Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.08 KB, 37 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Chiến lược kinh doanh và các cấp chiến lược.
1. Chiến lược kinh doanh.
1.1. Khái niệm chiến lược kinh doanh.
1.1.1. Khái niệm.
Hiện nay còn khá nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược kinh doanh,
nhưng chưa có khái niệm nào lột tả được đầy đủ bản chất của hoạt động này.
Cách tiếp cận phổ biến hiện nay xác nhận: Chiến lược kinh doanh là tổng
hợp các mục tiêu dài hạn, các chính sách và giải pháp lớn về sản xuất kinh
doanh về tài chính và về giải quyết nhân tố con người nhằm đưa hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp phát triển lên một trạng thái mới cao hơn về
chất.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh doanh.
Tuy còn có các cách tiếp cận khác nhau về phạm trù chiến lược kinh doanh
và phát triển doanh nghiệp; Song các đặc trưng cơ bản của chiến lược kinh
doanh lại được quan niệm gần như đồng nhất với nhau. Ở phạm vi chiến lược
kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, các đặc trưng đó là:
- Chiến lược phác thảo các mục tiêu và phương hướng phát triển của doanh
nghiệp trong thời kỳ dài (5 năm, 10 năm ...). Tính định hướng của chiến lược
nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên tục và vững chắc trong môi
trường kinh doanh thường xuyên biến động. Việc kết hợp mục tiêu chiến lược
với mục tiêu tình thế trong thực hành kinh doanh là yêu cầu cần thiết để bảo
đảm hiệu quả kinh doanh và khắc phục các sai lệch do tính định hướng của
chiến lược gây ra.
- Tập trung các quyết định chiến lược quan trọng về cấp lãnh đạo doanh
nghiệp. Điều đó đảm bảo tính chuẩn xác của các quyết định (về sản phẩm, về
đầu tư, về đào tạo...) và sự bí mật về thông tin và cạnh tranh trên thương
trường. Theo đó, chỉ có người chủ sở hữu của doanh nghiệp (doanh nhân, hội
đồng cổ đông ...) mới có quyền quyết định lựa chọn hoặc thay đổi các mô hình
chiến lược phát triển của doanh nghiệp.


- Chiến lược luôn có tư tưởng tiến công, giành phần thắng trên thương
trường. Chiến lược được hoạch định và thực thi dựa trên phát hiện và sử dụng
các cơ hội kinh doanh, các lợi thế so sánh của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả
kinh doanh cao.
Còn về thuật ngữ "chiến lược", tuỳ từng trường hợp có các ý nghĩa khác
nhau. Thứ nhất, chiến lược có thể coi là một bản kế hoạch chiến lược. Thứ hai,
nó có thể coi là hoạt động cơ bản để thực hiện mục tiêu chiến lược. Để xem xét
nội dung chiến lược kinh doanh, người ta thường xem xét nó với ý nghĩa một
bản kế hoạch chiến lược.
1.2. Nội dung của chiến lược kinh doanh.
Nhìn chung chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp gồm ba nội
dung:
Khẳng định các quan điểm tồn tại và phát triển (hay chức năng nhiệm vụ)
của doanh nghiệp.
Các mục đích và mục tiêu cơ bản của cho một khoảng thời gian đủ dài đảm
bảo cho doanh nghiệp đạt được một trình độ phát triển vượt bậc.
Các giải pháp, chính sách, thủ đoạn (hay các phương thức chiến lược) phải
thực hiện để biến các quan điểm thành hiện thực và đạt được các mục tiêu
chiến lược đặt ra.
1.2.1. Chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Các quan điểm tồn tại và phát triển (hay tư tưởng chủ đạo) của doanh
nghiệp thể hiện thông qua các chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, đó là
"mệnh đề cố định của doanh nghiệp, phân biệt doanh nghiệp với các doanh
nghiệp tương tự khác". Mệnh đề như vậy còn được coi là mệnh đề về các
nguyên tắc kinh doanh, mục đích triết lý và tín điều của doanh nghiệp hoặc các
quan điểm của doanh nghiệp. Từ đó xác định lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp thông thường nó là các loại sản phẩm cơ bản hoặc loại hình dịch vụ
chính, các nhóm đối tượng khách hàng hàng đầu, nhu cầu thị trường, lĩnh vực
công nghệ, hoặc tổ hợp một số các yếu tố này. Nội dung các chức năng nhiệm
vụ chung bao gồm các vấn đề bao quát hơn về những điều mong muốn có

được bên ngoài doanh nghiệp như: ấn tượng của doanh nghiệp có được đối
với công chúng, phương cách xử thế của doanh nghiệp nói chung.
Chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp phải nhằm đạt được những điều sau
đây:
- Đảm bảo sự đồng tâm nhất chí về hướng trong nội bộ doanh nghiệp.
-Tạo cơ sở để huy động các nhiệm vụ của doanh nghiệp.
- Đề ra tiêu chuẩn để phân bổ các nguồn lực của doanh nghiệp.
- Hình thành khung cảnh kinh doanh thuận lợi.
- Đóng vai trò tiêu điểm để mọi người đồng tình với mục đích và phương
hướng của doanh nghiệp.
-Tạo điều kiện để chuyển hoá các mục đích của tổ chức thành các mục tiêu
thích hợp của doanh nghiệp.
-Tạo điều kiện để chuyển hoá mục tiêu thành các chiến lược và biện pháp cụ
thể.
Ngoài ra chức năng nhiệm vụ còn phải:
Xác định rõ tình hình hiện tại của tổ chức và tổ chức muốn trở thành như
thế nào trong tương lai.
Phân biệt tổ chức với mọi tổ chức khác.
Là khuôn khổ để đánh giá các hoạt động hiện thời cũng như trong tương lai.
Chức năng nhiệm vụ phải giới hạn vừa đủ để loại trừ các rủi ro mạo hiểm và
đủ rộng để tạo điều kiện tăng trưởng sáng tạo, đồng thời nội dung các chức
năng nhiệm vụ phải tương đối rõ ràng để mọi người trong toàn thể tổ chức
quán triệt.
Khi đề ra chức năng nhiệm vụ phải tính đến ít nhất 5 yếu tố chính đó là:
- Lịch sử của doanh nghiệp.
- Sở thích hiện tại của ban lãnh đạo và các chủ sở hữu.
- Các kiến giải về môi trường.
- Nguồn lực hiện có.
- Các khả năng đặc biệt.
1.2.2. Những mục đích và mục tiêu cơ bản (Hay mục tiêu chiến lược).

1.2.2.1. Mục tiêu.
Mục tiêu là các chuẩn đích mà mọi hoạt động của bất kỳ một cơ sở hoặc bộ
phận nào đều phải hướng tới, nó là điểm kết thúc của một hành động đã ấn
định. Nói cách khác, thuật ngữ mục tiêu dùng để chỉ các tiêu đích và kết quả cụ
thể mà doanh nghiệp phấn đấu đạt được. Tuy mục tiêu được suy ra trực tiếp
từ chức năng nhiệm vụ, chúng cần phải cụ thể rõ ràng hơn. Một mục tiêu là xác
đáng nếu đứng tại một thời điểm chuẩn đích nào đó trong tương lai chúng ta
có thể nhìn lại và nói một cách chắc chắn rằng: "vâng mục tiêu đã đạt được"
hay “không mục tiêu chưa đạt được". Ngược lại, sẽ không có một thước đo
hiệu quả bởi vì chúng ta không thể biết, liệu chúng ta có đang hoàn thành một
mục tiêu hay không, nếu nó không rõ ràng. Chúng ta cũng không đo được kết
quả nếu chúng ta không biết được đầu vào và đầu ra.
Một doanh nghiệp nói riêng hay một tổ chức nói chung luôn có rất nhiều
mục tiêu cùng một lúc. Các mục tiêu này tạo thành một hệ thống mạng lưới và
phân cấp. Tức là các mục tiêu trong cùng một tổ chức có quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau hoặc cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Thông
thường người ta phải tạo ra sự móc nối chặt chẽ giữa các mục tiêu và các
chương trình. Bên cạnh đó, hệ thống mục tiêu có tính phân cấp, do các mục
tiêu không phải luôn luôn có vị trí ngang nhau, mỗi loại mục tiêu có tầm quan
trọng khác nhau và tầm bao quát khác nhau.
Để xem xét các loại mục tiêu người ta thương phân chia nó ra nhiều loại
khác nhau, đó là:
Nếu căn cứ vào phạm vi bao quát của mục tiêu trong một doanh nghiệp đa
lĩnh vực người ta có thể có các loại mục tiêu là: mục tiêu của doanh nghiệp,
mục tiêu của từng đơn vị chiến lược, mục tiêu cho từng đơn vị chức năng của
từng đơn vị chiến lược, mục tiêu cho từng phần, từng bộ phận thuộc lĩnh vực
chức năng nhằm hỗ trợ cho mục tiêu của các lĩnh vực chức năng.
Nếu căn cứ vào thời gian thực hiện mục tiêu người ta chia thành mục tiêu
ngắn hạn và dài hạn. Thông thường thì mục tiêu ngắn hạn được thực hiện
trong khoảng thời gian một năm. Còn mục tiêu dài hạn được thực hiện trong

thời gian từ một năm trở lên. Tuy nhiên vấn đề dài hạn hay ngắn hạn còn phụ
thuộc vào ngành công nghiệp và doanh nghiệp cụ thể. Do vậy cách phân chia
như trên chưa làm rõ được sự khác nhau giữa mục tiêu dài hạn và ngắn hạn.
Cần định nghĩa mục tiêu dài hạn và ngắn hạn theo một chu kỳ quyết định cụ
thể thông thường của doanh nghiệp. Chu kỳ quyết định là khoảng thời gian
cần thiết để thực hiện trọn vẹn một quyết định. Như vậy thì mục tiêu dài hạn là
mục tiêu thường dài hơn một chu kỳ quyết định, còn mục tiêu ngắn hạn là các
kết quả cụ thể mà doanh nghiệp dự định đạt được trong chu kỳ quyết định.
Thông thường một mục tiêu đúng đắn phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
+ Tính cụ thể: Mục tiêu phải chỉ rõ nó liên quan đến những vấn đề gì, giới
hạn thời gian thực hiện và kết quả thực hiện được.
+ Tính linh hoạt: Các mục tiêu đề ra cần phải đủ linh hoạt để có thể điều
chỉnh phù hợp với nguy cơ và cơ hội thường xảy ra trong điều kiện môi
trường.
+ Tính định lượng: Các mục tiêu đề ra sẽ là cơ sở cho những đánh giá sau
này vì vậy các mục tiêu càng mang tính định lượng bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu. tuy nhiên không phải tất cả các mục tiêu đều có thể định lượng được
một cách rõ ràng, hợp lý, có khá nhiều mục tiêu quan trọng không thể định
lượng được, đó là những mục tiêu mang tính định tính cao. Để làm tăng tính
xác đáng của mục tiêu loại này người ta thường thực hiện các giải thích rõ
ràng hơn về đặc tính của các chương trình hoặc các mục tiêu liên quan khác và
định rõ ngày hoàn thành.
+ Tính khả thi: Nội dung mục tiêu phải đặt ra thử thách đối với lãnh đạo và
công nhân viên, nhưng chúng phải sát thực và có thể đạt được.
+ Tính hợp lý: Một mục tiêu là hợp lý khi nó được các nhà lãnh đạo chịu
trách nhiệm thực hiện và các đối tượng hữu quan chủ chốt chấp nhận.
1.2.2.2. Mục tiêu chiến lược.
* Khái niệm:
Mục tiêu chiến lược là những định hướng cơ bản, những định mức và những
kết quả cần đạt được của doanh nghiệp ứng với thời kỳ dài hạn.

Các mục tiêu dài hạn thường được ấn định theo 7 lĩnh vực chủ yếu sau đây:
- Mức lợi nhuận.
- Năng suất.
- Vị thế cạnh tranh.
- Phát triển việc làm.
- Quan hệ giữa công nhân viên.
- Vị trí dẫn đầu về công nghệ.
- Trách nhiệm trước công luận.
Mặt khác ngoài việc đáp ứng 6 tiêu thức của một mục tiêu nói chung thì mục
tiêu chiến lược còn có ý nghĩa khác đó là:
+ Mục tiêu chiến lược là định hướng cơ sở cơ bản để xác định các chỉ tiêu kế
hoạch ngắn hạn.
+ Chỉ tiêu của chiến lược sẽ là những cơ sở quan trọng để phân bổ nguồn lực
trong dài hạn.
Tóm lại mục tiêu chiến lược là một loại mục tiêu dài hạn, có tính định hướng
và phạm vi bao quát lớn. Tuy nhiên phạm vi bao quát của các mục tiêu chiến
lược không phải luôn luôn giống nhau. Vì vậy dựa vào phạm vi bao quát
người ta xếp các mục tiêu chiến lược theo thứ bậc như sau:
Trên hết là mục tiêu tổng quát hay mục tiêu bao trùm của doanh nghiệp.
Mục tiêu này liên quan đến hướng phát triển chủ yếu, đến hình ảnh tương lai
của doanh nghiệp. Mục tiêu này giúp phác thảo các hướng chiến lược cơ bản
của doanh nghiệp.
Thứ bậc tiếp theo của mục tiêu phát triển doanh nghiệp là các mục tiêu phát
triển tổng hợp (tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lợi nhuận...), các mục tiêu về các
nguồn lực (nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực, nguồn tài chính...). Đó là hệ
thống nối giữa doanh nghiệp và thực hành kinh doanh.
Thông qua hệ thống kế hoạch, chương trình ngắn hạn, các mục tiêu ngắn
hạn về hiệu quả và nguồn lực được cụ thể hoá cho các chức danh đứng đầu các
bộ phận chức năng và lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Nói cách khác các mục
tiêu riêng biệt theo chức năng và lĩnh vực được dùng để thiết lập các kế hoạch

thực thi chiến lược ở mỗi lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp.
* Vai trò của mục tiêu chiến lược.
Trong phạm vi doanh nghiệp mục tiêu chiến lược có vai trò quan trọng ở các
mặt sau:
- Định hướng sự phát triển dài hạn của doanh nghiệp.
- Căn cứ để phân bổ các nguồn lực thực hiện các mục tiêu kinh doanh .
- Căn cứ để xác định và thực hiện các hướng chiến lược dài hạn về nghiên
cứu triển khai, đầu tư phát triển, đào tạo cán bộ, liên doanh liên kết kinh
tế ...
1.2.2.3. Các phương thức chiến lược.
Các phương thức chiến lược chính là các phương thức để thực hiện mục
tiêu chiến lược. Nội dung của phương thức chiến lược chính là câu trả lời cho
hai câu hỏi:
+ Phải làm gì để thực hiện mục tiêu chiến lược?
+ Thực hiện mục tiêu chiến lược bằng công cụ gì?
Trước hết trả lời cho câu hỏi thứ nhất, chúng ta có: sau khi xác định mục
tiêu chiến lược, người ta căn cứ vào đó để tìm ra các giải pháp chiến lược, các
chính sách, các chương trình phụ trợ nhằm vạch ra các công việc phải thực
hiện và những mục tiêu công cụ (cấp dưới mục tiêu chiến lược) phải thực hiện
để hiện thực hoá các mục tiêu chiến lược.
Thứ hai, muốn thực hiện các giải pháp chiến lược, chính sách, chương
trình... ở trên cần phải xác định nguồn lực và tiềm năng của doanh nghiệp
nhằm trả lời câu hỏi thứ hai: "Giải quyết mục tiêu bằng cách nào", tức là công
cụ để thực hiện mục tiêu trên là gì?. Nó bao hàm tất cả những nguồn lực mà
doanh nghiệp có hoặc có thể có trong tương lai cần hoặc nên phân bổ như thế
nào cho từng giải pháp, từng chương trình, chính sách theo thời gian và không
gian.
Nói tóm lại, việc xem xét nội dung chiến lược chính là xem xét mục tiêu chiến
lược và các phương thức thực hiện chiến lược.
1.3. Vai trò của chiến lược kinh doanh.

Hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đa số các doanh nghiệp
phải đối mặt với những điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn, phức tạp
mang tính biến động và rủi ro cao, song việc làm cho doanh nghiệp thích nghi
với sự thay đổi môi trường là hết sức cần thiết, quyết định sự thành công hay
thất bại của doanh nghiệp. Thực tế đã chỉ ra những bài học thành công hay
thất bại trong kinh doanh nhờ chiến lược kinh doanh tối ưu hay ngược lại.
Hầu hết những thất bại trong nền kinh tế hiện nay là do thiếu một chiến lược,
hay do chiến lược sai lầm, hoặc do triển khai chiến lược không đúng đắn. Nếu
không có một chiến lược được thực thi một cách có hiệu quả thì việc thất bại
gần như là chắc chắn. Từ đó có thể khẳng định vai trò của chiến lược kinh
doanh trong doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trước hết, vai trò của chiến lược kinh doanh là nhằm tạo ra một sự định
hướng thống nhất cho các kế hoạch trong doanh nghiệp. Nói cách khác, chiến
lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp trong việc nhận rõ mục tiêu, hướng đi
của mình và là kim chỉ nam cho mọi hành động của doanh nghiệp trong kinh
doanh. Dù rằng nếu chỉ có một kế hoạch là chiến lược thì thực ra sẽ không đảm
bảo cho doanh nghiệp đạt tới cái đích họ mong muốn, nhưng chiến lược định
hướng cho các kế hoạch khác, hướng dẫn cho những quyết định tác ngiệp và
thường ưu tiên giải quyết chúng trước.
Thứ hai, cùng với sự thay đổi và phát triển nhanh tróng của môi trường
kinh doanh, trên thị trường sẽ luôn xuất hiện những cơ hội và nguy cơ đe doạ.
Trong bối cảnh đó chiến lược kinh doanh tạo điều kiện để doanh nghiệp nắm
bắt và tận dụng được thời cơ kinh doanh, chủ động tìm giải pháp vượt qua các
hiểm nguy, cạm bẫy của thị trường.
Thứ ba, chiến lược kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp.
Thứ tư, việc xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh tạo ra căn cứ vững
chắc để doanh nghiệp đề ra các chính sách, quyết định phù hợp với sự biến
động của thị trường.

2. Các cấp chiến lược.
Nếu doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại sản phẩm hay dịch vụ duy nhất
thì doanh nghiệp chỉ cần một loại kế hoạch chiến lược là đủ, bao trùm các hoạt
động trong doanh nghiệp. nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp kinh doanh
nhiều mặt hàng hết sức đa dạng, trong đó có không ít những mặt hàng không
liên quan với nhau. Những doanh nghiệp này thường có các chiến lược khác
nhau cho các cấp hoạt động khác nhau. Vì vậy cần phân biệt ba cấp hoạt động
chiến lược.
- Chiến lược cấp doanh nghiệp.
- Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh.
- Chiến lược cấp chức năng.
2.1. Chiến lược cấp doanh nghiệp.
Chiến lược cấp doanh nghiệp là chiến lược xác định doanh nghiệp sẽ hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh nào, vị trí của doanh nghiệp đối với môi
trường, và vai trò của từng ngành kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.2. Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh chiến lược.
Chiến lược cấp kinh doanh là chiến lược xác định vị trí của ngành kinh
doanh trong doanh nghiệp, vị trí của ngành trong môi trường, và xác định nên
cạnh tranh trong mỗi lĩnh vực hoạt động của nó như thế nào.
Như vậy đối với những doanh nghiệp nhỏ chuyên hoạt động trong một
ngành kinh doanh thì chiến lược cấp kinh doanh và chiến lược cấp doanh
nghiệp cơ bản là như nhau.
Nhưng khi doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành kinh doanh khác
nhau, thông thường doanh nghiệp đó được phân chia thành các đơn vị kinh
doanh chiến lược (SBU), hay gọi là đơn vị thành viên, tương đối độc lập với
nhau. Mỗi SBU đảm nhận một hay mộ số ngành kinh doanh khác nhau, tự tạo
lập ra chiến lược kinh doanh cho đơn vị mình trong sự thống nhất với chiến
lược và lợi ích của toàn doanh nghiệp.
2.3. Chiến lược cấp chức năng.
Là chiến lược xác định cần phải hỗ trợ chiến lược cấp kinh doanh như thế

nào. Cấp chức năng có thể kể đến các loại chiến lược sau: R&D (chiến lược
nghiên cứu và phát triển; Sản xuất; Marketing; Nhân sự; Tài chính...)
Hình 1. Sơ đồ các cấp chiến lược trong doanh nghiệp.
Chiến lược cấp doanh nghiệp
Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh chiến lược
SBU1 SBU2 SBU3 ... SBUn
Chiến lược cấp chức năng
Nhân sự Sản xuất Marketing R&D Tài chính
Tóm lại, một doanh nghiệp thường có ba cấp chiến lược phân biệt. Việc hoàn
thiện chiến lược phải đồng bộ ở tất cả các cấp. Tuy nhiên do tính định hướng
của chiến lược nên chiến lược ở cấp càng cao thì đóng vai trò càng quan trọng.
II. Quy trình cơ bản của chiến lược kinh doanh
1. Phân tích môi trường kinh doanh
1.1. Mục đích của phân tích.
Quá trình phân tích bao gồm việc phân tích môi trường kinh doanh bên
ngoài và phân tích hoạt động kinh doanh của công ty. Quá trình này được gọi
là phân tích SWOT để nói lên mục đích của việc phân tích.
(S: strengths: điểm mạnh; W: weeknesses: điểm yếu; O: opportunities: cơ hội;
T: threats: mối đe doạ.)
Phân tích môi trường kinh doanh nhằm xác định cơ hội và mối đe doạ từ
môi trường bên ngoài. Cơ hội là những yếu tố thuận lợi cho việc thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp. Mối đe doạ là những yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến hoạt
động của doanh nghiệp. Việc phân tích môi trường thường dựa vào phân tích
hiện trạng và dự báo sự biến động của môi trường.
Mục đích của việc phân tích môi trường bên trong là xác định những điểm
mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Điểm mạnh là những điểm mà doanh
nghiệp làm tốt hơn các doanh nghiệp khác, đây là những điểm mà doanh
nghiệp có thể dựa vào để xây dựng chiến lược. Điểm yếu là những điểm hạn
chế của doanh nghiệp, khi đi xây dựng chiến lược doanh nghiệp cần chú ý để
hạn chế nó. Việc phân tích này thường dựa vào sự so sánh với các doanh

nghiệp khác trong ngành và dựa vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp
mình.
1.2. Phân tích môi trường vĩ mô.
1.2.1. Yếu tố kinh tế của môi trường vĩ mô.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, vì các
yếu tố này tương đối rộng nên doanh nghiệp cần chọn lọc những yếu tố có ảnh
hưởng trực tiếp nhất.
- Tỷ lệ lãi suất:
Tỷ lệ lãi suất có thể ảnh hưởng đến mức cầu đối với sản phẩm của
doanh nghiệp, tỷ lệ lãi suất là rất quan trọng khi người tiêu dùng thường
xuyên vay tiền để thanh toán các khoản tiêu dùng của mình.
Tỷ lệ lãi suất còn ảnh hưởng đến chi phí về vốn do vậy nó quyết định
mức đầu tư, chi phí này là chủ yếu khi quyết định tính khả thi của chiến lược.
- Tỷ giá hối đoái:
Sự thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến tính cạnh tranh của
sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
- Tỷ lệ lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp, các quyết định đầu
tư của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát quá cao thì hoạt động đầu tư sẽ là
may rủi và như vậy các doanh nghiệp sẽ hạn chế đầu tư vào nền kinh tế, dẫn
tới suy thoái.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng lớn tới doanh nghiệp, trước hết
doanh nghiệp sẽ lựa chọn nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao và bền vững để
đầu tư thì sẽ dễ dàng có được tỷ lệ lợi nhuận cao và có được sự ổn định cần
thiết. Việc đầu tư vào một thị trường có tỷ lệ tăng trưởng quá cao (nền kinh tế
quá nóng) hay đầu tư vào một nền kinh tế đang suy thoái đều là không tốt và

×