tiết kiệm được nguyên vật liệu, Công ty cần phải tiếp
tục kiểm tra chặt chẽ nguyên vật liệu, cân, đo, đong, đếm theo công thức ghi sổ
sách và giao cho những người có trách nhiệm quản lý. Nếu làm tốt những công

×