Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

ĐÀO CAM MỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.22 KB, 4 trang )

Tư liệu
Thứ Năm, 07/10/2010 17:26:35 GMT+7
Người có công đầu suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi
07-10-2010
Trong lịch sử dân tộc, xứ Thanh có nhiều người con ưu tú có công
lao to lớn góp phần cho sự nghiệp phát triển vững mạnh của đất
nước. Một trong số đó là Thái sư Á vương Đào Cam Mộc, người có
công đầu suy tôn Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý
kéo dài 215 năm (1010 – 1225).
Đào Cam Mộc quê ở huyện Yên Định, Thanh Hóa. Quê cha ở làng
Tràng Lang, Định Tiến, quê mẹ làng Nam Trịnh, Yên Trung. Hai làng
quê đã sinh ra một người con ưu tú làm rạng danh cho quê hương,
xứ sở là Đào Cam Mộc, chính vì vậy từ bao đời nay dân hai làng
càng tự hào bao nhiêu lại càng đoàn kết, gắn bó bấy nhiêu, như
nhân dân trong vùng xưa nay nói:
Tràng Lang – Nam Trịnh
Nghĩa đá vàng từ thuở tiền Lê
Về sự ra đời của Đào Cam Mộc, người trong vùng vẫn thường hay
kể: Một buổi sáng bà mẹ ông ra sông Mã gánh nước thấy một quả
bầu trôi quẩn quanh chỗ bà lấy nước, mấy lần bà đẩy ra xa, nhưng
quả bầu lạ cứ quẩn quanh mãi bên chân, cuối cùng bà gánh nước và
mang theo quả bầu ấy về nhà. Không bao lâu sau bà mang thai rồi
sinh nở.

Đền thờ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc tại làng Nam Thạch,
Yên Trung, Thanh Hóa

Khi ông sinh ra, cùng lúc ấy trong nhà có ánh hào quang. Ít lâu sau
chồng mất, bà đưa con về quê ngoại Nam Trịnh nuôi con khôn lớn.
Ngay từ bé, Đào Cam Mộc đã có sức vóc cường tráng, to khỏe hơn
người. Có lần thuyền vua Lê Đại Hành tuần du trên sông Mã mắc


cạn, quân lính dùng mọi cách mà thuyền vẫn không nhúc nhích.
Thấy vậy ông vội lội xuống sông, dùng mưu và sức khỏe của mình
đẩy thuyền đi băng băng. Vua Lê cảm phục chàng trai thông minh, có
sực lực hơn người bèn vời vào kinh đô và sau này làm quan dưới
thời vua Lê Long Đĩnh (1006-1009), được phong chức Chi hậu.
Về công lao của Thái sư Á vương Đào Cam Mộc, Đại Việt sử ký toàn
thư cho biết khá rõ:
Sau khi vua Lê Đại Hành mất, các vua về sau ăn chơi xa xỉ, không
màng gì tới triều chính và muôn dân trăm họ, trong nước người dân
ca thán, bên ngoài giặc Tống đang chờ thời cơ mang quân sang xâm
lược nước ta.
Trước thế giặc lăm le ngoài bờ cõi, lòng người dân phân tâm, lúc này
dân gian đồn rằng trên cây cổ thụ bị sét đánh ở châu Cổ Pháp hiện
lên dòng chữ: “Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Cây hòa
đao rụng. Mười tám hạt thành. Cành đông xuống đất. Cây khác lại
sinh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu hình. Khoảng sáu bảy năm.
Thiên hạ thái bình”. Nội dung những dòng chữ này ý nói vua non
yếu, bầy tôi cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, trải sáu hoặc bẩy
năm thì thiên hạ thái bình.
Đến khi Long Đĩnh băng hà, vua nối ngôi còn bé, Lý Công Uẩn cùng
với Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500
quân tùy long (quân hầu của vua) vào làm túc vệ. Chi hậu Đào Cam
Mộc dò biết Lý Công Uẩn có ý muốn nhận việc truyền ngôi, nhân lúc
vắng người hỏi để gợi xem:“Mới rồi chúa thượng ngu tối bạo ngược,
làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con
nối thơ ấu không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần
linh không ưa, dân chúng nhao nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân
vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa
xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh Lê, trên thuận
lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ khư khư giữ tiểu tiết làm gì”.

Lý Công Uẩn thận trọng, ngại Đào Cam Mộc có bụng khác, giả giận
mắng rằng: “Sao ông nói thế, tôi phải bắt ông nộp quan”. Ông thong
thả nói với Lý Công Uẩn: “Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho
nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi, thì tôi không
phải là người sợ chết”. Lúc đó Lý Công Uẩn mới thổ lộ: “Tôi đâu nỡ
cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi”.
Hôm khác, ông lại nói với Lý Công Uẩn: “Người trong nước ai cũng
nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa đã
hiện ra rồi không thể che dấu được nữa. Chuyển họa thành phúc chỉ
trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi
ngại gì nữa”. Lý Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu ý ông, không khác gì ý
của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào?”. Đào
Cam Mộc bèn trả lời: “Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng
người chịu theo. Hiện nay trăm họ mệt mỏi kiệt quệ, dân không chịu
nổi, Thân vệ nên lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau mà
kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được”.
Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với
khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, đều họp
cả ở trong triều bàn rằng: “Hiện nay dân chúng ức triệu khác lòng,
trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo hành
ngược không muốn về…có lòng suy tôn quan Thân vệ… nhân lúc
này cùng nhau sách lập Thân vệ làm Thiên tử”.
Thế rồi cùng nhau dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, lập làm Thiên tử,
lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều
hô “vạn tuế” vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy niên
hiệu Thuận Thiên, năm 1010 mở đầu vương triều Lý.
Từ khi lên ngôi, Lý Công Uẩn vừa cảm phục ghi ơn, vừa tin tưởng
giao cho Đào Cam Mộc những công việc quan trọng trong triều
chính, phong cho Đào Cam Mộc là Nghĩa Tín hầu và gả con gái
trưởng là công chúa An Quốc cho ông.

Năm Ất Mão (1015), Thuận Thiên thứ 6, Đào Cam Mộc trút hơi thở
cuối cùng, tôn vinh và ghi công của ông, triều đình nhà Lý đã truy
phong Đào Cam Mộc là Thái sư Á vương.
Hiện nay, tại huyện Yên Định quê hương thái sư Á vương Đào Cam
Mộc có 3 di tích thờ phụng đệ nhất công thần tôn phù Lý Công Uẩn,
vị vua khai sinh triều Lý. Đó là đền thờ ở làng Nam Thạch, Yên Trung
quê ngoại và đền thờ ở làng Bùi Hạ, xã Yên Phú.
Ở Tràng Lang, Định Tiến, theo các cụ cao niên cho biết, khu thờ ngài
ở đây được bố trí theo kiểu “tiền thần, hậu phật”, đền gắn với chùa,
vì vậy, di tích này có tên gọi là “Hùng Phúc cổ tự”, thần được thờ
cùng với Phật. Ngôi chùa được xây dựng vào năm Kỷ Dậu (1069),
đời vua Lý Thánh Tông để nhớ ơn vị khai quốc công thần này. Ở bên
tả tòa tiền điện, tượng Thái sư Á vương Đào Cam Mộc đầu đội mũ,
mặt chữ điền, mắt sáng, môi son, râu dài, hai tay cầm cân đai, chân
đi hài, mình khoác hoàng bào…toát lên vẻ uy nghi, hùng dũng. Di
tích này hiện còn giữ được tấm bia cổ, dựng vào năm Bính Ngọ
(1606).
Đền thờ ở làng Nam Thạch, Yên Trung quê ngoại trải thời gian cũng
đã có đổ nát từ lâu, trong đền có bức đại tự ghi ơn công đức của
ngài: “Sinh vi Lý tướng, tử vi Lê thần”, nghĩa là: Sống là tướng Lý,
chết làm thần nhà Lê.
Hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôn vinh vương triều Lý
trong lịch sử và những người có công với dân với nước, mới đây đền
thờ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc được đầu tư nhiều tỷ đồng đã và
đang tiến hành trùng tu, tôn tạo với nhiều hạng mục. Thiết tưởng Hà
Nội cũng nên có một con đường mang tên Thái sư Đào Cam Mộc.

Theo Tạp chí xưa và nay, bee

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×