BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÙI THỊ LAN HƯƠNG
TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI
VỚI THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX
(QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2020
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÙI THỊ LAN HƯƠNG
TÁC GIẢ NHO HỌC - TÂN HỌC VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP ĐỐI
VỚI THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT QUỐC NGỮ ĐẦU THẾ KỶ XX
(QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Vũ Thanh
2. PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS. TS. Vũ Thanh, PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực và chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào trước đó. Các trích dẫn ý kiến của các nhà khoa học và
nguồn tài liệu được thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định chung. Nếu vi
phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận án
Bùi Thị Lan Hương
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho tôi gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo ở Khoa Ngữ
văn, Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo Trường Đại
học Sư Phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, tận tình giảng dạy, động
viên, nhiệt tình giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai nhà khoa học hướng
dẫn là PGS. TS. Vũ Thanh và PGS. TS. Trần Thị Hoa Lê. Trong suốt quá trình
học tập và thực hiện luận án, tôi đã luôn luôn nhận được sự khích lệ, động
viên tinh thần kịp thời để tôi có thể có được thành quả như ngày hôm nay.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người thân trong gia đình và bạn bè đã động
viên tôi, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2020
Tác giả luận án
Bùi Thị Lan Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX là một trong những giai đoạn đặc biệt của
lịch sử văn học dân tộc, lâu nay vẫn được các nhà khoa học định danh là giai đoạn
giao thời, chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, hai phạm trù từ văn học trung đại sang văn
học hiện đại, từ những ảnh hưởng mang tính khu vực sang những mối liên hệ trực
tiếp với văn học thế giới.
Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt đó, nền văn học Việt Nam đã xuất hiện một vài
loại hình tác giả mới, trong đó có một kiểu loại tác giả là sản phẩm của thời điểm giao
thời giữa cái cũ truyền thống và cái mới, ảnh hưởng phương Tây, đó là các tác giả Nho
học - Tân học. Hiểu một cách đơn giản nhất, đó là những tác giả có sự kết hợp hai yếu tố
trong cấu trúc, trong ý thức hệ tư tưởng: Nho giáo và học phong của thời đại mới. Họ có
thể là những người đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học, hoặc là những người đã nhiều năm
theo đòi chữ nghĩa thánh hiền và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền học vấn này. Song, do
những biến thiên của thời cuộc, trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng mới của phương Tây,
những nhà nho này đã theo học tiếng Pháp, tiếp thu văn hóa Pháp và chuyển sang viết
văn bằng chữ Quốc ngữ. Đội ngũ tác giả Nho học - Tân học là một mẫu hình tác giả nhà
nho kiểu mới và họ có những đóng góp không nhỏ cho quá trình hình thành và phát triển
của nền văn học Quốc ngữ giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Tác giả Nho học - Tân học Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho
sự hình thành và phát triển của văn học đương thời, đặc biệt cho sự duy trì và tiếp
nối những thành tựu và ảnh hưởng của văn học quá khứ với nền văn học mới, trong
một bối cảnh khi mà đa số người sáng tác đã quay lưng hoặc tìm cách xóa bỏ dấu
vết của nền “cựu học”. Loại hình tác giả này, từ trước tới nay mới được các nhà
khoa học tiến hành nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ là những nhà văn riêng lẻ, độc
lập, hoặc tìm hiểu họ trên những phương diện khác mà chưa phải với tư cách là một
loại hình tác giả. Đôi khi những đặc điểm mang tính loại hình của họ như sự duy trì
trạng thái tiếp nối truyền thống trên các phương diện như đề tài, chủ đề, cảm hứng
tư tưởng hay những thủ pháp nghệ thuật, ngôn từ, cách xây dựng hình tượng nghệ
thuật lại chỉ được coi là những hạn chế rơi rớt từ quá khứ. Những thành tựu của loại
hình tác giả Nho học - Tân học ở nhiều trường hợp lại bộc lộ ngay trong sự thể hiện
6
những vấn đề tưởng như đã cũ so với thời đại. Chính những thành tựu to lớn, cũng
như những vấn đề còn để ngỏ của nghiên cứu văn học đầu thế kỷ XX đã gợi ý cho
chúng tôi triển khai đề tài về các tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp (cũng
như hạn chế) của họ cho sự hình thành và phát triển của văn học giai đoạn giao thời.
1.2. Lý do thực tiễn
Các tác giả trên, cũng như văn học đầu thế kỷ XX là đối tượng nghiên cứu và
giảng dạy của chúng tôi bấy lâu trong nhà trường đại học. Riêng sáng tác của Hồ
Biểu Chánh, Tản Đà và Ngô Tất Tố đã từ lâu được đưa vào chương trình ngữ văn từ
bậc trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông. Do vậy, đây là một đề tài rất thiết
thực, giúp cho chúng tôi cơ hội được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng văn
học quá khứ, nhất là văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Với những lí do khoa học và lý do thực tiễn trên đây, chúng tôi chọn đề tài
“Tác giả Nho học - Tân học và những đóng góp đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ
đầu thế kỷ XX (qua một số tác giả tiêu biểu)” làm nội dung nghiên cứu trong luận án
của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng luận án lựa chọn nghiên cứu là loại hình tác giả Nho học – Tân
học và đóng góp của họ đối với thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ
XX thông qua năm tác giả Nho học - Tân học tiêu biểu là: 1) Nguyễn Chánh Sắt
(1869-1947); 2) Hồ Biểu Chánh (1884-1958); 3) Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (18891939); 4) Nguyễn Trọng Thuật (1883-1950) và 5) Ngô Tất Tố (1894-1954). Ngoài
ra, luận án còn quan tâm đến các nhà văn đầu thế kỷ XX khác cùng loại hình hoặc
có một số điểm tương đồng như Nguyễn Bá Học (1857-1921), Nguyễn Hữu Tiến
(1874-1941), Nguyễn Đôn Phục (1878-1954), Lê Hoằng Mưu (1879-1941) hay Bửu
Đình (1898-1931)…
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trên thực tế, số lượng các tác giả Nho học - Tân học trong quy loại của chúng
tôi khá nhiều song do khuôn khổ của luận án chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu về
năm tác giả đã được chọn. Thứ tự xuất hiện theo thời gian của năm tác giả, về cơ bản
cũng thể hiện được phần nào bước tiến, bước chuyển tiếp trên một số phương diện của
loại hình tác giả này cả về quan niệm nghệ thuật và những thành tựu trong sáng tác.
7
- Về hệ thống tác phẩm được khảo sát: chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát tất cả
các cuốn tiểu thuyết của năm tác giả Nho học - Tân học trên đây. Các sáng tác ở các
thể loại khác của họ, cũng như sáng tác của các nhà văn khác đầu thế kỷ XX sẽ là
nguồn tư liệu để chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu, phân tích khi cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu loại hình tác giả Nho học -Tân học và loại hình tác phẩm (tiểu
thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này, chúng tôi hướng đến hai mục đích chính sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học Việt
Nam đầu thế kỷ XX; - Nghiên cứu những đóng góp của loại hình tác giả Nho học –
Tân học cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiếp cận thể
loại trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập trung tìm hiểu loại hình tác giả Nho học - Tân học giai đoạn giao thời
đầu thế kỷ XX và các sáng tác của họ ở thể loại tiểu thuyết, luận án đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
- Lý giải nguyên nhân, điều kiện lịch sử - văn hóa, xã hội và văn học ở giai
đoạn giao thời giữa hai thế kỷ đã góp phần hình thành nên loại hình tác giả Nho học
- Tân học và những đóng góp của họ cho sự phát triển văn học dân tộc. Đây sẽ là
bối cảnh có ý nghĩa quan trọng, góp phần hình thành một kiểu loại nhà văn mới
mang đặc trưng của giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, hai phạm trù văn học.
Từ đó, luận án bước đầu nhận diện một số đặc điểm mang tính loại hình quy định
đến sự lựa chọn cuộc đời, sự nghiệp, cũng như con đường mà các nhà văn đến với
sáng tác tiểu thuyết Quốc ngữ; những đổi thay trong quan niệm văn học, quan niệm
thẩm mỹ của họ cũng cho thấy sự khác biệt giữa tác giả Nho học - Tân học so với
các kiểu loại tác giả khác đương thời.
- Nhận diện các sáng tác tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ của tác giả Nho học
- Tân học trên một số phương diện nội dung và nghệ thuật cơ bản: hệ thống đề tài - chủ
đề, kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật, giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
8
Để thực hiện nội dung nghiên cứu này, chúng tôi vận dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
4.1. Phương pháp loại hình học và nghiên cứu văn học theo thể loại
Loại hình học văn học hướng tới việc xác định và chỉ ra những đặc điểm chung
mang tính loại hình tác giả và thể loại tác phẩm văn học. Tuy nhiên, để tránh sơ lược
hóa và khiên cưỡng vấn đề, trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi luôn
dành sự quan tâm thỏa đáng đến tính đặc thù lịch sử - xã hội, tư tưởng - văn hóa cũng
như sự khác biệt trong cá tính sáng tạo của từng tác giả thể loại tiểu thuyết quốc ngữ
đầu thế kỷ XX.Bên cạnh đó,chúng tôi cũng luôn tuân thủ những định hướng mang tính
phương pháp của việc nghiên cứu thể loại để có những nhìn nhận về các vấn đề của tác
giả và tác phẩm tiểu thuyết quốc ngữ trong đặc trưng, nguyên tắc tổ chức của thể loại,
có sự giao thoa, tiếp nhận kinh nghiệm nghệ thuật của các thể loại khác, nhất là những
giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển.
4.2. Phương pháp tiếp cận tự sự học
Thể loại tiểu thuyết vốn là một trong những thể loại mang đặc trưng cho loại
hình tự sự. Vì thế, đặt vấn đề nghiên cứu loại hình tác giả Nho học - Tân học và
những đóng góp của họ đối với sự vận động và phát triển của tiểu thuyết Quốc ngữ
Việt Nam đầu thế kỷ XX nên phương pháp tiếp cận tự sự học là một trong những
phương pháp quan trọng được vận dụng trong luận án. Phương pháp tiếp cận tự sự
học giúp cho chúng tôi tiến hành nghiên cứu những đặc điểm của thể loại tiểu thuyết
Quốc ngữ - một phương thức tự sự cỡ lớn đầu thế kỷ XX trên các nội dung như kết
cấu cốt truyện, xây dựng nhân vật cũng như giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật.
4.3. Phương pháp hệ thống
Ở cấp độ vĩ mô, đặt trong cái nhìn toàn diện của nền văn học dân tộc, phương
pháp tiếp cận hệ thống giúp chúng tôi có cái nhìn ở hai chiều cạnh: một là nhìn nhận loại
hình tác giả Nho học - Tân học trong tương quan với các loại hình tác giả nhà nho khác
vốn đã được các nhà nghiên cứu lâu nay thừa nhận (như tác giả nhà nho hành đạo, tác
giả nhà nho ẩn dật hay tác giả nhà nho tài tử); hai là nhìn nhận loại hình tác giả và loại
hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của tác giả Nho học - Tân học như một hệ thống
mang tính nội tại. Trong hệ thống lớn, loại hình tác giả cũng như loại hình tiểu thuyết
Quốc ngữ sẽ mang những đặc điểm chung nhất định của lịch sử văn học dân tộc. Nhưng
9
cũng đồng thời, trong hệ thống nội tại đó, mỗi một tác giả Nho học - Tân học cũng như
mỗi một sáng tác của họ lại được nhìn nhận như những cá tính sáng tạo, những sinh
mệnh nghệ thuật riêng, đồng thời tham gia kiến tạo những điểm chung của hệ thống đó.
Giữa các tác giả Nho học - Tân học, cũng như giữa các tiểu thuyết Quốc ngữ của họ sẽ
cùng mang những đặc điểm chung của loại hình tác giả, tác phẩm song vẫn có những
điểm riêng ít nhiều độc đáo. Đây chính là điểm bổ sung cho tiếp cận từ lý thuyết cũng
như phương pháp loại hình sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở Chương 1 của luận án.
4.4. Phương pháp so sánh – đối chiếu
So sánh văn học có thể đồng thời vừa được hiểu là phương pháp, vừa được
hiểu là thao tác tiếp cận trong nghiên cứu văn học. Vì thế, so sánh văn học đã phát
huy hiệu quả đáng kể trong nghiên cứu của chúng tôi ở luận án này. Trong quá trình
triển khai các nội dung, khi cần thiết chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp so sánh văn
học để nhìn nhận tác giả Nho học - Tân học trong tương quan với loại hình nhà nho
khác; so sánh các tác giả Nho học - Tân học và so sánh các tiểu thuyết Quốc ngữ
của các tác giả Nho học - Tân học với nhau. Cũng đồng thời, trong một số trường
hợp khác, khi cần thiết, chúng tôi cũng tiến hành so sánh các tiểu thuyết Quốc ngữ
của cùng một tác giả Nho học - Tân học để thấy được quá trình vận động của phong
cách nghệ thuật ở mỗi tác giả. Phương pháp và thao tác so sánh cùng đồng thời sẽ
kết hợp với phương pháp và thao tác đối chiếu để từng bước nhận diện và luận giải
thỏa đáng đặc điểm loại hình tác giả Nho học – Tân học trong tương quan với các
loại hình tác giả khác; đặc điểm tiểu thuyết của họ với tiểu thuyết của các loại hình
tác giả khác cùng thời kỳ.
4.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Vận dụng phương pháp này cho phép chúng tôi nhìn nhận đối tượng nghiên cứu
trong mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa Việt Nam bối cảnh giai đoạn giao thời.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành được vận dụng để tiếp cận văn học từ góc nhìn
văn hóa. Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi thấy được những nền tảng hình thành và
quá trình vận động, phát triển của các tác giả Nho học - Tân học trong bối cảnh lịch
sử, xã hội và tư tưởng, văn hóa lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, những nội dung được phản
ánh trong thể loại tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học cũng đồng thời là sự
phản ánh sinh động đời sống văn hóa lúc bấy giờ. Vì thế, việc tiếp cận tiểu thuyết của
10
đội ngũ Nho học - Tân học từ góc nhìn liên ngành văn hóa – văn học sẽ giúp chúng
tôi đưa ra những luận giải tường rõ hơn về nội dung cũng như nghệ thuật tác phẩm.
Ngoài các phương pháp cơ bản trên, trong quá trình thực hiện đề tài này,
chúng tôi còn vận dụng kết hợp một số thao tác nghiên cứu khác như phân tích tổng hợp, thống kê - phân loại...
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Tìm hiểu đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học và những đóng
góp của họ cho sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỷ
XX, luận án sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối hệ thống
về loại hình tác giả và loại hình tác phẩm (tiểu thuyết Quốc ngữ) của các tác giả này
trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn học dân tộc nói chung.
5.2. Trên cơ sở giới thuyết khái niệm, luận án đã bước đầu làm sáng tỏ điều kiện
hình thành cũng như đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học trong mối tương
quan với các loại hình tác giả khác trước đó cũng như các loại hình tác giả khác cùng
thời gian xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
5.3. Luận án đã đi sâu khảo sát, mô tả và luận giải các đặc điểm chính về nội
dung và nghệ thuật tiểu thuyết Quốc ngữ Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hệ
thống đề tài - chủ đề, tổ chức kết cấu cốt truyện; xây dựng nhân vật; giọng điệu
nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật ở giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn
học dân tộc.
5.4. Ngoài ra, qua kết quả nghiên cứu, luận án cũng hi vọng cung cấp và ứng
dụng một hướng tiếp cận, đánh giá đối với một loại hình tác giả đặc biệt, bổ sung
kiến thức cho việc tham khảo và nghiên cứu, giảng dạy về một số tác giả, tác phẩm
của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận án được triển khai thành bốn chương như sau: - Chương 1: Cơ sở
lý thuyết và tổng quan vấn đề nghiên cứu (31trang, từ trang 7 đến trang 37); Chương 2: Điều kiện hình thành và đặc điểm loại hình tác giả Nho học - Tân học
giai đoạn đầu thế kỉ XX (33 trang, từ trang 38 đến trang 70); - Chương 3: Tác giả
Nho học - Tân học với tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX trên phương diện hệ
thống đề tài - chủ đề và tổ chức kết cấu cốt truyện (33 trang, từ trang 71 đến trang
103); - Chương 4: Tác giả Nho học - Tân học với tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ
11
XX trên phương diện xây dựng hệ thống nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ (47
trang, từ trang 104 đến trang 150).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong chương này, chúng thôi sẽ điểm qua một số cơ sở lý thuyết có liên quan
trực tiếp đến quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, bao gồm lý thuyết về loại hình học
văn học, lý thuyết tự sự và những công trình nghiên cứu đi trước có liên quan, làm cơ
sở cho việc đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo.
1.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.1. Lý thuyết loại hình học văn học
Trước khi có những giới thuyết khái quát về lý thuyết loại hình học văn học,
trên cơ sở tham bác ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra cách
hiểu về khái niệm loại hình và khái niệm loại hình tác giả như sau:
Chữ loại hình (tiếng Anh và tiếng Pháp: type) cũng có nghĩa là kiểu, loại.
Loại hình là tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào
đó, cùng có quan hệ cộng đồng về mặt giá trị.
Khái niệm loại hình tác giả dùng để chỉ tập hợp những tác giả văn học có một số
đặc điểm tương đồng về điều kiện hình thành, sự lựa chọn con đường lập nghiệp, sự hấp
thu nền học vấn và các học thuyết tư tưởng – chính trị hay đạo đức xã hội; hệ thống đề
tài - chủ đề trong sáng tác; hình tượng nghệ thuật, các vấn đề về thể loại và ngôn ngữ
trong sáng tác… Dù sự rạch ròi loại hình tác giả ở đây không phải lúc nào cũng rành
mạch như bản thân sự tồn tại vốn có của nó, song loại hình học vẫn có nhiệm vụ tối
thượng trong việc khu biệt hoá, thành tố hoá họ như những đối tượng nghiên cứu đặc thù
để từng bước nhận diện diện mạo, đặc điểm con người, văn chương cũng như vai trò của
họ trong lịch sử văn học dân tộc ở một mức độ tương đối có thể chấp nhận được.
Loại hình học (tiếng Anh: typology, tiếng Pháp: typologie) là khoa học nghiên
cứu về loại hình nói chung. Đây vừa là một lý thuyết vừa là một phương pháp trong
nghiên cứu văn học, vốn xuất phát từ rất sớm, ngay từ trong nền văn hóa cổ đại Hi
Lạp - La Mã với cách phân chia văn học của Aristot. Tuy nhiên, nhắc đến lý thuyết
loại hình học văn học, chúng ta phải kể đến thành tựu của các nhà nghiên cứu văn học
12
Nga trước đây. Tên tuổi của một số nhà nghiên cứu tiên phong có thể nhắc đến như V.
Propp, M.B. Khrapchenko hay B.L. Riptin… Ở Việt Nam, tư duy loại hình, phương
pháp loại hình ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu chú ý. Trước hết phải kể tới một
số công trình dịch thuật về vấn đề tư duy loại hình và phương pháp loại hình như: Cá
tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học [95] Những vấn đề lý luận và
phương pháp luận nghiên cứu văn học [135]; Hình thái học truyện cổ tích [290]; Cấu
trúc văn bản nghệ thuật [93], Thi pháp văn học Nga cổ [118]… Đây là những công
trình khá tiêu biểu của một số học giả, nhà nghiên cứu uy tín trên thế giới tiếp cận văn
học theo hướng loại hình và những công trình này khi được công bố bản tiếng Việt đã
trở thành những sách công cụ hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực chuyên
ngành. Nhiều vấn đề đặt ra trong đó đã được vận dụng linh hoạt và hữu ích khi soi
chiếu vào thực tiễn của nền văn học dân tộc.
Hướng đến việc phân chia, phân loại các sự vật, hiện tượng, các vấn đề của
văn học (trong đó có vấn đề về tác giả) để từ đó xác định vị trí, ý nghĩa, vai trò của nó
trong một hệ thống, trong cấu trúc tổng thể cũng như nhận dạng được diện mạo và
đặc điểm của cả một hệ thống chính là điểm nổi bật của lý thuyết loại hình học văn
học. Các nhà nghiên cứu, bằng nhãn quan tư duy này đã tìm cách “rạch ròi hóa” các
vấn đề, các hiện tượng của văn học dựa trên những tiêu chí, những cơ sở tương đối có
thể chấp nhận. Từ đây, các nhà nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến
một bộ phận không nhỏ tác giả, tác phẩm trong đời sống văn chương dân tộc thời
trung đại, cũng như thời cận hiện đại sau này.
Về vấn đề tác giả, loại hình học đã giúp các nhà nghiên cứu đề xuất những tiêu
chí xếp loại, xác định được đặc điểm của đội ngũ tác giả cũng như thời điểm hình
thành và đóng góp của họ cho lịch sử văn học dân tộc. Kể từ Trương Tửu với trường
hợp tác giả cụ thể là Nguyễn Công Trứ, việc ứng dụng lí thuyết loại hình học liên tục
được kế thừa và tỏ ra ưu việt trong nghiên cứu đội ngũ tác giả trong văn học trung
cận đại ở nước ta. Điều đó được thể hiện bằng hàng loạt công trình mang tính khái
quát của Trần Đình Hượu như: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930
[90], Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại [88]… Có thể nói, bằng phương
pháp loại hình, Trần Đình Hượu đã đề xuất một hướng nghiên cứu đầy tiềm năng cho
văn học trung cận đại. Ông đã chỉ ra tính quy luật của đội ngũ tác giả nhà nho và mối
13
quan hệ giữa loại hình tác giả nhà nho với văn chương Nho giáo thời trung cận đại.
Việc phân loại mẫu hình tác giả nhà nho đã tạo tiền đề cơ sở để tiến hành nghiên cứu
chuyên sâu và khu biệt được những nội dung tư tưởng cũng như đặc sắc nghệ thuật
của các mẫu hình nhà nho thời trung đại. Đó là văn học nhà nho (qua Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Đào Tấn, Nguyễn
Thông…); văn học nhà chí sĩ - kiểu nhà nho tiếp thu tư tưởng tư sản, tiên phong đi
làm cách mạng (qua Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, đặc biệt qua Phan Bội
Châu…); văn học nhà nho tài tử trong xã hội tư sản (qua Tản Đà); văn học giai đoạn
giao thời (qua sáng tác của nhiều kiểu nhà nho trong bối cảnh chuyển hướng từ văn
học Hán - Nôm sang văn học bằng chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX); văn học hiện
đại qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông nhìn từ góc độ
tính liên tục của lịch sử (qua trường hợp Tự lực văn đoàn)… Tiếp nối Trần Đình
Hượu là hàng loạt công trình nghiên cứu lấy lí thuyết loại hình làm cơ sở để triển khai
và tạo được dấu ấn trong trường phái lí thuyết loại hình ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất là
công trình Loại hình học tác giả văn học - Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam của
Trần Ngọc Vương [293]. Trong công trình này, ông đã phân loại mẫu hình nhà nho
trong văn học Việt Nam thời trung đại thành ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn
dật và nhà nho tài tử. Công trình đã mở ra tính ứng dụng trong việc nghiên cứu loại
hình tác giả cũng như những đặc trưng văn học của từng loại hình tác giả. Công trình
đã tạo bước ngoặt và cổ vũ cho việc ứng dụng lí thuyết loại hình vào nghiên cứu văn
học Việt Nam. Tiếp đó là hàng loạt những công trình nghiên cứu mang tính chuyên
sâu vào từng loại hình tác giả như Nguyễn Hữu Sơn với nghiên cứu về đội ngũ tác
giả Thiền sư trong Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh [189], Lê Văn Tấn nghiên
cứu về loại hình nhà nho ẩn dật và đóng góp của họ đối với sự phát triển của văn học
trung đại Việt Nam [216]...
Về loại hình học tác phẩm, đa số các công trình nghiên cứu về đội ngũ tác giả
cũng dành khá nhiều công phu trong việc nghiên cứu sáng tác của từng nhóm tác giả để
tìm ra những nét đặc trưng và có tính khu biệt trong sáng tác của họ. Ngoài ra, lí thuyết
loại hình còn được ứng dụng để nghiên cứu từng loại hình hay thể loại của văn học Việt
Nam như Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam: Những vấn đề văn xuôi tự sự của
Nguyễn Đăng Na [39], Thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn [235], Ngâm khúc: quá
trình hình thành, phát triển và đặc trưng thể loại của Ngô Văn Đức [55], Văn học trào
14
phúng Việt Nam thời trung đại của Trần Thị Hoa Lê [112], Loại hình văn học trung đại
Việt Nam của Biện Minh Điền [45]…
Những công trình trên đây giúp chúng tôi hiểu một cách thấu đáo hơn về lý
thuyết cũng như phương pháp loại hình trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là cách thức
lựa chọn đối tượng và vận dụng lý thuyết này trong những trường hợp cụ thể.Trên thực
tế, việc nghiên cứu lịch sử văn học không thể không chú ý đến vấn đề hệ thống các loại
hình, loại thể của văn học. Khi tư duy nghiên cứu hướng tới yêu cầu tổng hợp, phân
loại các hiện tượng văn học dựa trên những hệ tiêu chí khả dĩ có thể khái quát và thâu
tóm thành một “cộng đồng thẩm mỹ” nhất định, nói lên tư cách tồn tại của chúng, khi
ấy loại hình học văn học ra đời. Vận dụng lý thuyết loại hình học vào đề tài nghiên cứu
được chúng tôi cụ thể hóa qua những vấn đề sau:
- Về vấn đề tác giả: Loại hình học cho phép chúng tôi bước đầu nhận diện
đội ngũ tác giả Nho học - Tân học. Đây là những tác giả có những đặc điểm chung
ở sự tiếp nhận cả hai mô hình giáo dục là mô hình giáo dục theo kiểu Nho học và
mô hình giáo dục Tây học. Họ là những trí thức sinh ra trong bối cảnh giao thoa,
chuyển giao giữa hai thế kỉ, phải chứng kiến sự giao tranh giữa văn hóa truyền
thống với văn hóa phương Tây hiện đại;
- Về vấn đề tác phẩm: Vận dụng lý thuyết loại hình để nghiên cứu thể loại
tiểu thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX qua sáng tác của các tác giả này. Đây vốn là
một thể loại có quy mô phản ánh hiện thực tương đối rộng lớn trên cả hai phương
diện nội dung và nghệ thuật:
+ Ở phương diện thể hiện nội dung tư tưởng: lý thuyết loại hình học giúp
chúng tôi chỉ ra được sự tương đồng trong việc nhà văn thể hiện mối quan tâm đến hệ
thống các đề tài, chủ đề cũng như hệ thống hình tượng nghệ thuật trung tâm trong
sáng tác của tác giả Nho học - Tân học. Mặc dù có những điểm khác nhau mang cá
tính sáng tạo riêng nhưng về cơ bản, sự lặp lại mang tính phổ biến ở một số đề tài chủ đề và hình tượng nghệ thuật trung tâm cho thấy sự gặp gỡ của các tác giả về nhu
cầu phản ánh hiện thực cũng như những thông điệp nhân sinh khác mà những tác giả
Nho học - Tân học muốn gửi gắm tới người đọc.
+ Ở phương diện thể hiện một số đặc điểm nghệ thuật: lý thuyết loại hình
giúp chúng tôi tổng hợp và từ đó sẽ chỉ ra sự tương đồng về mô hình tổ chức kết cấu
cốt truyện, về giọng điệu nghệ thuật cũng như ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết
Quốc ngữ của các tác giả Nho học - Tân học.
15
Trong quá trình vận dụng lí thuyết, như các nhà nghiên cứu đi trước đã nhắc đến,
việc tuyệt đối hóa hay cực đoan ở bất kể chiều hướng nào đều sẽ dẫn đến những kết luận
không thỏa đáng, không phù hợp với thực tiễn của quá trình vận động, phát triển văn học
dân tộc. Vì thế, trong quá trình vận dụng lí thuyết loại hình, chúng tôi sẽ có sự kết hợp
với những lý thuyết khác nhằm lý giải các vấn đề về loại hình tác giả và loại hình tác
phẩm của tác giả Nho học - Tân học một cách xác đáng nhất. Trên thực tế, loại hình tác
giả Nho học - Tân học, thoạt nhìn có vẻ thuần nhất song sự khác biệt ở từng tác giả lại
khá rõ nét. Đó cũng chính là định hướng cho chúng tôi trong quá trình luận giải cần có
sự kết hợp giữa những phân tích đặc điểm chung và những khác biệt ở từng tác giả.
Như vậy, sự xuất hiện của hàng loạt công trình nghiên cứu lấy lí thuyết loại
hình làm nền tảng đã cho thấy việc tiếp nhận lí thuyết này ở Việt Nam khá sôi nổi.
Sau gần một thế kỉ xuất hiện ở Việt Nam, có thể nói lí thuyết loại hình học đã trở
thành công cụ nghiên cứu hữu hiệu cho những ai quan tâm đến văn học Việt Nam,
nhất là những tiếp cận từ phương diện loại hình học tác giả văn học. Tính đến nay,
lý thuyết loại hình học đã trở nên khá quen thuộc, so với một số lý thuyết nghiên
cứu văn học khác, nó không bị cũ đi và vẫn luôn hữu ích cho nhiều nhà nghiên cứu.
Có thể khẳng định, ở Việt Nam đã hình thành nên một xu hướng nghiên cứu văn
học theo lý thuyết loại hình học là trên thực tiễn như vậy.
1.1.2. Lý thuyết tự sự học
Trước hết, cần nhắc đến thuật ngữ tự sự học được đề cập đầu tiên là nhà
nghiên cứu T.Todorov vào năm 1969 để gọi tên lĩnh vực nghiên cứu lấy đối tượng
căn bản là văn bản tác phẩm tự sự, với phạm vi là đặc điểm cấu trúc văn bản, đặc
điểm trần thuật văn bản. Bản thân, khái niệm tự sự vốn có nội dung khá rộng, nó
không chỉ dùng để chỉ một nguyên tắc trong kể chuyện tác phẩm văn học mà còn chỉ
phương thức biểu đạt của các loại hình nghệ thuật khác như hội họa, kiến trúc, điêu
khắc hay âm nhạc... Còn ở phạm vi nghĩa hẹp, sau đề xuất của T.Todorov, các nhà
nghiên cứu, lí luận văn học dùng thuật ngữ tự sự để chỉ tự sự văn học, tự sự trong văn
bản tác phẩm văn học. Tự sự văn học ở đây sẽ gắn chặt với việc nhà văn kể về một
câu chuyện, một hiện tượng của đời sống xã hội, hay tư tưởng, tinh thần nào đó cho
người nghe bằng những phương thức riêng hướng đến một hiệu quả thẩm mĩ cao
nhất. Cùng một nội dung phản ánh, cùng một câu chuyện song cách tự sự, nghệ thuật
tự sự khác nhau sẽ mang lại những hiệu ứng khác nhau với người tiếp nhận. Tự sự có
16
trong các thể loại như tiểu thuyết, truyện dài, truyện ngắn... và cũng có trong cả một
số thể loại khác như thơ trữ tình hay kịch (chúng ta vẫn nói tới cái gọi là tự sự trong
thơ hay kể chuyện trong thơ chẳng hạn). Có điều, với tư cách là một phương thức tái
hiện, phản ảnh đời sống thông qua các biến cố, các sự kiện, tình tiết, suy nghĩ, tâm
trạng... của nhân vật thì tự sự vẫn được vận dụng soi chiếu phổ biến hơn cả.
Khái niệm tự sự (narratology) vốn có thể được hiểu: hoặc là lý thuyết nghiên
cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của các tác phẩm tự sự với các chất liệu
khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể sản sinh và đối tượng tiếp nhận
tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm nội dung của câu chuyện ra
sao và hình thức trần thuật của nó như thế nào, trong mối quan hệ của chúng với
nhau; tự sự cũng được hiểu là một biểu đạt văn tự đối với sự kiện câu chuyện (nghĩa
là theo hướng này, người nghiên cứu sẽ ít quan tâm đến bản thân câu chuyện mà
quan tâm chủ yếu là diễn ngôn tự sự. Như thế, trong hướng tập trung thứ nhất của tự
sự học, người nghiên cứu sẽ quan tâm đến tác phẩm tự sư trong tính trọn vẹn của
chỉnh thể tác phẩm. Các phương diện của nội dung cũng như nghệ thuật của tác
phẩm tự sự sẽ được quan tâm luận giải thỏa đáng trong mối quan hệ qua lại giữa
chúng. Còn trong hướng tập trung thứ hai, nhà nghiên cứu sẽ hạn định sự quan tâm
của mình vào biểu đạt ngôn từ (tức sẽ đi sâu vào lời văn) mà bỏ qua các yếu tố
thuộc về nội dung tác phẩm, thậm chỉ bỏ qua nhiều phương diện khác của nghệ
thuật tác phẩm. Dù sao thì việc cực đoan một trong hai chiều hướng này đều khiến
cho việc nghiên cứu với những trường hợp cụ thể chưa thật thỏa đáng. Tự sự học,
thực chất là khoa học nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và những vấn đề liên quan
như chúng tôi đã nhắc phía trên. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, nhìn chung, tự
sự học tìm cách phân biệt giữa việc kể “cái gì” và “kể như thế nào”, và từ đó làm
nổi bật vai trò của chủ thể trong trần thuật. Lý thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên
cho người ta thấy sự phức tạp của cấu trúc trần thuật. “Nhà văn sẽ không bao giờ
hiện diện trong tiểu thuyết như là một người kể, người phát ngôn, mà chỉ xuất hiện
như là một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn, với tư cách là người mang
hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm. Tác giả thực sự xuất hiện chỉ như người
ghi, người sao lục lời kể hoặc là người nghe trộm người kể. Người trần thuật là kẻ
được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người trần thuật
đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần thuật trong văn bản văn học là một hiện
tượng nghệ thuật phức tạp nhất, mà ngôi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ...” [202,
17
tr.16-17]. Lí thuyết cũng như quá trình vận dụng lí thuyết tự sự học vào quá trình
nghiên cứu thực thể văn học dân tộc nhiều năm qua đã cho ra đời khá nhiều các công
trình nghiên cứu có giá trị. Điều đó cho thấy sự khả dĩ của lí thuyết này trong khoa
nghiên cứu văn học và xét cho đến cùng, tự sự không chỉ là kĩ thuật đơn thuần mà rõ
ràng, ẩn chứa sau những kĩ thuật hình thức chính là truyền thống văn hóa, nếp nghĩ,
nếp sống của dân tộc qua văn chương. Những thành quả của tự sự trong văn học ở bất
kỳ giai đoạn lịch sử nào cũng chính là sự kế thừa truyền thống cũng như những tiếp thu
của đương thời. Đó là lí do mà trong quá trình luận giải những nội dung nghiên cứu
trong luận án này, chúng tôi sẽ luôn cố gắng chỉ ra những tiếp thu của tác giả Nho học Tân học đối với truyền thống tự sự trung đại Việt Nam cũng như tiếp thu truyền thống
tự sự phương Tây đầu thế kỷ XX.
Như vậy, trong luận án này, lí thuyết tự sự học sẽ giúp chúng tôi tập trung
giải quyết những đặc điểm đặc sắc trong phương thức nghệ thuật loại hình tiểu
thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học như tổ chức kết cấu cốt truyện,
giọng điệu nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật.
1.2. GIỚI THUYẾT TÁC GIẢ NHO HỌC – TÂN HỌC
Các tác giả được chúng tôi khảo sát trong luận án này, vốn cũng có thể duy
danh là tác giả nhà nho tân học. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nếu gọi họ là nhà
nho tân học thì các tác giả này, trước hết phải là nhà nho đã. Trong bối cảnh lịch sử
xã hội, cũng như tư tưởng văn hóa Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
khái niệm “nhà nho” đã dần mờ nhạt. Việc gọi những tác giả này là nhà nho có thể
đã không còn chính xác nữa. Đó là lí do chúng tôi mạnh dạn sử dụng thuật ngữ
“Tác giả Nho học - Tân học” để chỉ loại tác giả chịu ảnh hưởng của hai hệ tư tưởng
là Nho học và Tân học mà chúng tôi sẽ bàn kĩ hơn dưới đây. Thuật ngữ Nho học Tân học, theo chúng tôi là có thể ít nhiều tránh được sự chủ quan trong quá trình
nghiên cứu đề tài luận án này.
Nhà nho (cũng có thể viết là nhà Nho - chữ Nho viết hoa) chỉ những người
theo học khoa cử chữ Hán một cách trường quy lẫn phi trường quy, chịu ảnh hưởng
của hệ thống giáo dục, của hệ tư tưởng, giáo lý Nho giáo. Những khái niệm như nhà
nho, Nho học, Nho gia hay Nho giáo đều có liên quan mật thiết đến ý thức hệ, tư
tưởng, giáo lý, giáo dục Nho giáo thời trung đại. Nhà nho là một loại hình nhân cách
của Nho giáo, mang ý nghĩa khu vực bởi sự lan tỏa ảnh hưởng của nó từ Trung Hoa
18
đến các nước lân cận như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Những nhà nho này khi
sáng tác thì văn học của họ thuộc bộ phận văn chương Nho giáo (hay văn học mang
tư tưởng Nho giáo) và họ được gọi là tác giả nhà nho (để phân biệt với tác giả Thiền
sư, tăng lữ; tác giả vua chúa - quý tộc…).
Với loại hình tác giả nhà nho, nhiều nhà nghiên cứu đã mặc nhiên phân loại và
thừa nhận sự tồn tại hai loại hình nhà nho đại diện cho hai thế năng ứng xử cơ bản
của Nho giáo là nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật. Trong đó, nhà nho hành đạo
xuất hiện sớm hơn, cùng với quá trình hình thành quốc gia phong kiến độc lập Việt
Nam và đội ngũ cũng đông đảo hơn so với nhà nho ẩn dật. Nhà nho ẩn dật xuất hiện
muộn hơn, vào khoảng cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỷ XIV, vận động và phát triển từ đó
cho đến hết thế kỷ XIX. Nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật được coi như một “cặp
song sinh” tuy sớm muộn có khác ít nhiều và họ có những đóng góp quan trọng đối
với quá trình hình thành và phát triển của văn chương Nho giáo riêng, văn học dân
tộc nói chung thời trung cận đại. Những nghiên cứu tiêu biểu theo hướng này cần
nhắc đến chính là sự gợi ý từ khá sớm của Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa trong
công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Trứ và sau đó là một loạt các nghiên cứu của
Trần Đình Hượu [87], [88], [90]…
Bên cạnh hai loại hình tác giả nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật, theo nghiên
cứu của Trần Ngọc Vương trong chuyên khảo Loại hình học tác giả văn học nhà Nho
tài từ và văn học Việt Nam [239], ở vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII,
trong lịch sử văn chương Nho giáo xuất hiện một loại hình tác giả nhà nho thứ ba mà
nhà nghiên cứu gọi là nhà nho tài tử. Mặc dù còn có những bàn luận khác nhau về tính
hợp lý, tính đồng đẳng của mẫu hình nhà nho này so với hai mẫu hình nhà nho phía
trên, song rõ ràng, bằng những kiến giải thấu đáo, Trần Ngọc Vương đã chỉ ra những
cội rễ, căn gốc lịch sử - xã hội, văn hóa - tư tưởng hình thành loại hình nhà nho tài tử.
Đặc biệt, trong chuyên khảo của mình, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đổi thay của
văn chương nhà nho tài tử so với văn chương Nho giáo nói chung từ hệ thống đề tài
chủ đề đến hình tượng nghệ thuật trung tâm. Tiếc là trong mạch nghiên cứu của mình,
nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương lại chưa chỉ ra và phân tích tỉ mỉ những đặc sắc nổi
bật về phương diện nghệ thuật, ngoại trừ gợi ý cho bạn đọc về sự lựa chọn thể loại của
nhà nho tài tử [239].
19
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có những biến động
sâu sắc, sự va chạm với văn minh - văn hóa phương Tây (nhất là văn minh - văn hóa
Pháp) làm xuất hiện các tầng lớp, giai cấp mới và đặc biệt là tầng lớp trí thức Tây
học. Trong bước chuyển mình của đời sống xã hội cũng như văn học, một bộ phận
những nhà nho/ những người đã từng theo Nho học thức thời đã chuyển hướng sang
học tập chữ Quốc ngữ, tạo thành đội ngũ các tác giả Nho học - Tân học. Họ có thể là
những người từng thi cử/ đỗ đạt trong các kỳ thi Nho học như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Tản Đà, Ngô Tất Tố… hoặc là những người đã
nhiều năm theo đòi chữ nghĩa thánh hiền và chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền học vấn
này như Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Bá
Học… Do những biến thiên của thời cuộc, những nhà nho này đã chuyển sang viết
văn bằng chữ Quốc ngữ dưới tác động của một quan niệm văn học mới, một phương
thức sáng tác mới nhưng vẫn duy trì một cách ít nhiều có ý thức những ảnh hưởng
của cách viết và những quan niệm nghệ thuật truyền thống trung đại.
Trên cơ sở như vậy, chúng tôi quan niệm như sau, tác giả Nho học - Tân học,
trước hết là những nhà văn được học hành và chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng
Nho học và nền học vấn truyền thống. Do hoàn cảnh lịch sử buổi giao thời, họ đồng
thời cũng được học tập và chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và nền học vấn mới
ảnh hưởng của phương Tây, tuy mức độ ảnh hưởng ở mỗi tác giả là khác nhau. Từ đó
hình thành một thế hệ các nhà cầm bút mới - những con người của hai thế kỷ, mang
trong mình đặc trưng của thời kỳ quá độ, giao thời giữa cái cũ và cái mới. Đây là một
kiểu loại tác giả chứa đựng trong họ rất nhiều yếu tố phức tạp mang tính thời đại,
mang đặc trưng của sự chuyển giao loại hình từ kiểu tác giả nhà nho sang tác giả văn
học hiện đại. Đội ngũ tác giả Nho học - Tân học, một mặt vẫn mang những khát vọng
có phần phi thực tế như các nhà nho trước đó: muốn thực hiện giấc mộng “kinh bang
tế thế” và “cải cách xã hội” bằng văn chương, họ đề cao vai trò cải tạo xã hội, thay
đổi xã hội của văn chương; song mặt khác, họ cũng nhìn thấy được những đổ vỡ của
luân lý Nho giáo trong thời buổi bấy giờ, từ đó hướng ngòi bút của mình đến sự phản
ánh hiện thực. Dưới đây, chúng tôi xin được làm rõ một số điểm cơ bản theo quan
niệm của chúng tôi về tác giả Nho học - Tân học như sau:
20
- Thứ nhất, tác giả Nho học - Tân học trước hết phải là những người theo
Nho học, ở họ có sự kết hợp của hai ý thức hệ tư tưởng là ý thức tư tưởng Nho giáo
và ý thức tư tưởng mới (tiếp thu từ văn hóa tư tưởng phương Tây được truyền vào
Việt Nam đầu thế kỷ XX). Tác giả Nho học - Tân học hiểu một cách đơn giản nhất
phải bao gồm cả yếu tố Nho học (cựu học) và yếu tố tân học. Trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi chọn các tác giả tiêu biểu mà yếu tố Nho học của họ nổi trội
hơn các tác giả Nho học - Tân học cùng thế hệ.
- Thứ hai, tác giả Nho học - Tân học là sự phân biệt tương đối so với các tác
giả nhà nho cựu học (nhà nho chỉ theo lối học của Nho giáo truyền thống); đồng thời
cũng phân biệt với tác giả tân học hoàn toàn. Ở tác giả Nho học - Tân học sẽ có sự
kết hợp của cả hai yếu tố cựu học và tân học như chúng tôi đã nhắc ở ý trên. Đây
cũng đồng thời là một trong những tiêu chí quan trọng để chúng tôi lựa chọn tác giả
trong quy loại để thực hiện các nội dung trong nghiên cứu này.
- Thứ ba, trong thực tiễn của lịch sử văn học dân tộc giai đoạn giao thời
những năm từ 1900 đến 1930, có nhiều tác giả Nho học - Tân học song do hướng
nội dung nghiên cứu đến những đóng góp của họ cho thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ
đầu thế kỷ XX nên những tác giả cùng loại hình mà không viết tiểu thuyết bằng chữ
Quốc ngữ sẽ không thuộc đối tượng lựa chọn trong đề tài này.
- Thứ tư, ở loại hình tác giả Nho học - Tân học có những biến đổi quan trọng
trong quan niệm văn học, quan niệm thẩm mỹ, từ quan niệm “văn dĩ tải đạo” sang quan
niệm văn học phản ánh hiện thực, từ quan niệm coi thường tiểu thuyết đến sự lựa chọn
thể loại này làm thể loại chủ lực cho các sáng tác của họ. Tính giáo huấn là một trong
những đặc điểm chung của hai quan niệm văn học (văn học trung đại và văn học hiện
đại), tuy ở nền văn học hiện đại đầu thế kỷ XX, chức năng này có phần nhẹ hơn và ít lộ
diện hơn. Mặc dù vậy, tinh thần, tư tưởng giáo huấn vẫn sẽ là một nền tảng để các tác
giả Nho học - Tân học lấy làm điểm tựa cho các sáng tác của mình. Việc lựa chọn văn
xuôi và đặc biệt là tiểu thuyết Quốc ngữ là một sự lựa chọn vừa mang tính thách thức,
vừa hợp quy luật, vừa thể hiện thế mạnh, song cũng lại ít nhiều bộc lộ điểm hạn chế
của các tác giả Nho học - Tân học. Những điều này chúng tôi sẽ có những phân tích rõ
trong các nội dung tiếp theo của luận án.
- Thứ năm, đa số các tác giả Nho học - Tân học đều là các ký giả (nhà báo)
kiêm nhà văn. Họ vốn khá nhạy cảm và hết sức quan tâm đến đời sống chính trị,
21
đến các vấn đề xã hội, thể hiện một thái độ nhập cuộc khá quyết liệt. Đây sẽ là điểm
lợi thế để các tác giả Nho học - Tân học tiếp cận với những đổi thay, biến chuyển
cũng như những vấn đề mà xã hội quan tâm lúc bấy giờ.
Trên đây là quan niệm cũng như những kiến giải bước đầu của chúng tôi về
loại hình tác giả Nho học - Tân học. Chúng tôi sẽ có những luận giải kĩ hơn về nội
dung này ở chương 2, tiểu mục 2.3.2 - Nhận diện loại hình tác giả Nho học - Tân học
đầu thế kỷ XX. Với quan niệm như vậy, phần tiếp theo của chương này, chúng tôi sẽ
điểm qua những công trình nghiên cứu cơ bản về loại hình tác giả Nho học - Tân học
cũng như về sự đóng góp của họ đối với quá trình hình thành, phát triển thể loại tiểu
thuyết Quốc ngữ đầu thế kỷ XX.
1.3. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời là đề tài đã được nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm trên nhiều phương diện và từ đây cũng đã xuất hiện nhiều
công trình khoa học đáng chú ý. Nhưng tùy theo từng thời điểm, giai đoạn, hoàn cảnh
lịch sử xã hội mà vấn đề này được quan tâm ở mức độ này hay mức độ khác. Và cũng
cần phải khẳng định rằng dù đã được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh nhưng cho đến
nay vẫn chưa có một công trình chuyên sâu và thật đầy đủ về loại hình tác giả Nho học Tân học và đóng góp của họ cho quá trình hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX. Thông
thường các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một tác giả (như Tản Đà, Hồ Biểu
Chánh…), một tác phẩm (như Giấc mộng con, Quả dưa đỏ…), mà thiếu một cái nhìn
cặn kẽ, đầy đủ, thấu triệt về loại hình các tác giả Nho học - Tân học trong nền văn xuôi
Quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, tình hình nghiên cứu văn học Quốc ngữ nói chung và
tiểu thuyết của các tác giả Nho học - Tân học nói riêng không phải không có những công
trình mang tính “khơi dòng”. Nếu nhìn từ góc độ không gian địa lý thì có thể chia các
công trình nghiên cứu thành hai khu vực: Ở trong nước và ở nước ngoài; nếu căn cứ vào
thời gian lịch đại thì có thể chia thành các mốc thời gian cụ thể như sau: trước năm 1945,
từ năm 1945 đến năm 1986, từ sau năm 1986 đến nay; nếu căn cứ ở đối tượng nghiên
cứu có thể phân chia thành: các công trình chung về văn xuôi Quốc ngữ giai đoạn đầu
thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu về tác giả và loại hình tác giả Nho học - Tân học
và đóng góp của họ đối với sự hình thành và phát triển của thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ
22
đầu thế kỷ XX. Trên cơ sở tập hợp các tư liệu liên quan, trong phần này, chúng tôi sẽ
trình bày hai vấn đề: 1) Những nghiên cứu về tác giả Nho học - Tân học; 2) Những công
trình nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết Quốc ngữ giai đoạn giao thời nói chung và tiểu
thuyết Quốc ngữ của tác giả Nho học - Tân học nói riêng.
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về các tác giả Nho học - Tân học
Do những biến chuyển cũng như tính đặc thù của văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời mà đội ngũ các tác giả văn học ở vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có
một sự chuyển biến mạnh mẽ, phức tạp. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ngoài một
số tác giả đơn thuần là cựu học đã xuất hiện một loạt các tác giả hoàn toàn tân học và
những tác giả có sự kết hợp cả cựu học lẫn tân học, trong đó yếu tố cựu học vẫn lấn át
tân học. Đó chính là những trường hợp mà luận án tiến hành lựa chọn khảo sát, bao
gồm: Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà, Nguyễn Trọng Thuật và Ngô Tất
Tố. Các công trình nghiên cứu về năm tác giả này cũng khá phong phú. Sau đây
chúng tôi điểm qua một số công trình tiêu biểu:
1.3.1.1. Những nghiên cứu về tác giả Nguyễn Chánh Sắt
Nghiên cứu về Nguyễn Chánh Sắt: trước hết, phải kể đến cuốn Tiểu thuyết Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (2004) do Nguyễn Kim Anh chủ biên, các tác giả cho
rằng: “dù thông thạo cả Pháp văn và Hán văn, nhưng có lẽ ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc trong ông mạnh mẽ hơn do có một thời gian dài tiếp xúc với các nhà nho
yêu nước bị tù đày ngoài Côn Đảo. Vì vậy khi viết tiểu thuyết, ông vẫn sử dụng lối
truyện chí của Trung Quốc” [4, tr.491]. Nguyễn Văn Hà trong bài viết “Nguyễn Chánh
Sắt trong hành trình văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX” cho rằng: “… Bên
cạnh khuynh hướng hiện thực, Nguyễn Chánh Sắt còn là nhà văn có khuynh hướng
luân lý. Sáng tác của ông, dù ở thể tài nào cũng toát lên một tư tưởng chung rất nhất
quán: phê phán bọn nhà giàu, quyền thế bất lương; bênh vực người nghèo khổ bị áp
bức và đề cao khát vọng hạnh phúc gia đình, công bằng xã hội. Tư tưởng ấy xuất phát
từ lập trường đạo đức - một thứ đạo đức có tính chất nhị nguyên, vừa mang màu sắc
phong kiến vừa mang màu sắc dân gian” [72]…
Trong Từ điển Văn học (Bộ mới), Nguyễn Huệ Chi đưa ra những đánh giá xác
đáng về sáng tác của Nguyễn Chánh Sắt: “Là người có vốn Hán học sâu rộng, lại quen
dịch truyện Tàu, sáng tác của Nguyễn Chánh Sắt ảnh hưởng khá rõ thể loại truyện chí
thông tục của Trung Quốc, lấy cốt truyện theo tuyến tính làm đường dây phát triển, lấy
23
hành động của nhân vật thay cho khắc họa tâm lý tính cách. Phần lớn các truyện đều
kết cấu theo hình thức chương hồi, nhưng không có truyện nào thật dài” [162, tr.1122].
Và đáng chú ý nhất về những nghiên cứu Nguyễn Chánh Sắt là năm 2013, Hội Khoa
học lịch sử tỉnh An Giang tổ chức Hội thảo khoa học “Nhà văn nhà báo Nguyễn Chánh
Sắt (1869-1947)” [165]. Hội thảo đã nhận được 55 bài tham luận của 63 tác giả và
đồng tác giả được in trong tập tài liệu hội thảo tập trung vào các nhóm chủ đề: Chủ đề
1 - Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, nhà báo Nguyễn Chánh Sắt trên văn đàn miền
Nam và An Giang; Chủ đề 2 - Đánh giá đóng góp văn tài của Nguyễn Chánh Sắt trong
thời kỳ đầu của nền văn học sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX; Chủ đề 3 - Đánh
giá thêm về những tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt trên lĩnh vực văn học và báo chí.
Các tham luận đã tập trung tìm hiểu, soi rọi tiểu truyện, những tác động và mối liên
tưởng giữa vùng đất đến sự hình thành tư cách nhà văn, nhà báo Nguyễn Chánh Sắt;
đánh giá những đóng góp văn tài của cụ Nguyễn Chánh Sắt trong buổi đầu của nền văn
chương chữ Quốc ngữ trên cả hai lĩnh vực văn và báo chí. Bằng những chứng cớ, phân
tách khoa học, phần lớn các đại biểu thống nhất đánh giá Nguyễn Chánh Sắt (18691947) không chỉ là cây bút tiền phong, đa dạng về thể loại sáng tác, như sáng tác tiểu
thuyết, thơ, dịch thuật Hán văn, viết và quản lý nhiều tờ báo lớn đương thời: Nông cổ
mín đàm, Lục tỉnh tân văn… mà ông còn là cây bút có văn nghiệp không nhỏ với 15
tiểu thuyết, nhiều bài thơ và ký sự báo chí, 35 tác phẩm dịch, phóng tác và hàng trăm
bài báo chất lượng cao với nhãn quang của tầm nhìn chiến lược. Điển hình như: tầm
nhìn về phát triển, kết liên trong kinh dinh, sinh sản, vai trò và sự cần thiết trong phóng
thích nữ giới [165]…Các bài viết của Nguyễn Văn Tú, Nguyễn Văn Hà, Hà Thanh
Vân, Thái Nguyễn Đức Minh Quân, Lê Tiến Dũng, Huỳnh Thị Hồng Hạnh… trong
Hội thảo này đều đã có những đánh giá xác đáng về kiểu tác giả, một số phương diện
đặc điểm, giá trị nội dung cũng như nghệ thuật tiểu thuyết Quốc ngữ của Nguyễn
Chánh Sắt…Chúng tôi dẫn ra đây một số nhận định tiêu biểu về Nguyễn Chánh Sắt
trong vai trò một tiểu thuyết gia đầu thế kỷ XX. Đây là nhận định của Nguyễn Văn Tú:
“Nhìn chung ở Nguyễn Chánh Sắt gần như hội tụ được những phẩm chất của một kiểu
người làm văn học tiêu biểu hồi đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ: rành tiếng Pháp, giỏi Hán
văn, thông thạo Quốc ngữ; vừa là nhà báo, nhà dịch thuật vừa là nhà sáng tác; linh
hoạt và xông xáo; kịp thời đón bắt những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công
chúng, góp phần làm nên diện mạo và chất lượng mới cho văn học” [165, tr.117]; còn
24
đây là của Nguyễn Văn Hà: “Truyện dịch của Nguyễn Chánh Sắt thiên về loại có cốt
truyện hành động, phiêu lưu, nội dung phù hợp với quan niệm đạo đức “khuyến thiện
trừng ác” của dân gian, viết theo lối văn xuôi giống như lời nói thường ngày nên rất
gần gũi và hấp dẫn đối với công chúng độc giả… Văn chương ông có phong vị Nam
Bộ đậm đà. Cái phong vị đó bàng bạc khắp các tác phẩm, từ ngôn ngữ, khung cảnh,
sinh hoạt, phong tục đến diện mạo tính cách, tâm lý nhân vật…” [165, tr.156,161];
nhận định của Hà Thanh Vân: “… Không sung sức, dài hơi như Hồ Biểu Chánh,
không gay cấn, gây tiếng vang, động chạm đến đạo đức xã hội như Lê Hoằng Mưu,
cũng không ngả hẳn con đường trinh thám như Biến Ngũ Nhy hay Nam Đình Nguyễn
Thế Phương… Nguyễn Chánh Sắt đã chọn cho mình một con đường để đi vào lòng
người đọc và khiến cho sách bán chạy hơn, đó là sáng tác những tiểu thuyết kết hợp
giữa hai yếu tố “ly kỳ” và “ái tình”… Giữa đông đảo những tác giả viết tiểu thuyết
Quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX, Nguyễn Chánh Sắt vẫn tạo dựng được cho mình một
diện mạo riêng, với chỗ đứng riêng” [165, tr.190-191]; còn đây là nhận định: “… Ông
là một trong những người đầu tiên khai sinh ra thể loại tiểu thuyết thời kỳ phôi thai và
nâng nó lên một bước mới… là người đặt viên gạch đầu tiên nối liền hai dòng văn học
cổ điển và hiện đại, giúp văn học Việt Nam tạo dựng chỗ đứng vững chắc trong lòng
người dân và phát triển mạnh cho đến hôm nay” [165, tr.195, 197]; còn đây là đánh giá
của Lê Tiến Dũng về nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt: “Nhân vật
chính trong tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt, chính diện cũng như phản diện, thường
được xây dựng với mục đích thuyết minh cho quan niệm ở hiền gặp lành. Người hiền
lương chính trực, làm điều thiện, việc nghĩa sẽ được đền bù xứng đáng về sau. Còn kẻ
gian ác hiểm độc, hành động phi nghĩa, bất nhân sớm muộn cũng bị trừng phạt.
Khuynh hướng đạo đức làm cho nội dung tư tưởng tác phẩm Nguyễn Chánh Sắt lành
mạnh, trong sáng, dung dị, dễ tiếp nhận đối với số đông công chúng bình dân. Nhưng
chính quan niệm này cũng là hạn chế ông trên đường đi tới chủ nghĩa hiện thực…”
[165, tr.264]… Tác giả Huỳnh Thị Hồng Hạnh khi đặt vấn đề nghiên cứu về đặc điểm
ngôn ngữ văn xuôi Nam Bộ đầu thế kỷ XX qua Nghĩa hiệp kỳ duyên của Nguyễn
Chánh Sắt cùng đi đến những khái quát xác đáng như: sự hòa trộn giữa từ vựng khẩu
ngữ Nam Bộ với từ vựng sách vở Nho học (với biểu hiện như đưa ngôn ngữ hội thoại
vào văn chương; những từ ngữ cũ, từ ngữ Hán Việt vẫn giữ vai trò chủ đạo trong câu
văn miêu tả và trần thuật); sự hòa phối giữa câu văn biền ngẫu với những ngữ đoạn
25