Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ văn hóa địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.72 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 14 (39) - Tháng 3/2016

Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ
văn hóa địa phương
Worship beings through the local cultural perspective
SV. Quảng Văn Hồng
TS. Nguyễn Thị Việt Hằng
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
ST. Quang Van Hoang,
Ph.D. Nguyen Thi Viet Hang
Ha Noi Pedagogical University No2
Tóm tắt
Cúng chúng sinh là một trong những phong tục tiêu biểu của người Việt Nam chứa đựng trong đó nhiều
nét đẹp văn hóa mang tính nhân văn rõ nét. Cho rằng tháng Bảy là tháng “cơ hồn”, là thời điểm tất cả
các cơ hồn được trở về nhân giới trong đó có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian này, ở nhiều nơi đều
làm mâm cỗ cúng thí cho chúng sinh khắp nơi. Xưa nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tục
cúng chúng sinh vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung mà
qn mất một điều rằng mỗi địa phương khi tiếp nhận lại có một quan niệm và cách cúng khác nhau.
Trong báo cáo này, ngồi việc tìm hiểu về việc cúng chúng sinh chung của dân gian, chúng tơi còn tìm
hiểu phong tục này ở một địa phương cụ thể để thấy được cái hay, cái đẹp, cái tâm, tình tương thân
tương ái của con người Việt Nam khi tiến hành nghi lễ.
Từ khóa: phong tục, chúng sinh, văn hóa địa phương…
Abstract
Worshiping beings is one of the typical customs of Vietnam, and it contains cultural beauty with rich
humanities. It is said that July - the month of "ghosts" is the time when all its wandering souls return to
the world in which there are so many hungry ghosts so that people offer trays born in many places.
From the past to present, there has been many researchers learnt about worshiping beings customs in the
middle (full moon) of July, but almost all have just recognized in a general way but forgot one thing that
each locality has a concept and a different way of offering. In this report, in addition to learning about


the offerings of the common folks, we also learn this customs in a particular locality to identify the
good, the beauty, the mind, and the Vietnamese’s solidarity when conducting rituals.
Keywords: customs, beings, local culture...

phong tục tiêu biểu của người Việt Nam
chứa đựng trong đó nhiều nét đẹp văn hóa
mang tính nhân văn rõ nét. Dân gian ta

1. Đặt vấn đề
Cùng với hơn nhân, tang ma và lễ tết,
lễ hội, cúng chúng sinh là một trong những
97


quan niệm, “cô hồn” là những vong hồn bị
chết uổng, chết oan và khi về âm giới thì
không nơi nào tiếp nhận, không người đơm
cúng ngày tuần tiết, sóc vọng. Cũng theo
dân gian ta, ngày tết cô hồn bắt đầu từ ngày
1/7 âm lịch hàng năm và kéo dài đến hết
tháng. Nhưng từ bao đời nay, nhân dân đã
lấy ngày Rằm tháng Bảy âm lịch làm ngày
chính để khao giải và phổ độ cho các cô
hồn và ngày này trùng với Lễ Vu Lan báo
hiếu của Phật Giáo nên nhiều người lầm
tưởng hai lễ này là một. Cho rằng tháng
Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả
các cô hồn được trở về nhân giới trong đó
có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian
này, ở nhiều nơi đều làm mâm cỗ cúng cho

chúng sinh khắp nơi để cầu giải thoát cho
họ và tránh để họ quấy nhiễu. Điều này
không chỉ thể hiện nét văn hóa tâm linh đặc
sắc của người Việt mà con thể hiện một
văn hóa ứng xử đối với người ở thế giới
bên kia. Tiếp thu tinh thần ấy của dân gian,
nhìn nhận từ góc độ văn hóa, chúng tôi đi
tìm hiểu phong tục cúng chúng sinh của
dân gian để thấy được cái tâm, cái tình, cái
đức của người Việt Nam thể hiện qua hành
động làm phúc của mình.
Cúng chúng sinh là một mỹ tục được
hình thành từ xa xưa, phát triển cho đến
ngày nay và chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi
về sau trong văn hóa Việt Nam. Đề cập đến
vấn đề này, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu
tìm hiểu về tục cúng chúng sinh (cô hồn)
vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết
đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung
mà trên thực tế mỗi địa phương khi tiếp
nhận lại có một quan niệm và cách cúng
khác nhau chứ không hoàn toàn đồng nhất.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Phong
tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ
văn hóa địa phương” và tiến hành khảo sát
ở một địa phương cụ thể - vùng đất Yên

Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để từ đó cho thấy nét
riêng trong quan niệm của người dân nơi
đây, thấy được nét đẹp văn hóa tâm linh

thể hiện trong phong tục này.
2. Nội dung
2.1. Phong tục cúng chúng sinh trong
văn hóa truyền thống
Theo tín ngưỡng cổ truyền người ta
quan niệm “sống gửi, thác về” và cho rằng
con người có hai phần: Hồn và xác. Khi đã
mãn hạn trần gian con người trở về nơi vốn
là của họ (thế giới bên kia) và khi đó hồn
lìa khỏi xác, xác thì phân hủy còn hồn thì
tiếp tục tồn tại. Những người theo Phật
giáo và không theo tôn giáo nào cho rằng
hồn sẽ về Tây Phương cực lạc, người theo
Thiên chúa giáo cho rằng linh hồn sẽ lên
thiên đàng cùng Chúa trời. Những linh hồn
ấy sẽ sớm được siêu sinh tịnh độ đầu thai
làm kiếp này hay kiếp khác hay bị đày đọa
vào ngạ quỷ tùy thuộc vào những điều lành
hay dữ mà họ làm khi còn sống. Nếu khi
còn sống làm nhiều điều ác thì khi chết đi
sẽ bị đày đọa khổ cực hay những người
chết uổng chết oan bị bơ vơ nơi nọ nơi kia
không nơi nương tựa sẽ khó siêu thoát. Vì
lí do đó mà họ được gọi là các “cô hồn” vất
vưởng khắp mọi nơi, người trần gian
thương xót cho họ phải chịu cảnh “quanh
năm đói rét cơ hàn, không manh áo mỏng
che màn heo may” nên rằm tháng bảy hàng
năm làm lễ cầu siêu để cho họ được siêu
thoát và ngày ấy còn được gọi là “xá tội

vong nhân”.
Phong tục cúng cô hồn có nguồn gốc
từ Trung Quốc, Phật tử Trung Hoa gọi lễ
cúng này là “Phóng diệm khẩu”, tức là
cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ
đói miệng lửa. Nhưng dân gian thì hiểu
rộng ra và nói trại đi thành “cúng cô hồn”,
tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ,
không có ai là thân nhân trên trần gian
98


2.2. Dấu ấn của phong tục cúng
chúng sinh trong các sáng tác văn học
Nghi thức cúng chúng sinh vốn đã tồn
tại ở nước ta từ rất sớm. Theo Nguyễn
Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì
từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn,
Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế
phổ độ chúng sinh, cầu giải thoát cho các
oan hồn và trong các chùa Việt lưu truyền
sách Bảo Đỉnh hành trì tập hợp khoa nghi
bí mật nội truyền do Huyền Quang tổ sư
soạn thảo cũng đã phần nào nói lên việc
thịnh hành nghi thức Phật giáo. Hơn thế,
các bộ sách sử như Đại Việt sử lược, Đại
Việt sử kí toàn thư... đều ghi chép đời Trần
nước ta đã xin vua Tống Đại tạng kinh,
điều này phần nào nói lên “Nghi quỹ thí
thực” đã hình thành, phát triển và tồn tại ở

nước ta từ rất sớm chứ không phải đến
ngày nay nghi thức này mới phổ biến.
Phong tục cúng chúng sinh tồn tại,
phát triển sâu rộng trong dân gian và trở
thành một thói quen in sâu trong tâm thức
của người dân Việt, trở thành một nét đẹp
tâm linh không thể thiếu thể hiện tính nhân
văn, nhân đạo sâu sắc. Văn học trung đại
Việt Nam từng có Thập Giới cô hồn Quốc
Ngữ Văn (mười điều răn cô hồn viết bằng
quốc ngữ) của Lê Thánh Tông. Tác phẩm
được viết bằng chữ Nôm theo thể biền
ngẫu, được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ
tập gồm 11 đoạn, trừ đoạn mở đầu, 10
đoạn sau, mỗi đoạn là một điều răn một
loại cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu,
nho sĩ, thiên văn - địa lí, lương y, tướng
quân, hoa nương, thương cổ, đãng tử, và
kết thúc mỗi đoạn là một bài kệ bằng thơ.
Với mục đích giáo huấn, mượn lời răn
người chết (cô hồn) để dạy người sống và
qua việc răn giới, tác phẩm đã phản ánh
sinh hoạt của 10 hạng người, vị trí xã hội
của họ và thái độ đánh giá đối với họ, quan

cúng bái.
Việc cúng chúng sinh (cúng cô hồn)
này có liên quan đến câu chuyện giữa A
Nan Đà Tôn giả (đệ tử của Phật Thích Ca
Mâu Ni) với một con quỷ miệng lửa (diệm

khẩu). “Một buổi tối, A Nan đang ngồi
trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ
thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả
ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày
sau, A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi
ngạ quỷ miệng lửa, mặt cháy đen như nó. A
Nan sợ quá bèn nhờ quỷ bày cho phương
cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày
mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi
mỗi đứa một hộc thức ăn, và soạn lễ cúng
dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ,
còn tôi sẽ được sinh về cõi trên”. A Nan
đem chuyện bạch với Ðức Phật, Đức Phật
bèn cho bài chú gọi là “Cứu bạt diệm khẩu
ngạ quỷ Ðà La Ni”. A Nan đem tụng trong
lễ cúng và được thêm phúc thọ…”
Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được
thực hiện vào ngày 14 tháng 7 âm lịch còn
ở Việt Nam, tháng 7 âm lịch được gọi là
“tháng cô hồn” và việc này được thực hiện
vào tất cả các ngày trong tháng và chủ yếu
là vào 15 tháng 7 âm lịch vì truyền thống
của người Việt cho rằng ngày này là “ngày
mở cửa ngục” để các cô hồn nhận đồ cúng
tế cũng như quần áo, vàng mã và được gọi
là ngày “xá tội vong nhân”. Ban đầu phong
tục này được người ta vẫn nói là “Phóng
diệm khẩu”, với nghĩa gốc là “thả quỷ
miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thành
các nghĩa khác như tha tội cho tất cả những

người chết (xá tội vong nhân) hoặc cúng thí
cho những vong hồn vật vờ (cô hồn) không
nơi nương tựa. Trong những ngày này,
người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc
cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn để
mong họ phù hộ cho mình, cầu cho gia
trung hưng thịnh, đời đời hoan hân.
99


điểm khen chê chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn
của đạo đức phong kiến, lợi ích của chế độ
phong kiến; được đề cao nhất là quan liêu,
nho sĩ, tướng quân; bị miệt thị là thương
cổ, hoa nương, đãng tử. Bút pháp vững
vàng, kết cấu chặt chẽ, đối ngẫu thoả đáng,
từ ngữ chính xác, tinh tế, hình tượng sắc
sảo, sinh động; điển cố nhiều nhưng cách
dùng rất sáng tạo. Giọng văn hoạt bát, hài
hước, chân dung văn học được khắc hoạ
hiện thực, cụ thể, độc đáo và sinh động.
Thế kỷ XVIII Nguyễn Du viết Văn tế
thập loại chúng sinh , đây là minh chứng
Phật giáo kết hợp với niềm tin tâm linh của
dân gian gắn với đạo tràng, cầu siêu và hội
tụ đầy đủ tinh thần nhân văn, nhân đạo của
Đại thi hào Nguyễn Du mà rộng hơn là của
cả dân tộc. Bản văn tế được tìm thấy lần
đầu tiên ở Chùa Diệc - Hà Tĩnh, “nói lên
rằng, sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh

trước hết nhằm mục đích cúng tế”, nó được
xem là một bản văn khấn cúng chuẩn của
Phật giáo được lưu giữ ở nhiều ngôi chùa
trên toàn quốc, được in trong Văn khấn
Nôm truyền thống và được sử dụng rộng
rãi trong mỗi dịp Rằm tháng bảy. Nếu bài
văn của vua Lê nặng nề giáo huấn răn đe
thì tác phẩm của Nguyễn Du tràn ngập tình
yêu thương, thông cảm.
Bài Văn tế thập loại chúng sinh bao
gồm 184 câu, chia ra làm ba phần chính:
Phần đầu giới thiệu cảnh não nề của tháng
bảy mưa dầm sùi sụt, cảnh lặng lẽ man
mác, buồn thương...; Phần thứ hai nói rõ
mười loại cô hồn, đây là phần chính của bài
văn; Phần cuối kết luận, mở hướng cho con
người đi vào con đường lương thiện, theo
cầu đạo Phật từ bi để không sa đọa vào cô
hồn quỷ đói. Cả ba phần đều với giọng văn
thê lương, vạch hướng con người đi vào
con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi
cảnh tai ương khổ ải của kiếp nhân quả luân

hồi. Bài văn đã miêu tả cảnh khổ đau của
mọi hạng người trong xã hội từ giàu sang
cho đến đớn hèn, từ những người mũ cao
áo rộng cho đến những người hành khất
ngược xuôi… Con người khi sống trong xã
hội thì phân biệt sang hèn, kẻ hiền người
ngu nhưng khi chết đi thì đều được bình

đẳng, nhất là “thác đi làm kiếp cô hồn lênh đênh mặt nước, đầu non dãi dầu chẳng biết ăn đâu, ở đâu - đêm thẳm ngày
sầu hè lại sang đông”, chúng sinh tuy mỗi
người mỗi nghiệp khác nhau nhưng tựu
trung đều bi thảm giống nhau. Qua khảo
sát, chúng tôi thấy được có 16 loại chúng
sinh được Nguyễn Du nhắc tới trong văn tế,
tuy sống thì mỗi người một nghiệp, người
bài binh bố trận, kẻ hành khất lang thang,
người thì “rắp cầu chữ quý” kẻ thì vào sông
ra bể, người thì “liều tuổi xuân buôn nguyệt
bán hoa”, và cả những đứa trẻ “lỗi giờ sinh
lìa mẹ lìa cha” nhưng khi thác đi tất cả họ
đều “hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê
người” không ai đơm cúng, phải ăn mày
Phật, cậy nhờ “hớp cháo lá đa”. Cảm
thương cho số phận đói rét của các cô hồn,
nhãn quan nhìn thấu từ trần gian cho đến
âm phủ, Nguyễn Du đã lập đàn giải thoát,
sửa sang manh áo thoi vàng nhờ vào phép
thần thông của Phật kêu gọi các chúng sinh
lắng nghe kinh để được siêu thoát khỏi
trong luân hồi, lục đạo. Bản văn tế có nhiều
đoạn kể về nỗi đói rét của các cô hồn khiến
cho nhiều người khi đọc cũng phải sụt sùi
cảm thương:
“Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm…
…Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”
Hay:

“Cũng có kẻ đi về buôn bán
Đòn gánh tre chín dạn hai vai
Gặp cơn mưa nắng giữa trời
100


Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?...
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan”…
Nguyễn Du đã nói lên nỗi thương xót
các cô hồn bơ vơ bằng tất cả tấm lòng nhân
ái, nhân đạo của mình. Thương cho các cô
hồn lạc loài, “anh em thiên hạ, láng giềng
người dưng”, những cô hồn “sống nhờ hàng
xứ, chết vùi đường quan”… Tất cả họ đều
bơ vơ không chốn tựa nương, không manh
áo mỏng, không người đơm cúng, không ai
tảo mộ. Lập đàn giải thoát, thí thực cho
chúng sinh, cuối cùng kêu gọi các loại cô
hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để
nương nhờ phép Phật mà thoát khổ, lấy
Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thoát trong
luân hồi. Văn tế thập loại chúng sinh là một
lời cảnh báo cho thế gian, đáng cho mọi

người suy ngẫm khi nó trùng với ngày Đức
Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa
Ngục để báo hiếu, Nguyễn Du không chỉ
khóc thương cho người đã khuất mà còn
như nghẹn ngào tâm sự với người đang
sống, nói về quá khứ nhưng kỳ thực là đang
nhắc đến hiện tại và nhìn về tương lai, nhắc
nhở con người ta hãy bừng tỉnh, thoát khỏi
vòng mê đắm của phú quý vinh hoa.
Từ những truyền thống văn hóa có từ
xa xưa, hình thành và phát triển qua bao
thời đại, đi cùng những biến cố thăng trầm
của thời gian, của lịch sử, phong tục cúng
chúng sinh ngày càng được mở rộng trong
dân gian, đặc biệt là trong thời đại kinh tế
đang phát triển. Sở dĩ cúng chúng sinh
được hình thành sớm và gìn giữ lâu đời
như vậy mà không bị mai một bởi văn hóa

Việt Nam là loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp, văn hóa làng xã, trọng tình, sự yêu
thương, tình nhân ái, tính nhân văn, nhân
đạo luôn được đặt lên hàng đầu. Tính nhân
văn, nhân đạo không chỉ được thể hiện ở sự
đùm bọc, giúp đỡ những người nghèo khổ
khi đang còn sống mà còn hướng tới cả
những người đã mất mà không nơi tựa
nương, sống thì phải chịu một đời phiền
não khi thác đi lại “nhờ hớp cháo lá đa”.
Hình ảnh “hớp cháo lá đa” đã trở nên rất

quen thuộc trong các buổi lễ cũng như
trong các bài văn tế chúng sinh, vừa thể
hiện sự từ bi của Phật, vừa thể hiện sự cảm
thông, chia sẻ, lòng nhân đạo của người
sắm lễ vật cúng dường lại vừa thể hiện
trong đó sự thương xót của người hành lễ.
Chỉ là hớp cháo lá đa, một chút cháo để
cứu cơ tạm thời, của ít nhưng lòng nhiều,
các cô hồn đều vui lòng nhận để được vui
lòng ấm bụng, để nghe kinh, để thấu hiểu
được rằng: dù tội hay dù oan thì cũng
chẳng phàn nàn bởi số trời đã định, các cô
hồn hay nghe lời Phật dạy mà được “đắc
độ, đắc siêu về nơi tiên cảnh” hoặc được
đầu thai vào kiếp người sung túc hơn.
Trên thực tế, ngoài Thập Giới cô hồn
Quốc ngữ văn của Vua Lê Thánh Tông,
khoa cúng Mông sơn thí thực của Phật
giáo, Văn tế thập loại chúng sinh của
Nguyễn Du thì trong dân gian vẫn tồn tại
những bản khác được sử dụng rộng rãi để
cầu giải thoát cho chúng sinh vào mỗi dịp
Rằm tháng bảy âm lịch. Riêng phần về các
bản văn cúng chúng sinh, chúng tôi sẽ làm
rõ ở phần sau.
2.3. Phong tục cúng chúng sinh ở xã
Hồng Phương - Yên Lạc - Vĩnh Phúc
2.3.1. Những nét chung với quan niệm
dân gian
Như đã nói ở trên, nếu một người bị

chết oan hoặc do tác động của những
101


nghiệp xấu, các cô hồn không/chưa được
cõi nào tiếp nhận, phải lang thang, chịu đói
rét, hoặc quấy rối người sống. Vì vậy, cúng
chúng sinh là để "cứu giúp" những linh hồn
khốn khổ, hoặc nhằm "hối lộ" để khỏi bị
các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ "hỗ
trợ", phù hộ.
Đồ cúng chúng sinh luôn có hương,
hoa, đèn (nến), quần áo chúng sinh, tiền
vàng, gạo, muối, nước lã kèm theo các món
ăn… và một thứ không thể thiếu trong
mâm lễ cúng chúng sinh là cháo loãng. Sở
dĩ cháo loãng không thể thiếu là bởi dân
gian cho rằng những linh hồn bị đày đọa
phải mang một thực quản nhỏ hẹp không
thể nuốt được thức ăn thông thường. Nhìn
chung tất cả các đồ cúng đều là đồ chay vì
nếu cúng đồ mặn sẽ khơi dậy sự tham, sân,
si của chúng sinh, làm cho chúng sinh khó
siêu thoát. Thức cúng bằng đồ chay cũng
thể hiện trong đó quan niệm của Đạo Phật,
không đùng đồ mặn đồng nghĩa với việc
không sát sinh, không làm mất đi sự sống
của các loài, không làm gia tăng ác nghiệp
cho chúng sinh để chúng sinh chóng được
siêu thoát.

Để cúng chúng sinh thì người ta
thường cúng vào buổi chiều tối hoặc tối
hẳn vì buổi sáng, ánh nắng sẽ làm bạt, suy
yếu các vong linh hồn còn khi đến tối là
thời điểm các vong linh hồn được tích tụ
lại. Do đó, cúng buổi tối thì các cô hồn này
mới có thể dễ nhận nhận được đồ mà các
gia chủ cúng cho. Nơi cúng thường đặt ở
ngoài trời, có thể cúng ở cổng chứ không
nên để trong nhà bởi các cô hồn có thể ở lại
trong nhà không đi làm ảnh hưởng tới gia
đình, đặc biệt là đối với gia đình có trẻ nhỏ
hay có người yếu bóng vía sẽ dễ bị ma quỷ
đó trêu chọc. Nhiều gia đình không muốn
cúng chúng sinh ở nhà thì có thể cúng ở
chùa làm phúc, nhờ các nhà sư phổ độ cho

chúng sinh, răn dạy chúng sinh.
2.3.2. Nét riêng của phong tục cúng
chúng sinh của địa phương
Bên cạnh những nét chung của dân
gian, mỗi địa phương lại có những quan
niệm riêng của mình về tục cúng chúng
sinh và từ đó bên cạnh những gì theo quan
niệm của dân gian, họ có những cách sắm
lễ và cách thức cúng riêng của mình mang
đặc trưng bản xứ. Chúng tôi tìm đến gặp
Cụ Đỗ Thị Vinh 87 tuổi, ngụ tại thôn
Trung Nha, xã Hồng Phương, huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, một Cụ làm thủ

nhang Chùa Am Tự trên địa bàn dân cư nơi
đây gần 20 năm để tìm hiểu về phong tục
cúng chúng sinh của người dân nơi đây và
thấy được rằng cách hành lễ nơi đây có
nhiều nét đặc biệt mà các địa phương khác
ít có được.
Theo Cụ, có hai thứ không thể thiếu
trong lễ vật cúng chúng sinh không thể
thiếu đó là đồ mã và đồ ăn để “thí thực”
cho chúng sinh. Nếu như trên cả nước đồ
mã cúng chúng sinh thường chỉ là quần áo
và chút tiền vàng thì đồ cúng nơi đây lại có
những sự khác biệt, có sự mở rộng hơn,
phong phú hơn mang tính quan niệm .
Đồ mã cúng chúng sinh của địa
phương gồm: 1 mũ Phật, 3 mũ Hành khiến
(của Quan hành khiến cai quản trong năm),
5 bộ ngựa (xanh, đỏ, trằng, vàng, tím) kèm
theo đó là 5 bộ mũ, áo, hia đặc trưng cho
Ngũ phương (trung ương, đông, tây, nam,
bắc), một mũ tai đen (của Tiêu Diện Đại
vương) và quần áo chúng sinh, tiền vàng
tùy tâm gia chủ. Đồ cúng tế cũng thoái mái
hơn so với quan niệm của dân gian, một
nồi cháo loãng, gạo muối, bánh kẹo, hoa
quả, nước, xôi, chè và có thêm đồ mặn (thịt
gà, thịt lợn), rượu... Đồ cúng chúng sinh ở
đây có thêm đồ mặn bởi người dân ở đây
cho rằng chúng sinh cũng giống như
102



những người đang sống, cũng phải có
rượu, thịt để ăn uống, không phân biệt giàu
sang, các chúng sinh về bản đàn được
quyền bình đẳng. Riêng chỉ có quần áo
chúng sinh chỉ có một cỡ là bởi quần áo
này dùng cho tất cả mọi người, không phân
biệt, không đắn đo ngắn dài, những ai hễ là
chúng sinh thì đều mặc vừa. Với các ngày
lễ lớn được làm tại Chùa thì quần áo chúng
sinh có thể lên đến 200 hay 300 bộ, còn
những lễ nhỏ được các gia chủ làm tại gia
thì chỉ cần từ 50 đến 100 bộ quần áo chúng
sinh là đủ và cứ một áo được xếp vào với
một quần để thành bộ khi khao giải.
Theo tục lệ của địa phương, cả làng sẽ
làm một khóa lễ cúng chúng sinh vào đúng
ngày Rằm tháng bảy tại sân chùa với sự có
mặt đông đủ của các Vãi trong làng và
Pháp sư sẽ làm lễ đăng đàn khai hoa kết ấn,
thỉnh Phật tuyên kinh, phổ độ chúng sinh.
Ngoài ra những ngày lễ lớn như Rằm tháng
Giêng, rằm tháng Tư (Lễ Phật đản, vào hè),
rằm tháng Sáu (ra hè), 23 tháng Chạp (tết
ông Công ông Táo), các cụ trong làng cũng
thiết lập đàn cúng chúng sinh. Đồ mã được
bày biện theo trình tự từ cao xuống thấp và
chia làm ba tầng (không cúng Phật vì Phật
đã thỉnh trong Tam bảo). Trên cao nhất là

mâm Quan Hành khiến, có đủ cả đồ chay,
đồ mặn và “ông gà” được đặt tại đây, tiếp
đó là mâm quan Ngũ Phương với tất cả các
đồ cúng đều phải có 5 (5 chén rượu, 5 đĩa
xôi nhỏ, hoa quả 5 trái, thịt 5 khẩu nhỏ…)
và 5 ông ngựa cúng tạ Quan Ngũ phương
thì đặt dưới đất, quần áo được đặt trên lưng
ngựa để khi thụ hưởng xong các quan lấy
ngựa quy năm phương. Dưới cùng sẽ là
mâm của Tiêu Diện Đại vương và các
chúng sinh, mũ Tai đen và quần áo, đồ ăn
của chúng sinh được đặt tất cả trên một cái
nia hoặc ba cái mâm đặt dưới đất, riêng
nước lã và cháo thì không để trong mâm,

cháo được đơm ra các bát nhỏ, mỗi bát để
một chiếc đũa, nước để trong chậu và để 5
hoặc 7 chén nhỏ cho chúng sinh uống
nước. Không phải ngẫu nhiên phong tục ở
đây lại để mũ Tiêu Diện Đại vương cùng
với mâm chúng sinh mà do Tiêu Diện Đại
vương là người trực tiếp “linh kỳ một lá
dẫn đường chúng sinh”, là người chia đều
cho chúng sinh được công bằng, bình đẳng
khi về nghe kinh và ăn lộc Phật. Sau khi
Pháp sư làm lễ thỉnh Phật tuyên kinh trong
Tam bảo sẽ ra ngoài sân cùng các Vãi thỉnh
khoa “Đương niên đương cảnh” và khoa
“Ngũ phương” để cầu bình an cho dân làng
sau đó sẽ phổ độ cho chúng sinh, nhờ vào

phép mầu của Phật để siêu thoát về Tây
phương cực lạc. Đến đây, các thức dùng để
cúng dường Tam bảo có thể xin hạ lễ mang
ra khao giải cho chúng sinh và đồ cúng trên
mâm Quan Hành khiến và Quan Ngũ
phương cũng có thể làm như vậy. Pháp sư
là người chính tiến hành nghi lễ phổ độ
chúng sinh theo trình tự: mời chúng sinh
đến, chúc thực – mời ăn, dặn dò chúng sinh
và mời ra. Nghi lễ kết thúc bằng việc Pháp
sư dùng gạo, muối vài đi khắp bốn phương,
tám hướng tiễn chúng sinh ra khỏi làng và
xin các cô hồn phù hộ xóm làng bình an,
nhân khang vật thịnh bằng những câu tống
tiễn như sau:
“Hơi hỡi chúng sinh nghe lời khuyên
nhủ / Thầy mời thì ở thầy tiễn thì đi / Trống
giong cờ dắt, tuân hành Phật sắc / Quân nơi
âm phủ về đến diêm la / Quân ở trên trời thì
về tiên phủ / Quân nơi biển cả, rẽ nước mà
đi / Không được lân la làm điều bất lợi /
Không vào thôn xóm trôm lợn bắt gà /
Không trêu người già bắt nạt trẻ nhỏ / Ai có
phần mộ về đó an cư / Ai có thần từ quy về
miếu mạo / Khi mời lại đến nghe kệ nghe
kinh / Tịnh độ siêu sinh, quy y Phật quốc”
Không chỉ cúng tại chùa mà nhiều gia
103



đình có tâm sẽ nhờ Pháp sư về làm lễ
chúng sinh tại nhà hoặc có thể tự làm trong
ngày này và các gia đình mỗi khi nhà có
đám (bất kể đám hiếu, hỉ, làm lễ dâng sao
giải hạn đầu năm hay cúng tứ cửu…) đều
làm lễ khao giải chúng sinh. Từ hiện thực
cuộc sống trước đây, mỗi khi nhà có đám,
trẻ em hay chạy chơi đùa để ăn cỗ và
những người nghèo khó vẫn thường hay
đến để xin ăn mà nhân dân ở đây quan
niệm: trần sao âm vậy, những người chịu
một đời long đong, hành khất xin ăn hay
những người thác đi không người đơm
cúng khi thấy những gia đình có đám sẽ lân
la đến xin ăn, những đứa trẻ khi mất đi
không nơi nương tựa cũng tìm nơi đám thứ
đông đúc hòng xin được chút gì đó nên các
gia đình mỗi khi có việc gì đó đều làm
mâm cúng chúng sinh cầu bình an cho gia
đình. Tuy là lễ nhỏ làm tại gia nhưng cũng
giúp cho chúng sinh không nơi nương tựa
được vui lòng ấm bụng, cầu được giải thoát
về cõi Cực lạc. Làm lễ tại gia thì mũ Phật
phải được đặt trên hàng cao nhất và đồ
cúng là đồ chay, xôi trắng, hàng thứ hai
được chia làm hai mâm lễ, bên trái là mâm
Quan Hành khiển và bên phải là Quan Ngũ
phương, dưới cuối cùng sẽ là mâm chúng
sinh. Khoa nghi cũng lần lượt từ thỉnh Phật
tuyên kinh, làm lễ cầu an và sau đó là khao

giải chúng sinh. Theo người dân tại đây,
làm lễ tại gia không nhất thiết phải nhờ cậy
đến Pháp sư mà các Vãi cao tuổi cũng có
thể làm được miễn sao đủ các nghi thức
trên và xin được “đài âm dương” vì người
trần mắt thịt phải lấy ấm dương làm tín.
2.3.3. Các bài cúng được nhân dân
trong vùng sử dụng để cúng chúng sinh
Pháp sư có thể dùng khoa cúng Mông
sơn thí thực của Đạo Phật để cúng, các
Pháp sư khác lại dùng bài Văn tế cô hồn
thập loại chúng sinh của Nguyễn Du làm

bài cúng chuẩn mỗi khi phổ độ chúng sinh.
Nỗi khổ của chúng sinh được Pháp sư tụng
đọc với giọng thương xót khi kể về cuộc
đời đau khổ của chúng sinh và nhờ Đức
Phật từ bi “giải oan cứu khổ độ về Phương
Tây”, cho các cô hồn siêu thoát. Khi gần
hết khoa cúng của mình Pháp sư tụng “Chú
biến thực cam lộ thủy chơn ngôn” và “chú
cúng dường” để biến đồ cúng tế chúng sinh
một thành rất nhiều do quan niệm chúng
sinh thì vô biên mà đồ cúng chỉ có hạn,
trong đó có một câu chúng tôi thấy rất tâm
đắc vì khi đọc câu chú ấy lên như có phép
màu của Phật giống như câu “Phép thiên
biến ít thành nhiều” trong Văn tế thập loại
chúng sinh vậy:
“Pháp vô vi hữu - Đạo pháp thiền

môn. Phổ cúng dàng: Tự nhiên thiên trù
thực - Vô lượng diệc vô biên -Tùy niệm giai
sung túc - Cung thỉnh các quan đồng lai
chứng giám
Nhất biến vi thập, thập biến vi bách,
bách biến vi thiên, thiên vi vạn, vạn vi ức,
ức biến hằng hà, hằng hà sa số, tốc tốc
thành tựu sa hạ” (3 lần).
Điều đáng nói ở đây là bên cạnh bài
cúng của Pháp sư sử dụng thì các Vãi lại có
những bài cúng riêng của mình khi hành lễ
bất kể là ở chùa hay tại gia và phần ấy
được gọi là “Chào giầu”. Chúng tôi tiến
hành tìm hiểu và được Cụ Đỗ Thị Vinh
cung cấp cho tất cả 5 bài khác nhau dùng
để “Chào giầu” các quan và chúng sinh. Ở
đây chúng tôi xin trích dẫn 1 bài được đánh
giá là có nội dung khá hay:
“Ơi hỡi các Quan ơi / Già trẻ bảo
nhau cho thông / Người trần nay sắm lễ
các quan / Các quan dong nhản dong nhan
/ Quan trẩy qua ngàn quan đóng đâu đây /
Ba hồi chúc thực ở đâu thì vào / Nào là áo
đỏ áo đào / Áo xanh, áo tím, cặp nào cũng
xinh / Còn cặp áo trắng một mình / Các
104


quan nhận đủ để dành chúng sinh / Ơi hỡi
chúng sinh kia ơi / Vào mà nhận lấy áo này

/ Áo giấy mượn thợ cắt cho / Chẳng quản
đắn đo áo ngắn áo dài / Làm người lên một
lên hai / Lên ba lên bốn bỏ cha cho đến
mãn già / Nào người mười bảy mười ba /
Mười lăm mười tám lại hòa hai lăm / Chân
chậm còn phải hỏi thăm - Leo cao ngã dốc
còn nằm đi sau / Người ở bới lá bới lau /
Ba hồi chúc thực ở đâu thì vào / Vãi tôi
phải đón phải chào / Các quan nhận đủ
bay cao lại nhà / Phù hộ tín chủ (làng xóm)
thật là bình an / Những nơi cỗ cả bàn cao /
Chả được nhời chào các quan thấy chả
được hả tâm / Hôm nay tín chủ ngày tuần /
Các vãi chúng con thành tâm ra chào /
Lòng thành kính dâng một triệu ngũ tuần
nhang / Kính dâng các quan trời đất / Nhớ
thuở xưa ăn hang ở lỗ / Nhớ thuở xưa Phật
dạy rành rành / Ở trên trần mỗi người mỗi
kiếp / Ngày hôm nay là ngày tuần tiết / Các
vãi thành tâm làm lễ chào giầu / Mời các
quan xơi nước xơi giầu / Như lễ tiễn dù
nhầm dù lỗi / Mong các quan xuể xỏa từ bi
/ Ngày mai gặp hội tứ kỳ / Vãi con lại khấn
lại mời về cho ăn./ Ơi hỡi các quan ơi /
Bây giờ ăn uống xong rồi / Kim ngân vàng
mã đâu thời chia ra / Các quan chia thì
chia cho đều / Chớ có ngang tắt mà trêu
người trần / Người trần nhỡ bước sa chân /
Các quan cứ thẳng ven đường mà đi /
Ngày mai gặp hội tứ kỳ / Vãi tôi lại khấn

lại mời về cho ăn / Ơi hỡi các quan ơi,
hương châm ba nén đã tàn / Các quan ăn
đoạn ra khỏi ngoài làng đừng có quở ai /
Ra đường gặp gái gặp trai / Chớ nên quở
trách đến ai ven đường / Những người đi
nắng về sương / Tránh ra ven đường để
người trần đi / Người trần thế hệ ngu si /
Âm dương cách biệt vậy thì biết đâu / Ra
đường gặp bò gặp trâu / Chớ nên quở
trách trước sau con nào / Nghe nhời vãi

dặn thấp cao / Chớ trêu người nào ở cõi
trần gian / Bây giờ nước lạnh, nhang tàn /
Các quan ăn đoạn ra khỏi ngoài làng đừng
có ở đâu / Cây cao bóng mát quán cầu Hay là ở mộ nơi đâu thì về”
Quan niệm: lời chào cao hơn mâm cỗ,
bên cạnh việc nhờ cậy Pháp sư mời chúng
sinh đến thụ hưởng lễ vật, các Vãi cao tuổi
là những người “đức cao vọng trọng” cũng
có lời chào các quan mời các quan và
chúng sinh thụ hưởng lễ vật dâng cúng,
dặn dò, cầu mong phù hộ cho xóm làng,
gia chủ. Các bài chào giầu cũng thường
gồm 3 phần: mời đến, mời ăn và mời ra,
những bài “chào giầu” này được viết theo
thể tự do phần nào thể hiện sự thương xót
chúng sinh của các Vãi với mong muốn các
chúng sinh “vui lòng ấm bụng”, “tịnh độ
siêu sinh, quy y Phật quốc”. Kêu gọi các cô
hồn nghe ba lời “chúc thực” ở đâu thì vào

thụ hưởng lễ vật, nhận manh áo thoi vàng,
kim ngân, những người không tên từ già
tới trẻ, từ các quan cho đến người hành
khất, người ở bới lá bới lau hay chính là
mọi giai cấp trong xã hội xưa và nay đều
được mời về chốn bản đàn để được giáo
hóa và mong được giải thoát khỏi trong lục
đạo trầm luân nhiều bề khổ. Các bài cúng
đều chứa đựng giá trị nhân văn, cung kính
khi mời đến, thành tâm khi chúc thực và
nhã nhặn khi mời ra. Chúng sinh ở mọi lứa
tuổi nào là trẻ nhỏ, cô nhi “lên một, lên
hai”, có cả người “mười lăm, mười tám
hòa là hai lăm”, những người già cả mắt
mờ chân chậm hay những người cực khổ
phải ở “bới lá bới lau” đều được thỉnh mời
về bằng lòng thành kính. Tư tưởng công
bằng, bình đẳng cũng được gửi gắm qua
các bài cúng khi các Vãi cúng “Các quan
chia thì chia cho đều”, “Có bầu có bạn phải
biết nhường nhau” hay “Phát cho từ dưới
lên trên- Đàn bà, con trẻ đúng tên rành
105


rành- Kẻ tàn, người tật một manh - Đừng
cậy người lớn mà khinh bé gầy - Thiếu đủ
thì đã có thầy”… tất cả đều là chúng sinh
thì phải được bình đẳng. đó là ước nguyện
muôn đời mà nhân dân muốn gửi gắm

không chỉ đối với chúng sinh mà còn cả
với người đang sống. Bài cúng tuy câu chữ
tự do, nôm na được người dân trong vùng
truyền tai nhau để lưu giữ khi lập đàn chẩn
tế phổ độ cô hồn nhưng nó rất hay, rất đẹp,
rất nhân văn bởi tấm lòng nhân đạo, sự
thương xót và lòng cầu mong giải thoát mà
nhân dân dành cho các cô hồn không ai
đơm cúng.
Như vậy, các bản văn dùng để cúng
chúng sinh của Pháp sư, các bài “chào
giầu” của các Vãi đều thể hiện tư tưởng sâu
sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo, thương
xót cho các chúng sinh không nơi nương
tựa, tư tưởng “lá lành đùm lá rách” không
chỉ thể hiện khi con người còn sống với
nhau mà cả khi về thế giới bên kia, những
cô hồn không ai đơm cúng cũng được nhân
dân hướng tới như một sự cưu mang, cảm
thương với họ.
3. Kết luận
Có thể nói, đối với việc nghiên cứu,

Ngày nhận bài: 24/12/2015

tìm hiểu, khám phá những nét đẹp văn hóa
dân gian là những điều cần thiết phải làm,
nhất là trong thời hội nhập như hiện nay.
Nghiên cứu về văn hóa dân gian từ cổ xưa
giúp chúng ta hiểu sâu sắc thêm những bản

sắc văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa
riêng biệt được bộc lộ. Phong tục hình
thành và tồn tại xuyên suốt quá trình phát
triển của dân tộc, có những phong tục
không những không bị đào thải mà ngày
càng được mở rộng hơn. Tiếp cận các
phong tục từ góc độ văn hóa, đặc biệt tà tục
cúng chúng sinh tuy không mới nhưng
nhìn nhận theo quan điểm của địa phương,
của vùng miền sẽ khơi gợi được nhiều
hứng thú, sự say mê của người nghiên cứu
đối với các phong tục cổ truyền của dân
tộc, bồi dưỡng cho mọi người thêm yêu
những truyền thống văn hóa, tư tưởng nhân
văn của cha ông từ bao đời nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Kế Bính (1915). Việt Nam phong tục.
Nxb Văn học
2. Nguyễn Lang (1979). Việt Nam Phật giáo
sử luận. Tập I, II, III. Nxb Văn học.
3. Trần Ngọc Thêm (2011). Cơ sở văn hóa
Việt Nam. Nxb Giáo dục.

Biên tập xong: 15/03/2016

106

Duyệt đăng: 20/03/2016




×