Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Đặc trưng văn học vết thương trung quốc qua tùy tưởng lục của ba kim và dịch thuật tác phẩm này tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.69 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THỊ NGUYÊN

ĐẶC TRƢNG VĂN HỌC VẾT THƢƠNG
TRUNG QUỐC QUA TÙY TƯỞNG LỤC CỦA
BA KIM VÀ DỊCH THUẬT TÁC PHẨM NÀY
TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài

Hà Nội-2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------

LÊ THỊ NGUYÊN

ĐẶC TRƢNG VĂN HỌC VẾT THƢƠNG
TRUNG QUỐC QUA TÙY TƯỞNG LỤC CỦA
BA KIM VÀ DỊCH THUẬT TÁC PHẨM NÀY
TẠI VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 02 45


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thu Hiền

Hà Nội-2016


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào những năm 70 - 80 trên văn đàn Trung Quốc, điều đáng chú ý nhất
có lẽ chính là trào lưu Văn học vết thương. Văn học vết thương nguyên gốc
tiếng Trung là 伤痕文学 (tức văn học vết thương hay vết sẹo, nhưng ở Việt
Nam chúng ta quen dùng với thuật ngữ “Văn học vết thương”). Đúng như tên
gọi của mình, trào lưu Văn học vết thương để chỉ những tác phẩm văn học
viết về nỗi đau suốt mười năm “cách mạng văn hóa” ở Trung Quốc. Mười
năm ấy với những nỗi đau, ám ảnh không thể xóa mờ trong trái tim, tâm trí
những người trí thức, vết thương bên ngoài thể xác của họ có thể lành nhưng
vết thương trong tâm hồn thì vẫn mãi nhức nhối không yên. Mười năm “cách
mạng văn hóa” là mười năm của khổ đau, mà khổ đau nhất ở đây chính là sự
áp chế về mặt tư tưởng. Chính vì vậy, vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX,
khi Trung Quốc bước vào thời kỳ cải cách mở cửa, các nhà văn Trung Quốc
đã nhìn lại quãng thời gian đen tối ấy, viết lại những nỗi đau mà vết thương
nó để lại vẫn trong trái tim họ. Văn học vết thương phản ánh tấn bi kịch tinh
thần mà người trí thức phải chịu trong mười năm “cách mạng văn hóa”, nhằm
phủ định cuộc “cách mạng văn hóa” kia, đồng thời Văn học vết thương còn là
sự tiếp nối truyền thống tinh thần đấu tranh của người trí thức từ thời Văn học
Ngũ Tứ. Đó là tinh thần khai minh, sự dũng cảm của những người cầm bút
dám đứng lên để bảo vệ lẽ phải, sự tự do (không chỉ thể xác mà còn là cả tinh
thần) cho những người trí thức. Không chỉ phản ánh, Văn học vết thương còn
như một lời sám hối, phản tư của bản thân nhà văn đối với một giai đoạn lịch
sử (cụ thể ở đây chính là mười năm “cách mạng văn hóa”). Và Văn học vết
thương cần được nhìn nhận trong dòng chảy văn học Trung Quốc với tư cách

1


tiếp nối tinh thần của văn học Ngũ Tứ trước đó. Ngoài ra, Văn học vết thương
cũng bắt đầu chú ý tới những con người, những số phận nhỏ bé trong xã hội.
Tuy chỉ kéo dài trong khoảng chưa đầy mười năm nhưng Văn học vết thương
có giá trị lịch sử to lớn, nó chính là trào lưu mở đầu cho hàng loạt trào lưu văn
học sau đó của Trung Quốc, như Văn học phản tư, Văn học cải cách, Văn học
tầm căn... Có thể ví Văn học vết thương như cánh én báo hiệu mùa xuân trên
văn đàn Trung Quốc hiện đại.
Những nhà văn tiêu biểu của trào lưu Văn học vết thương có thể kể tới
Ba Kim, Tiêu Kiền, Vương Tây Ngạn, Kha Linh, Hồ Phong, Ngưu Hán, Tân
Địch, Trần Kính Dung, Ngải Thanh, Công Lưu, Lưu Sa Hà…
Trong đó, Ba Kim (tên thật Lý Nghiêu Đường) được coi là “cây đại
thụ” trong nền văn học Trung Quốc, là một trong những nhà văn hiện đại nổi
tiếng nhất Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại phong kiến,
chính vì vậy, từ nhỏ Ba Kim đã phải tiếp xúc rất nhiều chuyện bất công, bất
hợp lý trong chính dinh cơ rộng lớn của gia đình mình. Ông oán ghét, thậm
chí căm thù những đấu đá, bất công của chế độ phong kiến ấy. Tới năm 1919,
phong trào Ngũ Tứ như một luồng gió mới thổi bùng lên tư tưởng dân chủ,
đổi mới trong Ba Kim. Ông say mê sáng tác vì đó như một cách hữu hiệu để
bày tỏ tư tưởng của Ba Kim. Và tinh thần ấy như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
các tác phẩm của Ba Kim, mà sau này, trong Tùy tưởng lục, tinh thần phơi
bày hiện thực đen tối của xã hội, để từ đó kêu gọi mọi người chống lại “cách
mạng văn hóa”, cũng như sự phản tư, sám hối của chính nhà văn - người
trong cuộc - đã để lại ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc. Và Tùy tưởng lục
cũng trở thành một trong số những tác phẩm tiêu biểu nhất của trào lưu Văn
học vết thương của Trung Quốc.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, Ba Kim chưa được biết tới nhiều, chủ yếu chỉ
là những giới thiệu sơ lược, các tác phẩm của ông cũng chỉ được dịch rất ít,


2


gồm Gia đình, Mùa xuân, Trời lạnh về khuya và Tùy tưởng lục. Trong đó tác
phẩm Tùy tưởng lục nguyên bản gồm năm tập, nhưng người dịch (Trương
Chính, Ông Văn Tùng) chỉ chọn trong mỗi tập một số bài để dịch thành một
tập Tùy tưởng lục bằng tiếng Việt. Tùy tưởng lục có thể coi là một trong
những tác phẩm tiêu biểu của trào lưu Văn học vết thương, nó là lời tố cáo,
phản tư, sám hối của một nhà văn lớn của Trung Quốc về cuộc “cách mạng
văn hóa” suốt mười năm. Như Ba Kim từng nói, tập sách này như một lời
nhắc nhớ về những nỗi đau trong quá khứ, để mỗi người không ai được quên
về những tội ác từng xảy ra, để ngăn chặn những tội ác như thế có thể xảy ra
thêm một lần nữa.
Ở Việt Nam, trào lưu Văn học vết thương cũng mới chỉ được giới thiệu
một cách sơ lược, chưa có một công trình nghiên cứu toàn vẹn nào về trào lưu
văn học này. Chính vì vậy, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Đặc trƣng
văn học vết thƣơng Trung Quốc qua Tùy tưởng lục của Ba Kim và dịch
thuật tác phẩm này tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra một
cái nhìn sơ bộ về trào lưu văn học vết thương Trung Quốc đặt trong sự quan
sát và khái quát về tình hình dịch thuật cũng như tiếp nhận Văn học vết
thương Trung Quốc ở Việt Nam. Chúng tôi cũng sẽ đi sâu nghiên cứu về
những biểu hiện của Văn học vết thương qua tác phẩm cụ thể là Tùy tưởng lục
cũng như việc tái cấu trúc tác phẩm này qua bản dịch tiếng Việt của tác phẩm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Trung Quốc, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về trào lưu Văn
học vết thương.
Các công trình giới thiệu một cách bao quát nhất về trào lưu Văn học
vết thương có thể kể tới cuốn 新时期文学简史 (Giản sử văn học thời kỳ mới,
Trần Tư Hòa, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Quảng Tây, 2010) ở mục một,

3


chương một “Trở lại với tinh thần Ngũ Tứ” tác giả đã giới thiệu về bối cảnh
lịch sử, các đặc trưng và các tác giả tiêu biểu của trào lưu Văn học vết thương.
Trào lưu Văn học vết thương được hiểu như trào lưu mở đầu cho văn học thời
kỳ mới, được ra đời sau chính sách cởi trói cho văn nghệ của chính phủ Trung
Quốc. Trào lưu được định danh qua tên tác phẩm Vết thương của Lư Tân Hoa.
Chỉ là một phần trong chương đầu tiên của cuốn sách, tuy nhiên đã khái quát
cho người đọc cái nhìn bao quát, đầy đủ về trào lưu văn học này.
Tiếp tới, công trình được coi là đầy đủ nhất về nghiên cứu Văn học vết
thương là luận án 作为文艺思潮的伤痕文学(1976 - 1984 年)(“Văn học
vết thương” với tư cách là một trào lưu văn học (năm 1976 - 1984)) của tác
giả Vương Quỳnh, bảo vệ tại Đại học Sư phạm Hoa Đông, Trung Quốc năm
2009. Trong công trình này, tác giả đã mô tả rất chi tiết bối cảnh lịch sử, quá
trình hình thành, đặc trưng nội dung, ý nghĩa cũng như những hạn chế của
trào lưu Văn học vết thương. Luận án được cấu trúc gồm bốn chương, đã nêu
lên mối quan hệ của “phong trào giải phóng tư tưởng” của Văn học vết
thương và “phong trào thơ ca Thiên An Môn”, xem xét Văn học vết thương
với tư cách một hình thái ý thức của lịch sử trần thuật mang tính hiện đại, xuất
hiện mối quan hệ phức tạp giữa văn học và chính trị. Đồng thời thông qua lịch
sử ngữ cảnh mà tái hiện quá trình hình thành khái niệm Văn học vết thương,
thông qua một số tác phẩm kinh điển để nghiên cứu trào lưu này. Luận án so
sánh trào lưu Văn học vết thương với các trào lưu khác để từ đó nhìn nhận
tiến trình của văn học Trung Quốc hiện đại. Từ đó đi tới kết luận quá trình
hình thành, phát triển, suy thoái của trào lưu Văn học vết thương cũng chính
là quá trình chữa lành vết thương do “cách mạng văn hóa” để lại với văn học
và lịch sử tư tưởng Trung Quốc.

4



Bên cạnh đó cũng có những công trình nghiên cứu tiếp cận trào lưu
Văn học vết thương ở những khía cạnh khác nhau, như luận án “伤痕” 与“反

思”文学中的创伤叙事研究 (Nghiên cứu tự sự vết thương trong văn học “vết
thương” và văn học “phản tư”), tác giả Lý Mẫn, bảo vệ tại Đại học Sư phạm
Sơn Đông, năm 2007, đi theo hướng nghiên cứu là lý giải trào lưu Văn học
vết thương và phản tư từ góc độ hoàn cảnh lịch sử, yếu tố, loại hình tự sự vết
thương. Luận án gồm bốn chương, trong đó chương một trình bày khởi nguồn
và phát triển của tự sự vết thương, khảo cứu tự sự vết thương qua lịch sử Văn
học vết thương và Văn học phản tư. Ở chương hai tác giả nghiên cứu các yếu
tố của tự sự vết thương trên văn bản như nghiên cứu về thời gian, nhân vật,
cách sắp xếp tình tiết truyện. Trong chương ba, luận án chia tự sự vết thương
thành ba loại: loại chính trị, loại luân lý truyền kỳ và loại kinh nghiệm cá
nhân. Ở chương bốn nghiên cứu những góc khuất trong xã hội mà tự sự vết
thương hướng tới. Để từ đó đưa tới kết luận rằng tự sự vết thương trong Văn
học vết thương và Văn học phản tư chủ yếu là “vết thương chính trị”.
Còn luận văn thạc sĩ 伤痕文学叙事模式分析 (Phân tích các mô thức
tự sự của Văn học vết thương) Vu Diễm Hoa, bảo vệ tại Đại học Cát Lâm,
năm 2009, thông qua việc phân tích các mô hình tự sự của trào lưu Văn học
vết thương nhằm giới thiệu hoàn cảnh lịch sử ra đời trào lưu này. Đồng thời
luận văn nghiên cứu mối quan hệ giữa các tác phẩm trong trào lưu Văn học
vết thương để từ đó thấy được vai trò của trào lưu này trong tiến trình phát
triển của văn học Trung Quốc.
Qua đó có thể thấy, Văn học vết thương đã nhận được nhiều sự quan
tâm của giới nghiên cứu Trung Quốc, trào lưu này được nghiên cứu, xem xét
từ nhiều góc độ khác nhau. Bên cạnh đó, trong các công trình như giáo trình
Giản sử văn học thời kỳ mới và luận án Nghiên cứu tự sự vết thương trong
5



văn học “vết thương” và văn học “phản tư” đều đề cập tới Ba Kim và Tùy
tưởng lục như những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nhất của trào lưu Văn học vết
thương, là tiếng nói đầu tiên về sự tự sám hối của cá nhân trước vận mệnh của
dân tộc, đất nước.
Nhưng ở Việt Nam, đây dường như vẫn còn là mảnh đất khá mới mẻ.
Trong cuốn Tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa, PGS.TS Lê Huy
Tiêu đã giới thiệu về mặt nội dung có thể chia các tiểu thuyết Văn học vết
thương thành bốn loại: “Vạch trần tội ác của “bọn bốn tên” và phơi bày nỗi
bất hạnh do mười năm động loạn gây nên” [30; tr. 69]; “Đồng tình thương xót
những cảnh ngộ của nhân dân và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ”
[30; tr. 70]; “Thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân chống lại
“bè lũ bốn tên” và phe phản động” [30; tr. 70]; “Vừa viết về cảnh “động loạn
mười năm”, vừa nêu ra những vấn đề khiến mọi người phải suy ngẫm” [30; tr.
71]. Còn về mặt phương pháp sáng tác, theo tác giả, “tiểu thuyết dòng Văn
học vết thương đã khôi phục lại truyền thống hiện thực chủ nghĩa” [30; tr. 72].
Tuy nhiên, về mặt nghệ thuật của các tác phẩm thuộc trào lưu Văn học vết
thương “còn thô thiển, quá lộ liễu, cá biệt có những tác phẩm chỉ là những
triển lãm những hành vi tội ác mà thôi” [30; tr. 72].
Trong luận văn Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương”
trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới, tác giả Lê Văn Hiệp, bảo vệ tại Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 2012, tác giả đã dùng Văn học vết
thương Trung Quốc như một thế so sánh để nhằm làm rõ hơn bộ phận văn học
“vết thương” ở Việt Nam. Trong luận văn này, theo tác giả “tiêu chí quan
trọng và gần như duy nhất tạo nên Văn học Vết thương đó là sự phản ánh và
tố cáo những bi kịch của con người trong Cách mạng văn hóa. Vượt ra khỏi
tiêu chí này, chẳng hạn nếu như tác giả cố gắng lý giải nguyên nhân của
những bi kịch mà người ta phải chịu đựng trong Cách mạng văn hóa, thì


6


những tác phẩm ấy lại được xếp vào trào lưu Văn học Phản tư (suy nghĩ lại,
đặt lại vấn đề), trào lưu văn học tồn tại gần như song song với Văn học Vết
thương.” [13; tr. 30].
Có thể thấy rằng, Văn học vết thương Trung Quốc mới được tiếp cận
một cách khá sơ lược ở Việt Nam, đồng thời cách hiểu về trào lưu này cũng
chưa thực đầy đủ khi chỉ chú trọng và cho rằng đặc trưng duy nhất của Văn
học vết thương là vạch trần tội ác của “cách mạng văn hóa”. Trong luận văn
này, mục tiêu của chúng tôi là trình bày về hoàn cảnh ra đời, đặc trưng tiêu
biểu, giới nghiên cứu Trung Quốc đối với Văn học vết thương và ý nghĩa lịch
sử của trào lưu này. Để từ đó có cái nhìn đối sánh với những nghiên cứu, cách
hiểu về trào lưu Văn học Trung Quốc này tại Việt Nam có những sai khác,
khuyết thiếu gì.
Ở Việt Nam, Ba Kim được biết đến hầu hết qua một số bài báo nhỏ,
hoặc những bài giới thiệu ngắn về ông trên các tác phẩm đã được dịch của Ba
Kim. Trong đó Ba Kim được giới thiệu với tư cách một nhà văn lớn, bậc thầy
của văn học Trung Quốc hiện đại, khái lược cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng
chính trong các sáng tác của Ba Kim. Các tác phẩm của Ba Kim đã được dịch
ở Việt Nam có: Gia đình, Mùa xuân, Trời lạnh về khuya và Tùy tưởng lục.
Trong đó tác phẩm Tùy tưởng lục được dịch giả Trương Chính, Ông
Văn Tùng giới thiệu ở Việt Nam năm 1998. Trong nguyên tác Tùy tưởng lục
gồm năm tập, tập đầu xuất bản năm 1978, tập cuối xuất bản năm 1986. Tập
đầu không có tên gọi riêng mà gọi là Tùy tưởng lục tập một, tập hai đề là Tìm
tòi, tập ba đề là Lời nói thật, tập bốn là Nằm bệnh, tập cuối cùng là Vô đề.
Trong đó, dịch giả Trương Chính, Ông Văn Tùng chọn hai bài ở tập Tùy
Tưởng lục tập một, hai mươi sáu bài ở tập Tìm tòi, mười lăm bài ở tập Lời nói
thật, mười một bài ở tập Nằm bệnh, năm bài trong tập Vô đề để dịch thành
một tập Tùy tưởng lục bằng tiếng Việt.


7


Tùy tưởng lục được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất
của Văn học vết thương, chính vì thế chúng tôi chọn tác phẩm này để phân
tích, làm rõ những đặc trưng của trào lưu Văn học vết thương trong đó. Đồng
thời, bản dịch tiếng Việt của Tùy tưởng lục đã được cấu trúc lại, chúng tôi sẽ
khảo sát cấu trúc bản tiếng Trung, cấu trúc bản dịch, để từ đó xem xét trên cả
phương diện mục đích cũng như nội dung, ý nghĩa của tác phẩm có còn giữ
nguyên qua quá trình chuyển ngữ và tái cấu trúc hay không.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ thực trạng nghiên cứu vấn đề đã trình bày ở trên, mục tiêu chúng tôi
đặt ra cho luận văn của mình cụ thể là:
Khái quát tình hình nghiên cứu Văn học vết thương ở Trung Quốc và
Việt Nam, xác định định nghĩa, những biểu hiện cụ thể của Văn học vết
thương ý nghĩa lịch sử của trào lưu này, một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của
trào lưu Văn học vết thương đã được dịch ở Việt Nam. Đồng thời chỉ ra được
những sự khác biệt trong cách hiểu về Văn học vết thương trong giới nghiên
cứu ở Trung Quốc và ở Việt Nam.
Những biểu hiện cụ thể của trào lưu Văn học vết thương qua tác phẩm
Tùy tưởng lục của Ba Kim. Trong quá trình dịch thuật hai dịch giả đã tái cấu
trúc lại tác phẩm, vậy sự tái cấu trúc văn bản liệu có thể đảm bảo được tinh
thần “vết thương” trong tác phẩm hay không?
3.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở của việc xác định đề tài, phân tích lịch sử nghiên cứu và
nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng chính mà luận văn sẽ tiến hành khảo sát là
chỉ ra những đặc trưng của Văn học vết thương trong cuốn Tùy tưởng lục của
nhà văn Ba Kim, bên cạnh đó khảo sát tình hình dịch thuật ở Việt Nam, đặt

8


trọng tâm vào quan sát sự tái cấu trúc về hình thức tác phẩm trong bản dịch
tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu là tác phẩm Tùy tưởng lục do Trương Chính - Ông
Văn Tùng dịch nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998, trên cơ sở
so sánh, đối chiếu với nguyên bản tiếng Trung 随想录 作家出版社

.

Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ khảo sát các tác phẩm tiêu biểu của trào lưu Văn
học vết thương đã được dịch ở Việt Nam, cũng như các tác phẩm khác của
nhà văn Ba Kim để so sánh, đối chiếu, nhằm làm nổi bật vấn đề cần nghiên
cứu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sẽ ứng dụng lý thuyết về dịch
thuật, sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp hệ thống,
phương pháp so sánh, phương pháp văn học sử.
Ngoài ra chúng tôi cũng sử dụng các thao tác bổ trợ như thao tác thống
kê, phân tích, tổng hợp…
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
của chúng tôi sẽ được triển khai theo ba chương như sau:
Chương 1: Văn học vết thương - các nghiên cứu ở Trung Quốc và tiếp
nhận ở Việt Nam
Chương 2: Đặc trưng Văn học vết thương trong Tùy tưởng lục của Ba
Kim
Chương 3: Dịch thuật tác phẩm Tùy tưởng lục ở Việt Nam


9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Ba Kim (1993), Mùa xuân, Phan Tú Nga - Nguyễn Tấn Kính dịch,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ba Kim (1998), Tùy tưởng lục, Trương Chính - Ông Văn Tùng dịch,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Ba Kim (2004), Trời lạnh về khuya, Phạm Tú Châu dịch, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
5. Phạm Tú Châu (2004), “Ba Kim - núi Thái Sơn và sao Bắc Đẩu của
văn học Trung Quốc”, Văn học nước ngoài số 2, tr. 5-11.
6. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
7. Đường Thao (chủ biên) (1999), Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc,
Lê Huy Tiêu (chủ biên dịch và hiệu đính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Hiền, “Vài nét truyện ngắn Trung Quốc đầu thế kỷ mới”,
ngày 28/05/2016.
10. Nguyễn Thu Hiền (2015), “Từ văn học tiên phong đến điện ảnh vết
thương: Trường hợp chuyển thể phim Sống”, Tạp chí Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội, tập 1 (số 2), tr. 161-173.

10



11. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
12. Hồ Sĩ Hiệp, “Mừng nhà văn Ba Kim đại thọ 100 tuổi”,
ngày 04/02/2009.
13. Lê Văn Hiệp (2012), Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết
thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
14. Lý Huy (2004), “Ba Kim - Sinh và mộng”, Văn học nước ngoài số 2,
tr. 132-139.
15. Hoàng Hường, “Văn học vết thương cần được rộng đường hơn”,
ngày 09/01/2010.
16. Gustave Le Bon (2016), Tâm lý học đám đông cùng Tâm lý đám đông
và phân tích cái tôi của S.Freud, Nguyễn Xuân Khánh dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
17. Phan Trọng Luận (2014), Phương pháp luận giải mã văn bản văn học,
Nxb Sư phạm, Hà Nội.
18. Đào Văn Lưu - Nguyễn Thị Hoài Thanh (tuyển chọn và dịch) (2003),
Truyện ngắn hiện đại Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
19. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
20. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại
học Sư phạm , Hà Nội.
21. Jeremy Munday (2009), Nhập môn nghiên cứu dịch thuật lý thuyết và
ứng dụng, Trịnh Lữ dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội.

11


22. Mã Thiên Tân (chủ biên) (1991), Từ điển văn học Trung Quốc, Nxb

Nhân dân Thiên Tân, Thiên Tân.
23. Tim

Nguyễn,

“Những

mảng

hồi

ức

sáng

/>


tối”,
ngày

26/04/2014.
24. Sái Ích Hoài, “Vì sao văn học đương đại Trung Quốc không có tác
phẩm sám hối?”, Nguyễn Hải
Hoành dịch ngày 21/04/2016.
25. Trần Đình Sử (1996), “Thơ Cố Thành”, Văn học nước ngoài số 5, tr.
189-197.
26. Trần Đình Sử, “Hệ hình phê bình văn học Trung Quốc - Từ chính trị
sang


mĩ,

thẩm

học

thuật”,

/>e&id=13456%3Athi-s-vn-hc-h-hinh-phe-binh-vn-hc-trung-quc-t-chinhtr-sang-thm-m-hc-thut-gs-trn-inh-s&catid=4152%3Athi-s-vnhc&lang=zh&site=0, ngày 06/03/2013.
27. Lưu Khánh Thơ (2005), Văn học trong nhà trường tác giả và tác
phẩm, Nxb Sư phạm, Hà Nội.
28. Đỗ Lai Thúy (2011), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
29. Thu Thủy, “Nhà văn Ba Kim - Danh nhân văn hóa Trung Quốc”,
ngày 22/10/2005.
30. Lê Huy Tiêu (2011), Tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12


31. Hoàng

Phong

Tuấn,

“Những

nỗi


đau

thức

tỉnh”,

/>
binh/hoang-phong-tuan-nhung-noi-dau-thuc-tinh.html,
25/08/2011.
Tài liệu tiếng nƣớc ngoài
巴金(
程乔娜(

),随想录,作家出版社,北京。
),《当代文艺思潮》与“八十年代文学”,西北师

范大学,西北。
洪子诚
李敏

中国当代文学史,北京大学出版社,北京。
“伤痕” 与“反思”文学中的创伤叙事研究,山东师范大

学,山东。
,中国现代文学三十年,北京大

钱理群 – 温儒敏 – 吴福辉
学出版社,北京。
王琼


,作为文艺思潮的伤痕文学(



年),华

东师范大学,上海。
叶穉英

“伤痕文学”和“反思文学”浅探 , 大陆当代文学扫

描,东大图书股份有限公司,北京。
于艳华

,伤痕文学叙事模式分析,吉林大学,吉林。

陈思和 – 李辉(

),巴金论稿,人民文学出版社,北京。

13


陈思和(主编)(

),新时期文学简史,广西师范大学出版

社,桂林,广西。
朱寨主编


中国当代文学思潮史,人民文学出版社 北京。

14



×