Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TỔNG QUAN VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.71 KB, 27 trang )

TỔNG QUAN VỀ CHO VAY ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1
1.1.1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh
tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Các ngân hàng có
thể được định nghĩa qua chức năng hay các dịch vụ mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày càng có nhiều các tổ
chức tài chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như cho vay, uỷ thác
đầu tư, nhận tiền gửi, ngược lại các NHTM cũng đang mở rộng và đa dạng hoá
các loại hình dịch vụ của mình. Do đó, rất dễ có sự nhầm lẫn giữa loại hình
NHTM và các trung gian tài chính khác. Peter Rose đã định nghĩa về NHTM
như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Như vậy, có thể phân biệt NHTM với các trung gian tài chính khác ở chỗ
NHTM là tổ chức kinh tế duy nhất được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán và
làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với rất nhiều hoạt động đa dạng
trong đó có ba hoạt động chính đó là: nhận tiền gửi, cho vay và hoạt động đầu
tư.
Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn của ngân hàng từ những nguồn
tiền chưa được sử dụng trong nền kinh tế với cam kết hoàn trả và trả lãi đúng
hạn. Tiền gửi tồn tại ở các dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp. Đây chính là nguồn tài nguyên quan
trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với cam kết khách


hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hoạt động này
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc
trưng của ngân hàng. Cho vay bao gồm: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng
và tài trợ cho dự án. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số
cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà
ngân hàng đã cho vay ra trong kì, dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện
đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì.
Hoạt động đầu tư được thể hiện thông qua việc ngân hàng nắm giữ các
chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài sản. Ngân hàng giữ
nhiều loại chứng khoán, có thể xếp loại theo nhiều tiêu thức, ví dụ như theo tính
thanh khoản, theo chủ thể phát hành, theo mục tiêu nắm giữ,…Theo chủ thể
phát hành có thể chia thành: chứng khoán của Chính phủ Trung ương hoặc địa
phương (do kho bạc Nhà nước phát hành); chứng khoán của các ngân hàng
khác, các công ty tài chính (bao gồm các cổ phiếu và các giấy nợ khác do các
ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp nhận thanh toán); chứng
khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu
nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết.
Các hoạt động khác bao gồm một số hoạt động như: mua bán ngoại tệ, bảo
quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản
lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị
trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi
giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ
đại lý.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Như đã trình bày ở phần trên, Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho
khách hàng vay với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong
khoảng thời gian xác định. Phân tích khách hàng trong quan hệ cho vay này
chính là phân tích cho vay. Bởi vì cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song
rủi ro cao nhất cho NHTM nên để có một món cho vay đạt chất lượng thì các
NHTM thường đưa ra một qui trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ

cho vay có rất nhiều nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập
của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn
của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy các ngân hàng thường cân nhắc kĩ
lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho vay. Đó chính
là quá trình phân tích trước và trong khi cho vay.
Mục tiêu của phân tích cho vay là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế
rủi ro. Nội dung của phân tích cho vay là thu thập và phân tích thông tin nhằm
xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của
người vay,… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án,…
Có nhiều cách phân loại cho vay, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu tôi xin
đưa ra cách phân loại khách hàng theo đối tượng khách hàng. Theo cách phân
loại này thì cho vay bao gồm cho vay khách hàng doanh nghiệp,cho vay tổ chức
tài chính và cho vay khách hàng cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp
rất đa dạng như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng dự
phòng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,…
Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp tác
xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Hình thức cho vay
đối với các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thường cho vay NHTM
nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các giao dịch
thường diễn ra trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp
luật. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm những khách hàng có nhu cầu vốn để
mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà, mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, thực
hiện các phương án sản xuất kinh doanh và đáp ứng một số yêu cầu khác. Các
phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay trả góp, cho vay
cầm cố bằng sổ tiết kiệm, cho vay theo hạn mức,…Thời hạn cho vay linh hoạt

tuỳ vào mục đích vay của khách hàng và kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng.
Lãi suất cho vay được xác định dựa trên biểu lãi suất cho vay của ngân hàng,
hoặc cũng có thể phụ thuộc vào sự thoả thuận của khách hàng và ngân hàng. Về
tài sản đảm bảo cho khoản vay bao gồm bất động sản (nhà, đất,…), động sản
(hàng hoá, máy móc thiết bị,…), số dư tài khoản tiền gửi, các chứng chỉ tiền gửi
và các giấy tờ có giá khác, tài sản có giá trị khác.
1.2
1.2 Cho vay đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
Nếu phân loại hoạt động cho vay theo đối tượng khách hàng thì hoạt động
này bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức tài chính và cho vay
khách hàng cá nhân như đã trình bày ở trên. Do đối tượng nghiên cứu của đề tài
là hoạt động cho vay KHCN của NHTM nên ta sẽ xem xét về hoạt động này.
Cho vay KHCN là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho các khách hàng là cá
nhân: “Đó là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng chuyển cho các cá
nhân quyền sử dụng một khoản tiền với những điều kiện nhất định được
thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích của khách hàng.”
Đặc điểm cho vay KHCN: Cho vay KHCN có những đặc điểm riêng thể
hiện sự khác biệt với các loại hình cho vay khác như sau:
Đối tượng cho vay là cá nhân và các hộ gia đình.
Quy mô khoản vay: hầu hết các khoản cho vay KHCN có quy mô nhỏ
nhưng số lượng khoản vay lớn, do cho vay KHCN đáp ứng nhu cầu của cá nhân
và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ, nên
quy mô của một khoản vay tương đối nhỏ so với tài sản của ngân hàng, số
lượng các khoản vay lại rất lớn do đối tượng của cho vay là các cá nhân và các
hộ gia đình với số lượng nhiều và nhu cầu tiêu dùng rất đa dạng.
Mục đích vay: nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh
nhỏ của cá nhân, hộ gia đình. Do đó, nhu cầu vay vốn phụ thuộc vào tâm lý
khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. Khi nền kinh tế có sự tăng
trưởng cao và ổn định, KHCN sẽ có thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ kỳ

vọng sẽ có khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai và do vậy sẽ thúc đẩy sự
chi tiêu cho tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại, khi nền
kinh tế suy thoái người dân thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm đầu tư
vào sản xuất kinh doanh, thay vào đó là sẽ tăng cường tiết kiệm và hạn chế vay
mượn từ Ngân hàng.
Nhu cầu vay của khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi suất, thông
thường người đi vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ
phải chịu. Mức thu nhập và trình độ dân trí là hai nhân tố tác động rất lớn đến
nhu cầu vay của khách hàng.
Rủi ro đối với cho vay KHCN: cho vay KHCN có mức độ rủi ro lớn và
được coi là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất phát
từ bản thân khách hàng vay vốn có thể có sự biến động về tình hình tài chính
dẫn đến mất khả năng chi trả hay khi khách hàng cố tình không chịu trả nợ,
hoặc do sự biến động về tình trạng sức khoẻ, công việc… Việc thẩm định khả
năng trả nợ của các cá nhân hoặc hộ gia đình cũng hết sức khó khăn. Ngoài ra,
để có được khoản vay có nhiều khách hàng giấu các thông tin về tình hình sức
khoẻ và công việc trong tương lai của mình nên các ngân hàng dễ gặp phải rủi
ro đạo đức khi cho vay. Do khoản cho vay khách hàng cá nhân có rủi ro cao
nhất nên các ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản đảm bảo khi vay và yêu
cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm cho
hàng hoá đã mua.
Lãi suất cho vay: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ (trừ những
khoản cho vay để mua bất động sản), dẫn đến chi phí để cho vay (về thời gian,
nhân lực đi thẩm định, quản lý các khoản cho vay này) cao đồng thời rủi ro của
các khoản vay này cũng rất cao. Do vậy, lãi suất cho vay KHCN thường cao
hơn lãi suất các khoản cho vay khác của NHTM.
Từ trước đến nay, cho vay KHCN vẫn được các ngân hàng coi là khoản
mục mang lại lợi nhuận khá cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là
nó đủ để bù đắp chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các
khoản cho vay khác hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như

vậy với cho vay KHCN ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy
động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao
(vì đã bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay
vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết
các khoản cho vay KHCN mới không mang lại lợi nhuận.
Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập, thu nhập này có thể
thay đổi tuỳ theo tình trạng công việc, sức khoẻ của người vay cũng như tình
hình sản xuất kinh doanh của họ. Những khách hàng có việc làm, mức thu nhập
ổn định, có trình độ học vấn hoặc có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả là
những tiêu chí quan trọng để ngân hàng thương mại quyết định cho vay.
Hạn mức cho vay KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho khách hàng
vay. hạn mức cho vay KHCN được xác định dựa trên các yếu tố như: nhu cầu
vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, giá trị của tài sản đảm bảo.
Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn mức
khác nhau dựa trên giá trị tài sản đảm bảo hoặc nhu cầu vay hợp lý. Thông
thường, cho vay cầm cố có hạn mức cao nhất, chẳng hạn như nếu khách hàng
cầm cố sổ tiết kiệm, trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi có thể được cấp một hạn
mức bằng 90% giá trị tài sản cầm cố. Để có thể xác định được hạn mức tín dụng
dựa trên tài sản đảm bảo của khách hàng, các ngân hàng cần phải định giá chính
xác tài sản đó. Nếu định giá quá thấp sẽ làm giảm số tiền vay của khách hàng,
nếu định giá quá cao sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý (Nhu cầu vay hợp lý
của khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý - vốn tự có của khách hàng - vốn khách
hàng vay mượn từ nguồn khác) và hạn mức tín dụng, từ đó xác định số tiền cho
vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách
hàng vay theo hạn mức tín dụng, nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn mức tín dụng thì
ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay hợp lý của khách
hàng. Như vậy, sẽ vừa thoả mãn nhu cầu vay của khách hàng vừa để đảm bảo an
toàn cho ngân hàng.
1.2.2 Phân loại cho vay khách hàng cá nhân

Để có thể quản lý tốt cho vay KHCN cần thiết phải phân loại cho vay
KHCN. Có nhiều tiêu thức để phân loại một khoản cho vay, dưới đây tôi xin đề
cập phân loại các khoản cho vay KHCN theo một số tiêu chí sau

• Căn cứ vào mục đích vay
Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại cho vay KHCN thành ba loại:
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích cư trú
Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải
tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của khoản vay này là thời gian dài
và quy mô vay là lớn.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng
Đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm
phương tiện, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành, giải trí,… Đặc điểm của
khoản vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn, rủi ro thấp hơn cho vay phục vụ
mục đích cư trú.
Cho vay KHCN nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh
Đó là các khoản cho vay để thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh
nhỏ ở từng hộ gia đình, vay để buôn bán, thuê cửa hàng,… Đặc điểm của các
khoản cho vay này là thời hạn thường dài, qui mô tuỳ thuộc vào phương án kinh
doanh của khách hàng, rủi ro của khoản cho vay này rất cao, và có khả năng xảy
ra rủi ro đạo đức.

• Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Cho vay KHCN trả một lần khi đáo hạn
Là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu
tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui mô
của món vay là tương đối nhỏ, các khoản vay trả một lần thường ngắn hạn và
được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, mua các dụng cụ gia đình hoặc sửa
chữa ô tô, nhà ở… Rủi ro các món vay này là không lớn lắm.
Cho vay trả góp

Là khoản cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh toán làm hai hoặc
nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý). Khoản cho vay được trả làm
nhiều lần theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng, phương thức này được
dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, nhà,… hoặc để
tài trợ cho các phương án sản xuất kinh doanh, thuê cửa hàng, mua sắm các tài
sản lưu động khác,… Nhìn chung, các khoản cho vay trả góp này mang lãi suất
cố định, tuy nhiên loại mang lãi suất thả nổi cũng đang dần trở nên phổ biến.
Thường thì trong tổng khối lượng cho vay tiêu dùng do các NHTM cung cấp thì
hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này xuất phát từ việc khả năng
tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất thêm
vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương là thuận lợi hơn.
Hình thức cho vay này lại được chia nhỏ thành: cho vay trả gốc và lãi hàng
tháng đều nhau (niên kim cố định), trả gốc hàng tháng bằng nhau, lãi trả theo số
dư gốc (niên kim không cố định), hoặc trả lãi hàng kì còn gốc trả cuối kì.
Cho vay theo thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ngân hàng cũng như các loại thẻ thanh toán khác đã nhanh
chóng được chấp nhận sử dụng, thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng
thường xuyên và quay vòng mà khách hàng có thể sử dụng bất cứ khi nào họ có
nhu cầu. Những người sử dụng thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần
vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình. Trong
tương lai thẻ tín dụng sẽ rất phát triển bởi công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho những
người sở hữu thẻ tín dụng có thể tiếp cận đến một số lượng lớn các dịch vụ tài
chính, bao gồm cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh toán cũng như hạn
mức tín dụng.

• Căn cứ vào hình thức cho vay
Cho vay gián tiếp:
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của
các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho
KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh

nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng.
Hình thức cho vay này có những ưu điểm sau:
- Các NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay.
- Các NHTM sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay.
- Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động khác của ngân hàng.
-Nếu NHTM quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho
vay KHCN gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay KHCN trực tiếp.
Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những hạn chế:
- Các ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực tiếp với
khách hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ, nhất
là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của doanh nghiệp và ngân
hàng không giống nhau.
- Thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng cả trước, trong và sau khi vay vốn, khi
doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá và dịch vụ.
- Kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này rất phức tạp.
Cho vay trực tiếp
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để
tiến hành cho vay hoặc thu nợ.
Hình thức này có những ưu điểm sau:
Việc cho vay tiến hành trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng do vậy
ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, và kĩ năng
của cán bộ tín dụng, do đó các khoản vay này thường có chất lượng cao hơn so
với cho vay gián tiếp thông qua các doanh nghiệp bán lẻ.
Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản
vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến
việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các

×